Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Những thành tựu kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1986 – nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.1 KB, 47 trang )

Mục Lục

A. Dẫn luận.
1. Thông tin đề tài.
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những biến
động phức tạp. Mô hình chủ nghĩa xã hội quan liêu bao cấp ngày càng tỏ ra trì trệ
và kém hiệu quả. Một số nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và vào thời
điểm đó tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới, kinh tế - xã hội của nước ta cũng bộc lộ
những khó khăn trên nhiều lĩnh vực. Những bức xúc của tình hình đất nước cùng
với xu thế của thời đại đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đổi mới để tìm tòi bước đi,
hình thức và biện pháp thích hợp để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục đi
lên. Đổi mới được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn của cách
mạng xã hội chủ nghĩa nước ta, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa phù hợp với xu thế
chung của thời đại.
Trên phương diện quản lý kinh tế, đổi mới là quá trình chuyển đổi từ cơ chế
quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ
nền kinh tế hiện vật tự cung tự cấp, khép kín sang nền kinh tế mở với sự thâm nhập
của công nghệ hiện đại ngày càng tăng; từ chỗ Nhà nước độc quyền quản lý sang
kết hợp giữa Nhà nước và thị trường.


Công cuộc đổi mới được triển khai toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống
xã hội nhưng được đặt trọng tâm ở lĩnh vực kinh tế, mang ý nghĩa là sự nghiệp cải
biến cách mạng vĩ đại nhằm khơi dậy, giải phóng và phát huy mọi nguồn lực cho
phát triển. Đổi mới đã tạo ra động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, đem lại biến
đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống, có ý nghĩa to lớn trong việc giải
phóng và phát huy các tiềm năng phát triển. Nền kinh tế thị trường thúc đẩy cạnh
tranh và qua đó kích thích người lao động làm việc, tạo lập môi trường kinh tế - xã
hội để mọi người phát huy tài năng, sức lực và nguồn vốn để làm giàu cho bản
thân, gia đình và đóng góp cho xã hội. Kinh tế thị trường với vị thế là một “công
nghệ hiện đại nhất” để phát triển kinh tế, tác động mạnh đến xu hướng biến đổi của


đạo đức, kích thích tính năng động, sáng tạo cá nhân. Cùng với thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng dành nhiều quan tâm đến giải quyết công
bằng xã hội và thu được những kết quả quan trọng về xóa đói giảm nghèo và trong
các lĩnh vực khác của phát triển xã hội (nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải
quyết việc làm, phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe nhân dân,...). Nhờ công cuộc
đổi mới, đất nước đã vượt qua những khó khăn, ra khỏi khủng hoảng kinh tế và có
bước tăng trưởng khá nhanh, giữ vững được ổn định chính trị - xã hội, củng cố
quốc phòng - an ninh, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây
cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Sự nghiệp đổi mới
càng đi vào chiều sâu, nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội càng được đẩy nhanh,
thành tựu đạt được càng lớn; sức mạnh tổng hợp và vị thế nước ta trên trường quốc
tế không ngừng được nâng cao, tạo điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế.
Để tìm hiểu rõ thêm về thành tựu này, nhóm em xin làm đề tài : “Những
thành tựu kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1986 – nay”.


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Viết về Đổi mới và đổi mới kinh tế thì hiện nay khá là nhiều tư liệu. Tuy
nhiên, để viết về thành tựu kinh tế và làm rõ nó thì còn là điều khá mới mẻ. Do đó,
các tài liệu của nhóm em chủ yếu đề cập đến các tài liệu có liên quan, để phục vụ
việc viết đề tài
Nhóm tư liệu về văn kiện, văn bản, quyết định liên quan.
-

Tư liệu văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam toàn tập, Văn kiện Đảng Đại

-

hội VIII, IX, X, XI, XII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế

-

- xã hội năm 2012 và 5 năm 2011 – 2015
Công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2012, Cổng thông tin điện
tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

Nhóm tư liệu các sách chuyên khảo .
-

GS.TS Phạm Quang Minh, Việt Nam sau 30 năm Đổi mới, DHQG Hà Nội.

- GS. Phùng Hữu Phú, Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm Đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nhóm tư liệu các bài báo.
- Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi
mới (1986 - 2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia,
H, 2006.
- Dương Ngọc: Kinh tế Việt Nam: 67 năm qua các con số, VnEconomy.
- Phạm Xuân Nam: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội trong mô hình phát triển của Việt Nam ở thời kỳ đổi mới, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt nam, số 12-2010.


- Nguyễn Duy Quý: Công cuộc đổi mới: những thành tựu và bài học kinh
nghiệm, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Làm rõ những thành tựu kinh tế của Việt Nam sau 30 năm thực hiện đường lối

Đổi mới.
4. Đối tượng nghiên cứu.
- Là những thành tựu kinh tế của đất nước được biểu hiện qua các số liệu,
chỉ số kinh tế.
- Là những thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Là cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Không gian: Trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian: từ năm 1986-nay.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp
phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và phương pháp so sánh.
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung đề
tài được chia làm 3 chương:


Chương I. Bối cảnh Đổi mới kinh tế.
Chương II. Thành tựu kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1986 – nay.
Chương III. Những tồn đọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

Chương I. Bối cảnh công cuộc Đổi mới kinh tế.
1. Tình hình trong nước.
Trong nhiều thập kỷ trước đổi mới, cũng giống như ở các nước XHCN khác,
Việt Nam thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình
XHCN được quan niệm lúc bấy giờ. Theo đó, chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về
tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hóa tập trung đóng vai trò là những yếu tố chủ

đạo của mô hình phát triển nền kinh tế quốc dân.
Cần nhấn mạnh rằng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân Việt
Nam phải ra sức động viên và tập trung sức mạnh toàn dân tộc để vừa xây dựng
đất nước, vừa thực hiện cuộc chiến tranh không cân sức nhằm bảo vệ độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc. Việc thực hiện mô hình phát triển này đã mang lại những
kết quả to lớn không thể phủ nhận. Đó là sự bảo đảm quyết định để giành thắng lợi
trong cuộc chiến giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, tạo lập những cơ sở vật chất - kỹ
thuật ban đầu rất quan trọng của XHCN, mang lại cho nhân dân cuộc sống tự do,
việc làm, quyền làm chủ xã hội cùng với những cải thiện đáng kể trong đời sống
vật chất và tinh thần.
Tuy nhiên, thực tế trước đổi mới, nhất là của hơn 10 năm tiến hành xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước (1975 - 1986), chứng tỏ rằng trong nền kinh tế mang
đậm bản sắc nông dân - nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, mô hình
phát triển gắn với cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở trình độ cao có những khiếm


khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực
kinh tế. Sau nhiều năm vận hành trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở trình độ
cao, tuy đất nước có đạt được những thành tựu to lớn, song nhiều vấn đề mấu chốt
và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết
đầy đủ ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức
phát triển ; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng ; nhiệt
tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa
được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn.
Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở trình độ cao, nền kinh tế
Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy
cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng
thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin của
quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút.
Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng

hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng Cộng sản và Nhà nước
Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các
mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là
phải tháo gỡ các ràng buộc về mô hình kinh tế và thể chế để giải phóng các nguồn
lực phát triển của đất nước.
Cần phải nói rằng ngay khi đất nước mới lâm vào khủng hoảng, trong nền
kinh tế Việt Nam, dưới áp lực của thực tiễn, đã diễn ra hai cuộc thử nghiệm quan
trọng : 1) áp dụng chế độ khoán sản phẩm đến hộ gia đình nông dân trong HTX
nông nghiệp và 2) triển khai chế độ "kế hoạch 3 phần" ở các xí nghiệp công nghiệp
quốc doanh. Về nguyên tắc, cả hai cuộc thử nghiệm này đều diễn ra theo một xu
hướng chung : nới lỏng các ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mở rộng
hơn phạm vi hoạt động của các quan hệ thị trường, trao nhiều quyền chủ động kinh


doanh hơn cho các chủ thể kinh tế và người lao động. Phong trào lan rộng ra khắp
nền kinh tế và đã nhanh chóng đưa lại những thành tựu nổi bật, trước hết là trên
mặt trận nông nghiệp.
Tuy nhiên, kết quả của xu hướng cải cách này còn bị hạn chế do việc thực
hiện những cải cách theo hướng thị trường mới mang tính cục bộ và chỉ dừng lại ở
cấp vi mô, trong khuôn khổ cố gắng bảo tồn cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở tầm
vĩ mô. Vì vậy, những cuộc thử nghiệm này tuy đưa đến những thành tựu nổi bật
trong nông nghiệp nhưng vẫn không ngăn cản được cuộc khủng hoảng ngày càng
trở nên trầm trọng. Tình hình đó đã khiến cho đổi mới trở thành một nhu cầu hết
sức bức bách, là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống.
Nhận rõ nhu cầu bức thiết ấy, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (121986) đã chính thức khởi xướng sự nghiệp đổi mới, mà trọng tâm ở đây chính là
Đổi mới về lĩnh vực kinh tế.
2. Tình hình Quốc tế.
Giữa lúc Việt Nam chính thức quyết định tiến hành công cuộc đổi mới, trên
thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng. Những biến đổi ấy vừa có ảnh
hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể

tham khảo với các mức độ khác nhau. Đó là:
1. Công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc theo hướng thị trường - mở cửa
bắt đầu diễn ra từ năm 1978. Tiếng vang của những thành tựu cải cách nổi bật mà
Trung Quốc thu được đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam quan tâm do có sự
tương đồng nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước, mặc dù trong
thời gian này quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vẫn còn căng thẳng, chưa được bình
thường hóa.


Giai đoạn này gọi là giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1986): Đảng
Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”,
chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy
xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán
ruộng đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở
rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến
hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây
dựng các đặc khu kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã
phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và
ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết
hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984, cải cách xí nghiệp quốc hữu là
trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn
chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1986), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm,
từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế
kinh tế kế hoạch.
Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến
lịch sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước
chuyển biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa.
2. Sự không thành công của công cuộc cải tổ đã dẫn tới sự sụp đổ của CNXH

ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu là một bài học phản diện. Sự sụp đổ đó là bằng
chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch trơn", sử dụng
"liệu pháp sốc", giải quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
quá trình cải tổ. Cái giá phải trả là rất đắt.


Bài học kinh nghiệm về công tác kinh tế được rút ra thông qua biến cố này là
xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc lập tự chủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Sự ổn định và phát triển vững chắc của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo
đảm sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng
hoảng suy thoái, đất nước dễ lâm vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho các
thế lực thù địch lôi kéo, kích động nhân dân chống lại Đảng và chính quyền, làm
chuyển hóa chế độ xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia, không để cho bất kỳ
một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh tế. Cần duy trì được tốc độ tăng
trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực nội sinh, tạo được nhiều việc làm
để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công bằng xã hội, an sinh xã hội, tạo cơ
sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển bền vững. Mở rộng hội nhập quốc tế
trong điều kiện toàn cầu hóa, đặc biệt là hợp tác về kinh tế là xu thế khách quan mà
các nước XHCN phải tham gia, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển được.
Vấn đề đặt ra là các nước XHCN mở rộng hội nhập quốc tế để tận dụng được
những thành tựu khoa học cộng nghệ, tận dụng được nguồn lực tài chính của các
nước phát triển làm cho sản xuất của đất nước ngày càng lớn mạnh đủ sức canh
tranh, lợi ích quốc gia - dân tộc và cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày càng
được củng cố.
3. Thành công của các nước "công nghiệp mới" ở Đông Á đưa ra những gợi ý
về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát từ những

nước nông nghiệp và có quan hệ xã hội theo kiểu những giá trị văn hóa phương


Đông. Đó là những thành công của các chiến lược phát triển: phát huy mạnh nội
lực, thị trường - mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Thuật ngữ “các nước mới công nghiệp hóa” được bắt đầu sử dụng phổ biến từ
những năm 1970. Nhóm bốn nước và vùng lãnh thổ Đông Á bao gồm Đài Loan,
Hàn Quốc, Hồng Kông và Singapore, còn được biết đến với tên gọi “Những con hổ
châu Á” (Asian Tigers).
Đối với ba nền kinh tế mới công nghiệp hóa còn lại ở Châu Á, lĩnh vực sản
xuất được xem là động lực cho sự phát triển kinh tế nhờ tận dụng được lợi thế so
sánh về chi phí đầu vào trong tương quan với các nước công nghiệp phát triển. Có
thể kể tên một số ngành công nghiệp sản xuất góp phần vào sự phát triển kinh tế
của các nước này như ngành chế tạo và sản xuất ô-tô, sản xuất hàng điện – điện tử
tiêu dùng, đóng tàu, công nghiệp sản xuất thép và dệt may. Ngoài ra, chế độ chính
trị ổn định và nền kinh tế mở tạo điều kiện cho việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng
là những nhân tố góp phần vào sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của các nước này.
Bốn con hổ Châu Á được xem là những nước mới công nghiệp hóa thuộc thế
hệ thứ nhất. Các nước và vùng lãnh thổ này ngày nay đều được xếp vào nhóm các
nước có thu nhập bình quân đầu người cao.
4. Xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang từng bước thay thế xu
hướng đối đầu và xung đột. Tình huống này buộc các quốc gia phải định hướng lại
tư duy về các vấn đề phát triển. Khác hẳn trước đây, trong hoàn cảnh phát triển
mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành nhu cầu tự thân bên trong đối
với nền kinh tế nông nghiệp vốn mang đậm tính chất khép kín, tự cấp tự túc của
Việt Nam.


Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới, sau khi mất dần các nguồn viện trợ
từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, phải cần đến các thị trường kinh tế mới

để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu dân sinh, phát triển
và làm chủ công nghệ nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn,
khủng hoảng.
Toàn bộ tình hình trên đây, ở trong cũng như ngoài nước đã tác động đến Việt
Nam về cả hai phương diện. Một mặt, nó đòi hỏi phải đổi mới tư duy phát triển,
đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế theo một phương thức mới. Mặt khác, nó tạo ra
các cơ hội và điều kiện để sự thay đổi đó diễn ra thuận lợi. Đó là điểm khởi đầu cả
về lịch sử lẫn lý luận của quá trình đổi mới.

Chương II. Thành tựu kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội 1986 – nay.
2.1 Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những
yếu kém và có những bước phát triển.
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong
đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng
28%/năm 1. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng
1 Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005), trong Việt Nam 20 năm đổi
mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141.


trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ
thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều
quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và
bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.

Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình
trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch
vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu
tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 19902. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt
nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc,
song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”3.
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư
nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng

2 Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 143
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H,
1996, tr. 12.


5,2%4. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân
là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”5.
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu,
việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả
nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm
sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%;
trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành

dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm
2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu
người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các
nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) 6. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm
phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về
xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao
su; …
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo
đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được
nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế,
từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải
cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển
nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…

4 Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 144
5 Hà Đăng: Đổi mới - Những thành tựu lớn, trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Sđd, tr. 572.
6 Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 146.


Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm
lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ
nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP
bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77%
so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD,
gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá

thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 20007.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực8.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam
đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên
thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên
2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm)9.
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn
thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước
tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 151
8 Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và 5 năm 2011 - 2015,
chinhphu.vn
9 Dương Ngọc: Kinh tế Việt Nam: 67 năm qua các con số, VnEconomy


giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và
bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% 10. Kim ngạch xuất khẩu
có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm
2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 72012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ
1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD11.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển

một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam
tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình
quân đầu người ở nước ta mới đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền
kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD.
Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng
trưởng có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được nâng lên.

10 Công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2012, Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
11 Dương Ngọc: Tài liệu đã dẫn


2.2 Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường.
Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp môi trường đầu tư liên tục
được cải thiện, nhờ đó thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Cơ
cấu kinh tế của Việt Nam bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ cấu
ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực
dịch vụ và công nghiệp.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005
còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế
cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
38,1% năm 2005.
Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc cả nước còn thiếu ăn, nay trở thành nước
xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh
lương thực quốc tế; xuất khẩu cà-phê, cao-su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối
lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới. Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng
dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp,
giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô.
Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ
triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm
công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong


nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành
công nghiệp mới, công nghệ cao.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu
cầu phát triển bền vững được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, điện, thông tin, viễn
thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ,
nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng
kinh tế tri thức.
2.3 Thực hiện hiệu quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
tích cực phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Ba mươi năm đổi mới kinh tế cũng đã chứng kiến vai trò tích cực của các chủ
thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy
định của pháp luật:
-


Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà
nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang
giảm mạnh về số lượng. Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất
lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới
một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy
quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tập thể


bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp
hơn với cơ chế thị trường.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao
hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP, huy
động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động
lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; được khuyến
khích phát triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có những đóng
góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết
việc làm và xuất khẩu; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công
nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho
nhiều người dân.
Ngoài ra còn có các tổ chức xã hội - nghề nghiệp không ngừng phát triển và
ngày càng phát huy vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế.
2.4 Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn thiện từng
bước, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố
thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị

trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ có bước phát triển và
hoàn thiện về quy mô, cơ cấu hàng hóa - thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ
tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức độ cạnh tranh. Thị trường tài chính,
tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh huy động vốn từ ngân
hàng, thị trường chứng khoán bước đầu hình thành, góp phần đa dạng hóa nguồn


vốn đầu tư. Đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào
việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Thị trường bất động sản có bước phát triển nhanh chóng. Thị trường lao
động được hình thành trên phạm vi cả nước. Thị trường khoa học - công nghệ đang
hình thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch công nghệ có bước tiến đáng
kể trong những năm gần đây. Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản, nhất là
về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài ngân
sách nhà nước tham gia.
Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của
Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây
dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế
hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi
trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị
trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát
triển mạnh.
Qua 30 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế cơ bản gắn kết hài hòa với phát
triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên
và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải
quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các

thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp
nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp
pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm;


hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, nhất là trong vấn
đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính
sách ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, chính sách bảo hiểm y tế toàn
dân tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo
dục. Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn, Việt Nam đã tăng thêm ngân
sách và huy động nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời hoàn
thành trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường
toàn cầu. Quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày
càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO),...
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh
thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, Việt Nam đã ký
kết mười Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương (gồm sáu FTA ký
kết với tư cách là thành viên ASEAN; bốn FTA đàm phán với tư cách là một bên
độc lập); vừa hoàn tất đàm phán hai FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích
cực đàm phán ba FTA khác (ASEAN - Hồng Công; EFTA; RCEP). Việc tham gia
ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, nhất là đến nay
Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với
nền kinh tế toàn cầu đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi
giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng



dệt may và da giày,… đã tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế
đối ngoại.
Những thành tựu đạt được nêu trên là nhờ có nhận thức đúng đắn, đổi mới tư
duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của phát triển kinh tế thị trường; quyết định
chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực
tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và
hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày
càng tốt vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi mới tư duy
kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh
đạo và kiểm tra về phát triển kinh tế.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại
trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để; là
sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
từng bước hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Môi trường đầu tư
không ngừng được cải thiện, thế và lực của nước ta vững mạnh, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy
nhanh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân.


Chương III. Những tồn đọng trong nền kinh tế Việt Nam

hiện nay.
-

Công nghiệp sản xuất chưa phát triển và đóng vai trò chủ đạo.


Sau hơn 30 năm đổi mới, công nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước. Cụ thể, theo số liệu
tính đến điểm mốc năm 2015 của giai đoạn 2011-2015, ngành công nghiệp và xây
dựng đóng góp hơn 38,5% giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tỷ trọng hàng
công nghiệp xuất khẩu (nhóm nhiên liệu, khoáng sản và nhóm hàng công nghiệp
chế biến) chiếm 79,38% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sản phẩm công
nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú hơn về chủng loại, chất lượng
được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của
nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Mặc dù về cơ bản đã đạt được những mục tiêu đặt ra, ngành công nghiệp cần
khắc phục một số vấn đề tồn tại, hạn chế cụ thể như: Tăng trưởng ngành công
nghiệp chưa thật bền vững, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp thấp, thể hiện chất
lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành còn chậm được cải thiện.
Đặc biệt, ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất hiện nay lại khá nhỏ về cả về
quy mô vốn và lao động. Như chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam nhận định: “Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam vẫn chưa có được một thế hệ các
nhà công nghiệp ngang tầm thế giới. Chỉ 14% doanh nghiệp Việt có lĩnh vực hoạt
động chính là chế tạo”12.
Thực tế, ngành công nghiệp chế tạo sản xuất là xương sống của bất kỳ mô
hình kinh tế nào, là động lực thúc đẩy và phát triển nền kinh tế quốc dân. Đóng góp
của các ngành công nghiệp chế tạo sản xuất cho GDP hiện nay tương đối thấp,
chưa tương xứng với tiềm năng mà ngành công nghiệp nghiệp mang lại, chưa trở
thành cơ sở thúc đẩy cho tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nước nhà.


12 Vũ Phong, Báo điện tử TrithucVN, Báo cáo CPI 2017: Doanh nghiệp Việt ngày càng nhỏ đi.


Các ngành công nghiệp chế tạo chủ yếu sử dụng các linh kiện và phụ tùng
nhập khẩu. Đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam chỉ dừng lại ở việc tham gia
khâu lắp ráp, là khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi gia tăng giá trị,
gia tăng chỉ có 36% trong khi đấy nhiều nước Đông Nam Á đạt 60-70%.
Trên thực tế, những hạn chế, tồn tại của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
đã được các bộ ngành nhìn nhận, mổ xẻ lâu nay nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra
được giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Trong đó, điểm yếu
kém nhất kìm hãm sự phát triển của ngành này chính là bộ phận công nghiệp hỗ trợ
- dù được bàn thảo nhiều - nhưng không thể phát triển, thậm chí rất èo uột, dẫn đến
các sản phẩm công nghiệp Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Tỷ lệ nhập
khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu, nhất là nguyên liệu gia công sản xuất, thể hiện tính
gia công trong ngành còn lớn, phụ thuộc nhiều vào thị trường cung cấp ở bên
ngoài, khiến nền kinh tế gặp bất lợi mỗi khi giá cả thế giới biến động tăng, làm
tăng chi phí sản xuất trong nước, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu.
Bên cạnh đó, hiệu quả sản xuất lĩnh vực cơ khí còn thấp, trình độ thiết kế, chế
tạo chưa đủ chủ động để sản xuất được nhiều sản phẩm có giá trị và có hàm lượng
công nghệ cao để giải quyết những vấn đề ngành đặt ra nhằm đáp ứng nhu cầu thị
trường. Sản xuất công nghiệp vẫn chưa tham gia được nhiều vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là trong các ngành sản xuất cho xuất khẩu, như: dệt
may, da giày...
Ngoài ra, các ngành công nghiệp phụ trợ yếu, một số lĩnh vực của ngành chế
biến sản phẩm nông nghiệp còn thiếu đồng bộ và kém phát triển dẫn đến những tồn
tại nhất định cho phát triển nông nghiệp; tốc độ đổi mới sáng tạo, đổi mới công
nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân còn thấp ngay cả với các nước
trong khu vực; sự phân bố không gian phát triển công nghiệp giữa các vùng còn



thiếu gắn kết; trình độ lao động công nghiệp vẫn ở mức thấp và tỷ lệ phân bố trình
độ đào tạo mất cân đối; các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp có nhiều
nhưng không hiệu quả.
-

Giá nông sản sụt nghiêm trọng, cạnh tranh khó khăn.

Việt Nam là nước có hơn 70% dân số sống chủ yếu bằng nông nghiệp, việc
nông sản liên tục bị sụt giá trong thời gian qua có tác động không nhỏ đến kinh tế
của nhiều hộ gia đình.
Từ nhiều năm gần đây, có không ít các đợt kêu gọi “giải cứu nông sản” trên
toàn quốc, nổi bật là cuộc giải cứu giá thịt lợn năm ngoái, giải cứu dưa hấu… và
mới đây nhất, các nông dân ở phía Bắc đang lâm cảnh túng quẫn khi su hào, củ cải
đến mùa thu hoạch phải nhổ bỏ, cho bò ăn… vì giá bán còn “rẻ hơn cho”.
Người nông dân bị phụ thuộc vào các thương lái Trung Quốc dẫn đến tình
trạng “được mùa ép giá”, bán ra với mức giá lỗ. Trong khi nông sản đến tay người
tiêu dùng thì giá vẫn ở mức không hề rẻ bởi phải kênh qua quá nhiều loại thuế phí
và khâu trung gian. Điều này dẫn đến một nghịch lý người mua không được mua
sản phẩm với giá tốt, người bán thì bị ép giá phải bán lỗ.
Mặc dù giá rau trong nước đang giảm ở mức thấp kỷ lục, nhưng nhập khẩu
rau từ các nước trong 2 tháng đầu năm 2018 vẫn tăng mạnh. Cụ thể, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết trong 2 tháng đầu năm nay, giá trị nhập
khẩu mặt hàng rau ước đạt 72 triệu USD (hơn 1.600 tỷ đồng), tăng hơn gấp hai lần
so với cùng kỳ năm 2017. Tính riêng trong tháng 2, Việt Nam đã nhập khoảng
3.000 tấn rau từ Trung Quốc.
Điều này cho thấy một thực tế rằng các nhà làm chính sách và nông dân chưa
có được tiếng nói chung trong quy hoạch tổng thể từ việc trồng cây gì, con gì cho



×