Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Báo cáo tốt nghiệp XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN (luật dân sự)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.06 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN

Kon Tum, tháng 6 năm 2019


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP

XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
SINH VIÊN THỰC HIỆN
LỚP
MSSV

:
:
:
:

NGUYỄN THỊ TRÚC PHƯƠNG
HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH


K915LK2
15152380107065

Kon Tum, tháng 6 năm 2019


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................................. II
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài................................................................1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...............................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài..............................................................................2
CHƯƠNG 1TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP...................................................3
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của đơn vị.........................................................3
1.2. Kết quả công tác thi hành án dân sự......................................................................3
1.3. Về công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự....................3
1.4. Về công tác tổ chức - cán bộ..................................................................................5
1.5. Về cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động..............................6
1.6. Nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan hữu
quan trong công tác thi hành án dân sự (trong đó nêu rõ sự phối kết hợp trong công
tác thi hành án dân sự)....................................................................................................6
1.7. Sơ đồ tổ chức............................................................................................................7
CHƯƠNG 2. XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN..............................................8
2.1.LÝ THUYẾT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN.................................8
2.1.1.Quy định của pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án...................................9
2.1.2.Một số dạng vi phạm thường gặp khi kiểm sát việc xác minh điều kiện Thi hành
án dân sự.......................................................................................................................... 15
2.1.3. Một số kinh nghiệm khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án..............17
2.2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN....20

2.2.1.Thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện Thi hành án trên phạm vi cả nước 20
2.2.2.Thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện Thi hành án trên địa bàn huyện
Thăng Bình...................................................................................................................... 24
2.3.GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ.......................................................................................26
2.3.1. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện Thi hành
án dân sự.......................................................................................................................... 26
2.3.2. Các kiến nghị, đề xuất........................................................................................27
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 28
DOANH MỤC THAM KHẢO......................................................................................29
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN...................................................................30

i


LỜI CẢM ƠN
Để báo cáo này đạt kết quả tốt đẹp, em đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của đơn vị. Với
tình cảm sâu sắc, chân thành, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả các
cá nhân và đơn vị đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình thực tập.
Trước hết em xin gởi tới cô Nguyễn Thị Trúc Phương lời chào trân trọng, lời chúc sức
khỏe và lời cảm ơn sâu sắc. Với sự quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình chu đáo của cô,
đến nay em đã có thể hoàn thành báo cáo thực tập.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới đơn vị thực tập – Thi hành án huyện
Thăng Bình đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành tốt báo cáo.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến lãnh đạo Trường Phân Hiệu Đà Nẵng tại Kon Tum.
Khoa Sư phạm và dự bị đại học đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực tập.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên, báo cáo
này không thể tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp
ý kiến của các thầy cô để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt
hơn công tác thực tế sau này.
Xin chân thành cảm ơn!


ii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá
trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi
được thi hành trên thực tế. Hoạt động Thi hành án dân sự bảo đảm cho bản án, quyết định
của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và lợi ích của Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Điều 136 Hiến pháp năm 1992 của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: "Các bản án và quyết định của
Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và
đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh thi hành". Ngoài quy định của Hiến pháp năm 1992,
tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1995),
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị
quyết số 08/NQ-TW
Ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQ-TW), Nghị quyết Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004) và Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 48/NQ-TW), Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49/NQ-TW) cũng đã đề cao tầm quan trọng của
hoạt động THADS. Với nhiệm vụ thể chế đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
vào hệ thống pháp luật, tại kỳ họp thứ 5, ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII
đã thông qua Luật Thi hành án dân sự.

Luật Thi hành án dân sự là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động Thi hành
án dân sự, đã kế thừa, phát triển và pháp điển hóa được các quy định về Thi hành án dân
sự trước đó phù hợp, tiến bộ, đồng thời tham khảo có chọn lọc các quy định của các nước
về vấn đề này. Một trong những nội dung mới của Luật Thi hành án dân sự là quy định rõ
ràng hơn về trình tự, thủ tục Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án, phí Thi
hành án, vấn đề xác minh điều kiện thi hành án... Tuy nhiên, sau hơn bốn năm triển khai
thực hiện Luật Thi hành án dân sự cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập trong đó
có vấn đề xác minh điều kiện Thi hành án nên cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Xuất
phát từ lý do đó, sinh viên đã chọn đề tài "Xác minh điều kiện Thi hành án" nghiên cứu
làm bài báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về XMĐKTHA, các quy định
của pháp luật THADS về XMĐKTHA và thực tiễn thực hiện các quy định này trong T hi
hành án dân sự. "Xác minh điều kiện Thi hành án" bao gồm nhiều nội dung khác nhau.
Tuy vậy, trong phạm vi của đề tài luận văn thạc sĩ này, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào


những vấn đề cơ bản về xác minh điều kiện Thi hành án như khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa, cơ sở của việc pháp luật quy định xác minh điều kiện Thi hành án; sự hình thành
và phát triển các quy định của pháp luật vềxác minh điều kiện Thi hành án; nội dung các
quy định của Luật Thi hành án dân sự về xác minh điều kiện Thi hành án và thực tiễn
thực hiện trong tổ chức Thi hành án dân sự bốn năm gần đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về xác
minh điều kiện Thi hành án; đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về xác
minh điều kiện Thi hành án và thực tiễn thực hiện, từ đó tìm ra các giải pháp góp phần
giải quyết những vướng mắc, bất cập trong việc xác minh điều kiện Thi hành án để nâng
cao hiệu quả, hiệu lực trong công tác Thi hành án dân sự.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác định trên những
khía cạnh sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xác minh điều kiện Thi hành án như khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của việc quy định pháp luật vềxác minh điều kiện Thi
hành án; sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Thi hành án dân sự về
xác minh điều kiện Thi hành án qua các thời kỳ lịch sử;
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật Thi hành án dân sự hiện hành về
xác minh điều kiện Thi hành án;
- Khái quát việc thực hiện các quy định của pháp luật Thi hành án dân sự về xác
minh điều kiện Thi hành án để tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện các
quy định này;
- Tìm ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định pháp luật Thi
hành án dân sự vềxác minh điều kiện Thi hành án.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu được sinh viên tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc
nghiên cứu đề tài cũng được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp
lý truyền thống như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp... Từ đó, rút ra những đánh
giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của đơn vị
- Chi cục thi hành án huyện Thăng Bình
- ĐC: 289 Tiểu La, thị trấn Hà Lam, Thăng Bình, Quảng Nam
- ĐT: 05103674821-05102228030-05106527036-05103874331-05102228031
- Thành lập ngày 05/07/1993
1.2. Kết quả công tác thi hành án dân sự
a) Giai đoạn từ 1993-2003

- Tổng số án thụ lý từ tháng 7/1993-30/9/2003 là 2.965 việc với tổng số tiền phải
thi hành án là: 11.845.558.000đồng. Trong đó đã giải xong:
- Về việc: Thi hành xong: 1.416 việc, trong đó: thi hành án xong hoàn toàn: 1.215
việc, đình chỉ: 28 việc, ủy thác: 95 việc, trả đơn: 78 việc. Tỷ lệ thi hành án xong trên số
có điều kiện thi hành 2.287 việc, đạt 62%.
- Về tiền: Số tiền đã giải quyết: 4.357.874.000 đồng, trong đó: Thực thu:
3.033.695.000 đồng, đình chỉ, ủy thác, trả đơn: 1.324.179.000 đồng, đạt tỷ lệ 74% so
với số có điều kiện thi hành: 5.857.642.000 đồng.
- b) Giai đoạn từ năm 2004-2008
- Tổng số án thụ lý từ năm 2004- 2008 là 2.397 việc với giá trị phải thi hành án:
10.425.578.000 đồng, kết quả giải quyết như sau:
- Về việc: Thi hành xong: 1.420 việc, trong đó: thi hành án xong hoàn toàn: 1.219
việc, đình chỉ: 48 việc, ủy thác: 42 việc, trả đơn: 111 việc. Tỷ lệ thi hành án xong trên số
có điều kiện thi hành 1.958 việc, đạt 73%.
- Về tiền: Số tiền đã giải quyết: 3.977.085.000 đồng, trong đó: Thực thu:
2.800.527.000 đồng, đình chỉ, ủy thác, trả đơn: 1.176.558.000 đồng, đạt tỷ lệ 70,2% so
với số có điều kiện thi hành: 5.660.997.000 đồng.
- c) Giai đoạn 2009-2015
- Tổng số án thụ lý từ năm 2009- 22/01/2015 là 3.956 việc với giá trị phải thi hành
án: 27.755.920.000 đồng, kết quả giải quyết như sau:
- Về việc: Thi hành xong: 3.101 việc, trong đó: thi hành án xong hoàn toàn: 3.010
việc, đều: 58 việc, đình chỉ: 33 việc, đạt tỷ lệ 92,4% so với số có điều kiện thi hành
3.356 việc.
- Về tiền: Số tiền thực thu: 14.801.896.000 đồng, đạt tỷ lệ 84,5% so với số có điều
kiện thi hành: 17.514.901.000 đồng.
1.3. Về công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
a) Giai đoạn từ 1993-2003
Mặc dù mới được thành lập, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác và sinh hoạt
còn nhiều thiếu thốn, con người thiếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệp chưa
nhiều trong khi lượng án cũ tồn đọng bàn giao qua toàn là những vụ việc trước đây không

thi hành được phức tạp dây dưa kéo dài. Nhưng vẫn thấy được những thuận lợi cơ bản đó
là:


Sự nhận thức về công tác thi hành án của các cấp lãnh đạo ở địa phương, do đó đã
quan tâm và tạo mọi điều kiện cần thiết để cơ quan thi hành án hoạt động. Chỉ đạo cho cơ
quan thi hành án trong việc phối kết hợp với các cơ quan có liên quan và địa phương
trong thực hiện công tác thi hành án. Ủy ban nhân dân huyện đã hỗ trợ kinh phí để cơ
quan triển khai và thực hiện nhiệm vụ.
Sở Tư pháp và phòng Thi hành án đã quan tâm và chỉ đạo kịp hợp để hoạt động thi
hành án sớm ổn định đi vào hoạt động. Phòng Thi hành án dân sự tỉnh đã chỉ đạo kịp thời
và thường xuyên đôn đốc thi hành án, tổ chức kiểm tra, thanh tra, tổ chức họp tổng kết,
sơ kết trao đổi rút kinh nghiệm, tổ chức tập huấn nghiệp vụ... Nhờ đó hoạt động đã trở
thành nề nếp, kinh nghiệm thi hành án được nâng lên trong đội ngũ chấp hành viên, đồng
thời qua đó cũng tạo ra sự nhận thức đúng và sự quan tâm của địa phương đối với cơ
quan Thi hành án cấp huyện. Chính vì thế công tác thi hành án ở địa phương có điều kiện
rất thuận lợi kết quả thi hành án qua các năm đều đạt kết quả tốt, năm sau luôn cao hơn
năm trước, những vụ án khó, phức tạp kéo dài dần được giải quyết dứt điểm đã tạo được
niềm tin của người đối với cơ quan thực thi pháp luật.
b) Giai đoạn từ năm 2004-2008
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 ra đời đã tạo được bước chuyển biến mới
trong công tác thi hành án, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương chính sách mới về cải cách
tư pháp nói chung và trong lĩnh vực thi hành án nói riêng. Công tác thi hành án ngày càng
đi vào hoạt động có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực trên thực tế
đã được thực thi và đem lại hiệu quả ngày càng cao. Các cấp chính quyền ở địa phương
bước đầu đã nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của mình trong việc phối kết hợp và tạo
điều kiện thuận lợi để cơ quan thi hành án thực thi trách nhiệm theo quy định của pháp
luật. Ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng lên rõ rệt từ khi pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004 có hiệu lực. Công tác thi hành án có nhiều chuyển biến tích cực
kết quả thi hành án ngày càng đạt hiệu quả cao; mặc dù lượng án thụ lý giải quyết năm

sau luôn cao hơn năm trước cả về số lượng vụ việc và giá trị phải thi hành án, án hình sự,
kinh tế, hôn nhân gia đình ngày càng gia tăng. Vì vậy lượng án tồn đọng hàng năm càng
cao lên nhưng lại khó thi hành do người phải thi hành án không có tài sản, tài sản có
nhưng giá trị quá thấp đã làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án. Từ năm 1993-2003 tỷ
lệ thi hành án đạt 62 % về việc và đạt 74% về tiền, giai đoạn 2004-2008 thi hành án về
việc đạt 73% về việc, đạt 70,2% về tiền.
b) Giai đoạn 2009-2015
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành và có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày 01/7/2009 đã có nhiều tác động tích cực và hiệu quả đối với đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội của đất nước, tạo được hành lang pháp lý cơ bản bảo đảm cho công tác T hi
hành án dân sự hiệu quả hơn cùng hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật này đã được ban hành tương đối đầy đủ, từ Nghị định, Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, Thông tư, Thông tư liên tịch và văn bản quy phạm trong nội bộ Ngành,
cơ quan Thi hành án dân sự. Các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật chuyên


ngành về Thi hành án dân sự nêu trên điều chỉnh cơ bản đầy đủ các lĩnh vực của công tác
Thi hành án dân sự, từ tổ chức bộ máy, trình tự, thủ tục thi hành án, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác Thi hành án dân sự, kiểm sát, giám sát
hoạt động Thi hành án dân sự… và hầu hết phù hợp, thống nhất với văn bản pháp luật
chung, chuyên ngành khác, như: hiến pháp; các luật về tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố
tụng trọng tài; pháp luật về dân sự, đất đai, nhà ở, thi hành án hình sự, hành chính...
Hệ thống tổ chức Thi hành án dân sự được thành lập phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động Thi hành án dân sự. Việc tổ chức hệ thống Thi
hành án dân sự theo ngành dọc đã tăng cường vị thế cơ quan Thi hành án dân sự, tương
xứng chức năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý,
chỉ đạo chuyên ngành, thống nhất từ trung ương đến cấp huyện, nhưng không xa rời sự
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương với công tác Thi hành án
dân sự. Đã đảm bảo cơ chế vận hành có hiệu quả, thông suốt, gắn chặt với sự lãnh đạo,
chỉ đạo của huyện ủy và UBND huyện và sự phối hợp công tác có hiệu quả của các ban,

ngành trên địa bàn, nhất là Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, cơ quan Công an và
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện.
Đến nay Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được ban
hành vào ngày 25/11/2014 và có hiệu lực thi hành án kể từ ngày 01/7/2015.
1.4. Về công tác tổ chức - cán bộ
 Giai đoạn 1993 - 2003: Tại thời điểm chuyển giao cơ quan chỉ có 2 biên chế
cho đến năm 2003 đã tuyển dụng đủ 7 biên chế. Mặc dù vậy các đồng chí đều chưa được
đào tạo chuyên ngành, song cơ quan đã tạo điều kiện cho các đồng chí thay phiên nhau đi
học các lớp Đại học Luật, Trung cấp lý luận chính trị. Số cán bộ có trình độ Đại học Luật
6 đ/c (trong đó có 1 đ/c chưa thi tốt nghiệp nhưng đã hoàn thành xong chương trình), 1
đ/c đang theo học năm thứ hai Đại học Luật, 2 đ/c có trình độ Trung cấp lý luận chính trị.
Tuy số lượng công chức đi học nhiều nhưng nhờ sắp xếp thời gian khoa học, nhiều đ/c
tranh thủ làm ngoài giờ nên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong 10 năm qua
đơn vị được tặng 01 bằng khen, 08 giấy khen. Năm 2002 được công nhận tập thể lao
động xuất sắc.
 Giai đoạn 2004 - 2008: Cùng với sự đổi mới của đất nước và công cuộc cải
cách tư pháp, công tác thi hành án ngày càng có nhiều khởi sắc, nhất là từ khi có pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Ngành thi hành án có
nhiều đổi mới, đời sống của CBCC ngày càng được nâng cao, CBCC được cho đi đào
tạo, tập huấn nghiệp vụ. Trình độ CBCC ngày càng được nâng cao nhận thức đáp ứng với
yêu cầu thực tiễn của công việc, đến cuối năm 2008 đơn vị đáp ứng đủ 9 biên chế được
giao, CBCC đã tốt nghiệp đại học và tương đương, đội ngũ CBCC đã được chuẩn hóa
theo quy định nhằm thực hiện tốt công việc được giao.
 Giai đoạn 2009-2015: Biên chế của đơn vị được đáp ứng đủ 9/9, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của CBCC đơn vị 7/9 đ/c đã tốt nghiệp đại học, có trình độ chính
trị vững vàng, hàng năm luôn được quan tâm tạo điều kiện cho đi tập huấn các lớp nghiệp


vụ ngắn hạn, dài hạn do ngành tổ chức đến nay trình độ của CBCC đã đạt chuẩn theo quy
định của ngành qui định.

1.5. Về cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động
 1993 - 2003: Điều kiện vật chất trang bị cho công tác thi hành án thiếu thốn
kéo dài; nơi làm việc vừa thiếu trang nghiêm, vừa chật chội, dột nát nhưng chậm được
khắc phục cũng ảnh hưởng rất lớn đến công tác.
 2004 - 2008: Từ chỗ cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công
tác quá thiếu thốn do không được đầu tư đúng mức, nơi làm việc tạm bợ đến đầu năm
2004 trụ sở làm việc được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng; các trang thiết bị,
phương tiện phục vụ cho công tác như xe mô tô, máy vi tính, bàn tủ,... tương đối đầy đủ,
đáp ứng cho nhu cầu công tác.
 2009 - 2015: Cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động được đảm bảo như máy vi
tính, máy phô to và một số trang thiết bị khác đã được ngành quan tâm trang bị đầy đủ,
mỗi cán bộ công chức được trang bị một máy vi tính, được nối mạng để cập nhật thông
tin hàng ngày, xe máy, máy photo,.. được cấp đầy đủ. Kinh phí hoạt động được cấp đầy
đủ đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả.
1.6. Nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan
hữu quan trong công tác thi hành án dân sự (trong đó nêu rõ sự phối kết hợp trong
công tác thi hành án dân sự).
a) Giai đoạn 1993-2003
Do công tác thi hành án còn quá mới mẽ, nên nhận thức của các cấp chính quyền
còn xem nhẹ, chưa thật sự nhiệt tình phối hợp cùng cơ quan thi hành án trong việc giải
quyết, xác minh thi hành án ở địa phương.
b) Giai đoạn 2004-2008
Huyện ủy, HĐND- UBND huyện thường xuyên quan tâm và tạo mọi điều kiện để
cơ quan thi hành án thực thi pháp luật theo đúng thẩm quyền, chỉ đạo các cơ quan trong
khối nội chính phối kết hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án trong việc giải quyết án,
nhất là chỉ đạo cho UBND các xã, thị trấn cử người tham gia xác minh, giải quyết thi
hành án mỗi khi cơ quan Thi hành án có yêu cầu phối hợp.
c) Giai đoạn 2009-2015
Công tác thi hành án dân sự trên địa bàn huyện được các Cấp uỷ Đảng và Chính
quyền ở địa phương quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan Thi hành án phối hợp

với các cơ quan, ban, ngành thúc đẩy hiệu qủa công tác thi hành án dân sự của địa
phương. Tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân huyện, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án
đều được mời dự họp và trả lời chất vấn khi có yêu cầu. Hằng tháng, hằng quý cơ quan
Thi hành án dân sự đều gửi báo cáo đầy đủ tới Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Điều
này giúp cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp nắm sát tình hình hoạt động
của cơ quan thi hành án, những thuận lợi cũng như những khó khăn, vướng mắc của
Ngành, từ đó có sự chỉ đạo sát sao, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan thi hành
án nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác.


1.7. Sơ đồ tổ chức
- Trưởng Thi hành án: Nguyễn Thị An
- Chấp hành viên: Trần Thị Thu Phương


CHƯƠNG 2
XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN
2.1. LÝ THUYẾT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN
Công tác xác minh trong Thi hành án dân sự là hoạt động không thể thiếu trong tất
cả các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của Chấp hành viên, thư ký Thi hành án. Mục
đích của xác minh là giải quyết hồ sơ Thi hành án cho đúng pháp luật đảm bảo quyền,
nghĩa vụ của các bên Thi hành án. Ở mỗi hồ sơ cụ thể cần những tác nghiệp khác nhau,
cách thức tổ chức cũng khác nhau vì vậy công tác xác minh cũng khác nhau. Tuy nhiên, ở
bất cứ hồ sơ nào mục đích xác minh cũng phục vụ cho việc giải quyết hồ sơ phù hợp với
các quy định của pháp luật.
Mục đích xác minh trong Thi hành án nói chung là xác minh điều kiện Thi hành án
của đương sự - người được Thi hành án, người phải Thi hành án, những người có quyền,
nghĩa vụ liên quan.
Xác minh Thi hành án để trả lời câu hỏi: Hồ sơ này có điều kiện hay không có điều
kiện? có điều kiện là những điều kiện nào, khi áp dụng các biện pháp Thi hành án sẽ phù

hợp với các quy phạm pháp luật nào được ghi nhận trong Thi hành án dân sự? Nếu không
có điều kiện Thi hành án thì Chấp hành viên sẽ áp dụng các trình tự thủ tục Thi hành án
(đình chỉ, tạm đình chỉ,trả đơn yêu cầu Thi hành án, hoàn Thi hành án,ủy thác Thi hành
án)đúng quy định của pháp luật.
Mục đích xác minh của mỗi hồ sơ Thi hành án được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ,
Chấp hành viên luôn đặt câu hỏi: lần này hồ sơ phải xác minh cái gì? Làm rõ gì? Có như
vậy toàn bộ hồ sơ mới có định hướng rõ rang , khoa học, tạo niềm tin cho Chấp hành viên
đưa ra các biện pháp để giải quyết hồ sơ đúng pháp luật.
Trên thực tế những hồ sơ Chấp hành viên hoặc thư ký Thi hành án chưa xác định
được nhiệm vụ của mỗi lần xác minh nên kết quả xác minh chồng theo , thậm chí trái
ngược nhau, toàn bộ hồ sơ không có định hướng rõ ràng, do vậy khi áp dụng các biện
pháp Chấp hành biên trở nên lung túng.
Xác minh là làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể. Chấp hành viên và
thư ký phải trực tiếp xác minh làm rõ và cụ thể về điều kiện Thi hành án của đương sự
(có điều kiện hay chưa đủ điều kiện). có hoặc không có điều kiện Thi hành án thể hiện
các thông tin về tài sản hoặc quyền về tài sản mà cụ thể là thu nhập, tài sản là động sản
hoặc bất động sản, số dư trong tài khoản.
Việc xác minh phải được tiến hành kịp thời, chính xác và đầy đủ. Tính kịp thời ở
đây thể hiện đúng lúc không chậm trễ của việc xác minh. Khi có được thông tin về tài
sản, Chấp hành viên, thư ký Thi hành án phải kịp thời xác minh, có như vậy mới ngăn
chặn kịp thời những hành vi tẩu tán tài sản của đương sự, nhất là tài sản hoặc động sản.
Tính chính xác và đầy đủ là một yêu cầu của một biên bản xác minh và quá trình tác
nghiệp của một hồ sơ. Sự chính xác và đầy đủ ở đây không phải là số lượng, trọng
lượng… mà chính là hàm lượng thông tin được thể hiện bằng ngôn ngữ pháp luật qua xác
minh. Thông qua các thông tin chính xác và đầy đủ giúp ích rất nhiều cho Chấp hành
viên khi chấp hành các biện pháp Thi hành án (thỏa thuận, tự nguyện hay cưỡng chế).


Đặc biệt tính chính xác của kết quả xác minh giúp Chấp hành viên trong việc xây dựng
kế hoạch cưỡng chế xác tình hình, dữ liệu các tình huống có thể xảy ra trong khi cưỡng

chế gần với thực tiễn, từ đó Chấp hành viên có thể chủ động trước các tình huống có thể
xảy ra.
Mỗi biên bản xác minh rất cần sự chính xác và đầy đủ các hình thức (mẫu xác minh,
chữ ký, dấu) có những sự việc chỉ cần một biên bản xác minh là giải quyết được hồ sơ,
nhưng cũng có nhiều hồ sơ cần rất nhiều biên bản xác minh mới giúp Chấp hành viên có
đủ cơ sở để giải quyết hồ sơ đúng quy định của pháp luật. tính chính xác và đầy đủ của
công tác xác minh đòi hỏi Chấp hành viên luôn phải trăn trở đi tìm ra những câu trả lời
một cách xác đáng đối với những sự việc cụ thể.
Thực tế hiện nay không ít kết quả xác minh thiếu tính chính xác và không đầy đủ.
Nội dung: đương sự đi tù, không có tài sản hoặc đương sự bán nhà đi đâu không biết. các
biên bản này vừa thiếu chính xác, không đầy đủ nên khi áp dụng các vi phạm pháp luật
để giải quyết hồ sơ không biết phải áp dụng như thế nào bởi áp dụng các vi phạm pháp
luật đều không có căn cứ.
Công tác xác minh có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong các giai đoạn của
quá trình Thi hành án.
Công tác xác minh thường được tiến hành thường xuyên, liên tục đồng thời với các
hoạt động tác nghiệp khác. Mặt khác, công tác xác minh chiếm tỉ lệ thời gian tương đối
nhiều (trung bình một hồ sơ Thi hành án khoảng 1/3 thời gian).
Kết quả xác minh là điều kiện để Chấp hành viên áp dụng các biện pháp trong Thi
hành án (để đương sự thoả thuận, hay đương sự tự nguyện Thi hành án, hoặc cần áp
dụng các biện pháp cưỡng chế).
Kết quả xác minh là căn cứ để Chấp hành viên xác định các công việc tiếp theo cần
phải làm gì? Cần áp dụng các trình tự thủ tục Thi hành án nào? (đình chỉ, tạm đình chỉ,
trả đơn yêu cầu Thi hành án, ủy thác Thi hành án) để giải quyết hồ sơ đúng pháp luật.
Kết quả xác minh cũng thể hiện một phần trình độ, chuyên môn của Chấp hành viên
hoặc thư ký Thi hành án. Kết quả xác minh thể hiện quá trình tư duy, lựa chọn và xác
định mục tiêu cần phải đạt được của một bộ hồ sơ, việc thực hiện kế hoạch: kết quả xác
minh phải phù hợp với các biện pháp mà Chấp hành viên áp dụng.
2.1.1. Quy định của pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án
Việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự được quy định tại Điều 9 Nghị định

62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
- Khi tiến hành xác minh, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai
trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Nội
dung kê khai phải nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền
trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài
sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người
chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện
nghĩa vụ thi hành án.


- Chấp hành viên phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện thi hành án về
việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án.
- Trường hợp người phải thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai
không trung thực thì tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề
nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp cần làm rõ thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm việc, trụ sở của
người phải thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi hành án thì Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan thi hành án dân
sự nơi có thông tin trên.
Việc ủy quyền xác minh của cơ quan thi hành án dân sự phải thể hiện bằng văn bản,
nêu rõ bên ủy quyền, bên nhận ủy quyền, nội dung ủy quyền và nội dung cần thiết khác.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy quyền phải trả lời bằng văn bản kết
quả xác minh và những nội dung cần thiết khác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy
quyền xác minh.
Đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu,
thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền là
30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp việc xác minh tài sản khó khăn,
phức tạp thì thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh có thể kéo dài nhưng không quá
45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Đối với việc xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn xác minh và gửi

kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền là 15 ngày, kể từ ngày nhận
được ủy quyền.
- Trường hợp chưa xác định được địa chỉ và tài sản của người phải thi hành án
hoặc chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án mà theo bản án, quyết định
họ phải tự mình thực hiện nghĩa vụ thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết
định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành
án phải ghi rõ việc thi hành án bị hoãn theo Điểm b Khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án
dân sự.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ quy định tại
Khoản 1 Điều 44a Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định
về việc chưa có điều kiện thi hành án.
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của đương sự hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin mới về điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh.
- Sau khi có quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, nếu người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án trở lại thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp
tục thi hành án.
- Cơ quan thi hành án dân sự chuyển sang sổ theo dõi riêng đối với việc chưa có
điều kiện thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi có đủ các điều kiện sau:


 Đã hết thời hạn 02 năm, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án đối với trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành
hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới
của người phải thi hành án hoặc đã hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày ra quyết định về việc
chưa có điều kiện thi hành án;
 Đã xác minh ít nhất hai lần theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Thi hành
án dân sự;
 Không có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
- Trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều này, nếu người phải thi hành án có điều

kiện thi hành thì cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc thi hành án. -Trường hợp
chưa xác định được địa chỉ và tài sản của người phải thi hành án hoặc chưa xác định được
địa chỉ của người phải thi hành án mà theo bản án, quyết định họ phải tự mình thực hiện
nghĩa vụ thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều
kiện thi hành án. Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án phải ghi rõ việc thi
hành án bị hoãn theo Điểm b Khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
-Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016
của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC quy
định về xác minh điều kiện thi hành án:
 Việc xác minh đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký, chuyển quyền sở hữu,
sử dụng tài sản thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên căn cứ vào một trong
các giấy tờ sau: hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc tặng cho, giấy
chứng nhận về quyền sở hữu, sử dụng tài sản hoặc thông qua chủ sở hữu, chính quyền địa
phương, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan chức năng hoặc người làm chứng
như xác nhận của người bán, của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng về việc
mua bán tài sản.
 Đối với trường hợp đình chỉ thi hành án do người được thi hành án chết mà
không có người thừa kế thì phải xác minh qua chính quyền địa phương, cơ quan quản lý
hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thi hành án. Kết quả xác
minh thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương để người có
quyền, nghĩa vụ liên quan biết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hết thời hạn 30
ngày, kể từ ngày thông báo công khai hợp lệ mà không có người khiếu nại thì được coi là
có căn cứ đình chỉ thi hành án.
Cho đến nay, vấn đề xác minh điều kiện thi hành án đã được sửa đổi, bổ sung cơ
bản toàn diện trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự (được
sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (sau
đây gọi tắt là Nghị định 62/NĐ-CP); Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTPTANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện



kiểm sát nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT/BTPTANDTC-VKSNDTC).
- Luật Thi hành án dân sự
Điều 44 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về xác
minh điều kiện thi hành án, cụ thể về thời hạn xác minh: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi
hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.
Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài
sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách
nhiệm về việc kê khai của mình.”.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014 còn quy định: “Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì
ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp
người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt
tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định
được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01
năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi
hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi
hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về
điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.”.
Như vậy, đã có những quy định cụ thể về việc bắt buộc Chấp hành viên phải xác
minh điều kiện thi hành án, liên quan đến xác minh trong trường hợp người được thi hành
án làm đơn yêu cầu thi hành án Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014
có quy định mới về việc người làm đơn yêu cầu thi hành án không bắt buộc phải tự mình
xác minh để chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, xác minh điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án là việc của Chấp hành viên, đây là điểm mới
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án vì thực tế việc xác minh của người được thi hành án, đặc biệt là xác minh những
tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án gặp không ít những

khó khăn do tâm lý e ngại của các cơ quan chức năng khi cung cấp thông tin, bởi các
thông tin liên quan đến tài sản của cá nhân không phải bất kỳ ai muốn là cơ quan chức
năng có thể cung cấp, việc giao nhiệm vụ xác minh cho Chấp hành viên đối với những vụ
theo đơn yêu cầu là hợp lý vì xác minh là một trong những hoạt động bắt buộc phải làm
của Chấp hành viên trong việc giải quyết án, cơ quan thi hành án sẽ có những thuận lợi
trong việc phối hợp với cơ quan chức năng để thu thập thông tin, đặc biệt là các thông tin
liên quan đến tài sản đăng ký quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, một
trong những tiêu chí xác định người phải thi hành án có điều kiện để thi hành án hay
không. Từ đó tạo điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án.
Đặc biệt còn quy định chi tiết về thời hạn xác minh đối với trường hợp người phải thi


hành án không có điều kiện thi hành án, đang chấp hành hình phạt tù hoặc không xác
định được địa chỉ cư trú mới. Đây là điểm mới so với Luật Thi hành án dân sự năm 2008
về xác minh điều kiện thi hành án. Điểm mới nữa là sau hai lần xác minh mà người phải
thi hành án vẫn không có điều kiện thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho
người được thi hành án biết kết quả xác minh, việc xác minh chỉ được thực hiện khi có
thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Quy định này đã quy
định chi tiết trách nhiệm xác minh của Chấp hành viên và hướng giải quyết đối với
những án theo đơn yêu cầu trong trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện
thi hành án.
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn có quy định mới về tăng
thêm quyền của cơ quan Thi hành án dân sự là có thể ủy quyền cho cơ quan THADS nơi
người phải thi hành án có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện
thi hành án. Đây là điểm mới rất tiến bộ và phù hợp với thực tiễn, quy định này giúp
giảm tải được rất nhiều chi phí cho hoạt động xác minh điều kiện thi hành án.
Tại khoản 4 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên khi tiến hành xác minh như:
a) Xuất trình thẻ Chấp hành viên;
b) Xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối với tài

sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn phải xác
minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó;
c) Trường hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác minh phải nêu rõ
nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác;
d) Trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên trực
tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có
liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải
thi hành án;
đ) Yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung
cần xác minh trong trường hợp cần thiết;
e) Lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân
dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh.”
Quy định này làm tăng thêm thẩm quyền và trách nhiệm của Chấp hành viên trong
hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
trong công tác thi hành án của Chấp hành viên.
Khoản 6 , 7 Điều 44 Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định
về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi
hành án.
a) Cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và
môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan thực hiện yêu cầu của
Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp;


b) Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành
án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;
ký vào biên bản trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng
văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của
Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay;

c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài
khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi
hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án có yêu cầu trong
thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp do sự kiện bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung
cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc
cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt
hại thì phải bồi thường.”
Như vậy, với quy định này, Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014 đã quy định cụ thể trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan đến
hoạt động xác minh điều kiện thi hành án và trách nhiệm cung cấp thông tin và thông tin
cung cấp phải đúng sự thật, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh
toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Với quy định
này đã tạo thuận lợi cho Chấp hành viên trong việc xác minh điều kiện thi hành án.
Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã dành riêng Điều 44a
quy định về việc xác định chưa có điều kiện thi hành án, người phải thi hành án khi thuộc
trường hợp quy định tại điều này thì thủ trưởng cơ quan Thi hành án sẽ ra quyết định về
việc chưa có điều kiện thi hành án. Đây là quy định mới, là tiêu chí giúp Chấp hành viên
xác định và phân loại chính xác điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
- Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị định số 62/NĐCP)
Tại Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định về xác minh điều kiện thi hành
án:
 Khi tiến hành xác minh, Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê
khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Nội
dung kê khai phải nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền
trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài
sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người

chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện
nghĩa vụ thi hành án.


 Chấp hành viên phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện thi hành án về
việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án.
 Trường hợp người phải thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai
không trung thực thì tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề
nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp cần làm rõ thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm việc, trụ sở của
người phải thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi hành án thì Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan thi hành án dân
sự nơi có thông tin trên.
Việc ủy quyền xác minh của cơ quan thi hành án dân sự phải thể hiện bằng văn bản,
nêu rõ bên ủy quyền, bên nhận ủy quyền, nội dung ủy quyền và nội dung cần thiết khác.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy quyền phải trả lời bằng văn bản kết
quả xác minh và những nội dung cần thiết khác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy
quyền xác minh.
Đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu,
thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền là
30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp việc xác minh tài sản khó khăn,
phức tạp thì thời hạn xác minh và gửi kết quả xác minh có thể kéo dài nhưng không quá
45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Đối với việc xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn xác minh và gửi
kết quả xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy quyền là 15 ngày, kể từ ngày nhận
được ủy quyền.
2.1.2. Một số dạng vi phạm thường gặp khi kiểm sát việc xác minh điều kiện
Thi hành án dân sự
Hết thời hạn tự nguyện nhưng Chấp hành viên không tiến hành xác minh: Theo quy
định của Luật Thi hành án dân sự, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự

nguyện Thi hành án mà người phải Thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành
viên phải tiến hành xác minh, tuy nhiên, qua kiểm sát nhiều trường hợp hết thời gian tự
nguyện Chấp hành viên cũng không tổ chức tiến hành xác minh. Trường hợp người phải
thi hành án chưa có điều kiện thi hành án nhưng không xác minh theo định kỳ, không tiến
hành xác minh khi có thông tin về thi hành án
Trong trường hợp người phải Thi hành án chưa có điều kiện Thi hành án thì ít nhất
06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện Thi hành án nhưng thực tế
nhiều trường hợp người phải Thi hành án chưa có điều kiện Thi hành án nhưng quá 06
tháng, có trường hợp một vài năm Chấp hành viên không tiến hành xác minh. Trường
hợp người phải Thi hành án chưa có điều kiện Thi hành viên là người đang chấp hành
hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không
xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải Thi hành án thì thời hạn xác minh ít
nhất 01 năm một lần.


Khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác cung cấp thông tin mới về điều kiện Thi hành án của người phải Thi hành
án, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh. Qua kiểm sát phát hiện nhiều việc Thi hành
án khi có thông tin về Thi hành án nhưng Chấp hành viên không tiến hành xác minh.
Không thông báo kết quả xác minh cho người được thi hành án: Sau hai lần xác
minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện Thi hành án thì cơ quan Thi hành
án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được Thi hành án về kết quả xác minh.
Văn bản ủy quyền xác minh sơ sài, không đôn đốc khi có ủy quyền xác minh: Nhiều
việc Chấp hành viên ủy quyền cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi người phải Thi hành
án có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện Thi hành án, song văn
bản uỷ quyền sơ sài, không nêu rõ những vấn đề cần xác minh nên kết quả xác minh
không đầy đủ, thiếu khách quan.
Không xác minh ở cơ quan chức năng đối với tài sản phải đăng ký quyền sở
hữu: Chấp hành viên khi xác minh điều kiện Thi hành án thì việc xác minh không cụ thể
tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để Thi hành án; đối với tài sản phải đăng ký quyền

sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì không xác minh tại cơ quan có chức
năng đăng ký tài sản, giao dịch đó. Nhiều trường hợp tài sản Thi hành án là vật đặc dụng
nhưng Chấp hành viên không yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để
làm rõ các nội dung cần xác minh. Việc xác minh đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên
căn cứ vào một trong các giấy tờ: Hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc
tặng cho, giấy chứng nhận về quyền sở hữu, sử dụng tài sản hoặc thông qua chủ sở hữu,
chính quyền địa phương, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan chức năng hoặc
người làm chứng như xác nhận của người bán, của chính quyền địa phương, cơ quan
chức năng về việc mua bán tài sản.
Biên bản xác minh ghi không đầy đủ: Khi xác minh người phải Thi hành án là cơ
quan, tổ chức, Chấp hành viên không trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài
sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ
thông tin về tài sản, tài khoản của người phải Thi hành án; Biên bản xác minh không có
xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi
tiến hành xác minh. Các biên bản xác minh điều kiện Thi hành án do các Chấp hành viên
lập (tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện) đều không xác
minh sơ bộ giá trị tài sản trước khi tiến hành thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản nhằm đảm
bảo kê biên giá trị tài sản tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành.
Vi phạm của Chấp hành viên trong xác minh điều kiện Thi hành án thường thể hiện:
Xác minh không rõ hiện trạng tài sản của người phải Thi hành án hoặc xác minh về tài
sản chung, tài sản đang có tranh chấp không chi tiết, không rõ ràng làm cho quá trình tổ
chức cưỡng chế kê biên tài sản gặp không ít khó khăn. Một số việc Thi hành án, mặc dù
Chấp hành viên đã tiến hành các tác nghiệp cần thiết và đúng hướng nhằm tổ chức thi


hành án kịp thời, đúng pháp luật song việc thông báo, xác minh về Thi hành án thực hiện
chưa đầy đủ khiến việc thi hành án bị kéo dài hoặc bị đương sự khiếu nại, tố cáo.
Tiếp nhận thông tin không đầy đủ nhưng không phát hiện: Nhiều thông tin do cơ
quan, tổ chức, công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường,

cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan cung cấp nội dung không đầy đủ,
thiếu trung thực nhưng Chấp hành viên không phát hiện để yêu cầu cung cấp bổ sung;
bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải Thi hành án
khi nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì
không cung cấp kịp thời (thời hạn quy định trả lời là 03 ngày làm việc).
Từ chối cung cấp thông tin nhưng không có văn bản trả lời cho cơ quan Thi hành
án dân sự: Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản,
tài khoản của người phải Thi hành án không cung cấp thông tin kịp thời khi người được
Thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được Thi hành án có yêu cầu
(thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu) trừ trường hợp do sự kiện bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối
cung cấp nhưng không có văn bản trả lời và nêu rõ lý do cho cơ quan Thi hành án dân sự.
Không phát hiện việc người phải thi hành án kê khai thiếu trung thực: Khi tiến hành
xác minh người phải Thi hành án không kê khai trung thực, không cung cấp đầy đủ thông
tin về tài sản, thu nhập, điều kiện Thi hành án; không nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản
hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước
tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu
nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi
dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ Thi hành án nhưng Chấp hành viên
không phát hiện.
Không xác minh khi người được thi hành án chết : Đối với trường hợp đình chỉ Thi
hành án do người được Thi hành án chết mà không có người thừa kế thì phải xác minh
qua chính quyền địa phương, cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối
cùng của người được Thi hành án. Kết quả xác minh thông báo công khai trên phương
tiện thông tin đại chúng ở Trung ương để người có quyền, nghĩa vụ liên quan biết và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo công khai
hợp lệ mà không có người khiếu nại thì được coi là có căn cứ đình chỉ Thi hành án.
2.1.3. Một số kinh nghiệm khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án

Thứ nhất, phải nắm chắc quy định của pháp luật về xác minh điều kiện Thi hành án,
về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc xác minh điều kiện Thi hành án;
thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật liên quan đến xác minh điều kiện Thi hành án;
về thời hạn xác minh như hết thời hạn tự nguyện Thi hành án, thời hạn xác minh đối với


người chấp hành hình phạt tù, hoặc không xác minh được địa chỉ của người phải Thi
hành án...
Thứ hai, kịp thời phát hiện vi phạm của Chấp hành viên trong việc xác minh điều
kiện Thi hành án: Luật Thi hành án dân sự chỉ quy định cơ quan Thi hành án dân sự phải
gửi cho Viện kiểm sát các quyết định về Thi hành án mà không quy định gửi tài liệu xác
minh điều kiện Thi hành án, do đó, muốn kiểm sát được kết quả xác minh, Chấp hành
viên phải thông qua nhiều nguồn như:
- Thông tin qua các hoạt động nghiệp vụ của Viện kiểm soát nhân dân, các cơ quan
hữu quan, nguồn tin do nhân dân cung cấp, do Báo, Đài hoặc do Viện kiểm sát cấp trên
chuyển đến Viện kiểm sát hoặc vi phạm cụ thể của Chấp hành viên trong hoạt động xác
minh điều kiện Thi hành án;
- Qua kiểm sát hồ sơ Thi hành án, hồ sơ bán đấu giá tài sản, tài liệu do đương sự
cung cấp; tài liệu do Trung tâm dịch vụ bán đấu giá cung cấp; hoặc đối chiếu với tài liệu
sẵn có của Viện kiểm soát nhân dân.
- Qua nghiên cứu hồ sơ Thi hành án: Hồ sơ nghiệp vụ Thi hành án phải thể hiện
được toàn bộ quá trình tổ chức Thi hành án của Chấp hành viên. Trong đó, Chấp hành
viên phải ghi chép các công việc, lưu giữ tất cả các tài liệu đã và đang thực hiện vào hồ
sơ nghiệp vụ Thi hành án gồm: Bản án, quyết định; quyết định Thi hành án; các biên bản
bàn giao, xử lý vật chứng, tài sản đó kê biên, tạm giữ, biên bản xác minh, biên bản giải
quyết việc Thi hành án (có đầy đủ chữ ký của đương sự trong các trang biên bản)... Phát
hiện vi phạm từ việc nghiên cứu hồ sơ Thi hành án chủ yếu được thực hiện thông qua
công tác trực tiếp kiểm sát Thi hành án dân sự hoặc từ việc nghiên cứu hồ sơ Thi hành án
do cơ quan Thi hành án dân sự cung cấp theo yêu cầu của Viện kiểm sát. Đây là trường
hợp Chấp hành viên nghiên cứu hồ sơ, tài liệu về Thi hành án và xác minh điều kiện Thi

hành án toàn diện và đầy đủ nhất, thuận lợi nhất.
- Từ đơn thư khiếu nại, tố cáo về Thi hành án dân sự hoặc kiểm sát hồ sơ kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về Thi hành án dân sự...
Thứ ba, khi kiểm sát việc xác minh đối với các loại tài sản như ô tô, tầu thuyền, xe
máy… là những loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì ngoài yêu cầu cơ quan quản lý
cung cấp thông tin về chủ sở hữu còn phải làm việc với người phải Thi hành án xem tài
sản đó hiện do ai quản lý, nếu đã chuyển nhượng thì chuyển nhượng vào ngày tháng năm
nào, lý do chưa làm thủ tục sang tên; sau khi biết được người nhận chuyển nhượng phải
tiến hành làm việc với người đang quản lý tài sản để xác minh làm rõ việc mua bán là
ngay tình hay tẩu tán tài sản. Phải xác minh làm rõ tài sản mới được ra các quyết định
tiếp theo tránh tình trạng chỉ mới xác minh ở cơ quan quản lý đã ra quyết định kê biên tài
sản…
Thứ tư, kiểm sát việc xác minh tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, Chấp hành viên cần phân biệt rõ diện tích đất đó là đất cấp hay đất mua.
Đất được cấp thì có đất cấp cho hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đối
với loại đất này cần yêu cầu Chấp hành viên xác minh làm rõ thời điểm cấp, cấp cho bao


nhiêu người, mỗi người được cấp bao nhiêu mét vuông, phân định rõ diện tích của người
phải Thi hành án trong tổng diện tích trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
hộ gia đình. Đối với đất cấp cho cá nhân cũng cần làm rõ đất đó hình thành từ nguồn tiền
nào có tranh chấp gì không, cần có biên bản làm việc với các thành viên đang sống trên
diện tích đó để làm rõ xem có tranh chấp gì không. Đối với Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ghi tên một mình người chồng cần tiến hành xác minh với các thành viên đang
sinh sống trong ngôi nhà đó, trong biên bản và ghi đầy đủ ý kiến của các thành viên và
người liên quan. Đối với Giấy chứng nhận cấp mang tên của cả vợ và chồng thì ngoài xác
minh đối với vợ chồng, cần xác minh với các thành viên trong gia đình và người liên
quan (nếu có). Tóm lại: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp đứng tên cá nhân,
đứng tên vợ, chồng, cấp cho hộ gia đình thì việc kiểm sát xác minh cần làm chặt chẽ phải
có biên bản xác minh đối với từng thành viên trong gia đình và người liên quan (nếu có)

nhằm bảo đảm trước khi tiến hành kê biên, bán đấu giá tài sản đó không còn tranh chấp
(tài sản sạch)...
Thứ năm, về công tác chỉ đạo, điều hành: Trước hết, Lãnh đạo các cấp phải nhận
thức, đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác kiểm sát Thi hành án dân sự nói chung
và công tác kiểm sát việc tổ chức xác minh điều kiện Thi hành án dân sự nói riêng để có
sự đầu tư đúng, đủ, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của khâu công tác này. Đề nghị Viện
kiểm soát nhân dân tối cao tiếp tục chỉ đạo đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy, bố trí sắp
xếp cán bộ hợp lý, ổn định theo hướng chuyên sâu công tác kiểm sát Thi hành án dân sự.
Bổ sung biên chế công chức làm công tác này cho Vụ kiểm sát Thi hành án dân sự và
Viện kiểm soát nhân dân địa phương.
Thứ sáu, về tổ chức cán bộ: Cần thay đổi nhận thức “công tác kiểm sát thi hành án
dân sự là đơn giản, không quan trọng bằng các khâu công tác khác” để mỗi công chức,
Chấp hành viên nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác kiểm sát Thi
hành án dân sự nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát Thi hành án dân sự nói
chung và công tác kiểm sát việc tổ chức xác minh điều kiện Thi hành án dân sự nói riêng;
cần tăng cường ý thức trách nhiệm, kỷ luật; tự giác học tập, đúc rút kinh nghiệm, nghiên
cứu kịp thời các văn bản pháp luật mới ban hành, tích cực học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp để nâng cao trình độ, nắm vững các quy định của pháp luật và văn bản hướng dẫn
thi hành; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp từ
đó xác định chính xác vi phạm của cơ quan Thi hành án dân sự và các cơ quan liên quan,
kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo Viện ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục
các vi phạm trong hoạt động Thi hành án dân sự.
Thứ bảy, về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ: Cần xây dựng giáo trình hướng
dẫn chuyên sâu về kiểm sát xác minh điều kiện Thi hành án để đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm sát Thi hành án dân soát nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Phổ biến kịp
thời văn bản pháp luật mới liên quan đến việc tổ chức xác minh điều kiện Thi hành án
dân sự để công chức, Chấp hành viên cập nhật kịp thời. Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Viện kiểm soát nhân dân cấp tỉnh quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ



công chức, Chấp hành viên làm công tác kiểm sát Thi hành án dân sự. Đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là cơ sở quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm sát Thi hành án dân sự. Định kỳ tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho công
chức toàn ngành về công tác kiểm sát Thi hành án dân sự theo hướng chuyên sâu để đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ; thông báo và khen thưởng kịp thời những tập thể và cá nhân
làm tốt công tác công tác kiểm sát việc tổ chức xác minh điều kiện Thi hành án dân sự.
Thứ tám, về quan hệ phối hợp: Viện kiểm sát các cấp cần phối hợp với cơ quan Thi
hành án dân sự để họ cung cấp cho mình những thông tin, tài liệu về xác minh điều kiện
Thi hành án để tiến hành kiểm sát. Viện kiểm sát hàng tuần cần liên hệ với cơ quan Thi
hành án để họ cung cấp các biên bản mới lập khi xác minh để tiến hành kiểm sát. Thông
qua việc kiểm sát các biên bản xác minh điều kiện Thi hành án phát hiện kịp thời các vi
phạm, những mâu thuẫn, những việc cần xác minh để đề ra yêu cầu cần xác minh. Để
thuận tiện cho việc kiểm sát việc xác minh điều kiện Thi hành án, Viện kiểm sát các cấp
cần đưa vào quy chế phối hợp quy định rõ sau khi xác minh điều kiện Thi hành án, Chấp
hành viên phải phô tô biên bản xác minh gửi cho Viện kiểm sát để việc kiểm sát được kịp
thời. Đối với các đơn vị trong ngành cần thực hiện tốt sự phối hợp ngang cấp và cấp
dưới, khi cần thiết cần báo cáo, thỉnh thị Viện kiểm soát nhân dân cấp trên trực tiếp để
nhận được quan điểm chỉ đạo, từ đó nghiên cứu, vận dụng nhằm kiểm sát Thi hành án
dân sự hiệu quả, đúng pháp luật. Đồng thời, cần quản lý đầy đủ tình hình chấp hành pháp
luật và xử lý kịp thời những vi phạm và tội phạm xảy ra trong Thi hành án dân sự, tăng
cường mối quan hệ phối hợp với cơ quan hữu quan để kịp thời phát hiện những vi phạm
trong việc xác minh điều kiện Thi hành án của Chấp hành viên.
2.2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI
HÀNH ÁN
2.2.1. Thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện Thi hành án trên phạm vi
cả nước
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 chỉ có 01 quy đinh tại khoản 4 điều 13 về
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên: “Yêu cầu chính quyền địa phương, cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân có liên

quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối
hợp xử lý tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến việc thi hành án”.
Sau đó pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và Nghị định 173/2004/NĐ-CP
ngày 30/9/2004 của Chính phủ quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử lý vi phạm hành
chính trong Thi hành án dân sự quy định rõ hơn về xác minh Thi hành án dân sự nhưng
mới chỉ dừng lại việc quy định đây là trách nhiệm của Chấp hành viên, chứ chưa quy
định thủ tục, cách thức xác minh. Vì vậy, việc Chấp hành viên xác minh tài sản, thu nhập
của người phả Thi hành án gặp rất nhiều khó khan, vướng mắc, nhiều khi thực hiện theo
kinh nghiệm.
Luật Thi hành án dân sự ngày 14/11/2008 quy định tương đối cụ thể, toàn diện về
xác minh điều kiện Thi hành án. Cùng vói việc được ”luật hóa” , vấn đề này còn được cụ
thể hóa bởi hệ thống các văn bản dưới luật: Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009


của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về
thủ tục Thi hành án dân sự; Nghị định số 125/2013/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009; Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLTBTP-BTCBLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về
tài khoản, thu nhập của người phải Thi hành án để thực hiện phong tỏa, khấu trừ để Thi
hành án dân sự.
Cho đến hiện nay, vấn đề xác minh điều kiện Thi hành án đã được sửa đổi, bổ sung
cơ bản toàn diện trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự
năm 2008(sau đây gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung) và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân
sự (sau đây gọi tắt là Nghị định 62/NĐ-CP)
. Qua thực tiễn công tác, có thể đánh giá
các quy định hiện hành về xác minh Thi hành án dân sự như sau:
a. Ưu điểm
Hệ thống văn bản pháp luật quy định về xác minh điều kiện Thi hành án đã được
xây dựng đầy đủ : như trên đã cập nhật, từ chỗ chưa có quy định trong các văn bản vi
phạm pháp luật, đến nay xác minh điều kiện Thi hành án dân sự đã được “luật hóa” , các

văn bản hướng dẫn thi hành tương đối cụ thể. Các quy định pháp luật về xác minh điều
kiện Thi hành án tạo điều kiện thuận lợi cho người được Thi hành án: theo điều 44 Luật
Thi hành án dân sự 2008 thì người được Thi hành án có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án; nếu muốn yêu cầu cơ quan Thi hành án dân
sự tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến hành xác minh không có kết quả và
phải chịu chi phí xác minh. Tại Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi, bổ sung điều 44 quy
định về xác minh điều kiện thi hành án, theo đó: đã bỏ nghĩa vụ của người được Thi hành
án trong việc phải xác minh điều kiện Thi hành áncủa người phải Thi hành án, chuyển
hóa thành quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện Thi hành án,
cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện Thi hành án của người phải Thi hành án
cho cơ quan Thi hành án; bỏ nghĩa vụ phải nộp chi phí xác minh. Như vậy, việc xác inh
điều kiện Thi hành án theo Luật sửa đổi, bổ sung là thuuojc về trách nhiệm của Chấp
hành viên, chi phí xác minh do Ngân sách Nhà nước chịu. Để khuyến khích người được
Thi hành án tích cực, chủ động trong việc cung cấp thông tin, điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án Nhà nước sẽ miễn, giảm phí Thi hành án. Khi người được Thi
hành án cung cấp thông tin điều kiện về tài sản của người phải Thi hành án mà cơ quan
Thi hành án có thể tiến hành sử lý tài sản đó để đảm bảo việc Thi hành án thì họ sẽ được
miễn, giảm phí Thi hành án tương ứng với số tiền hoặc tài sản thu được từ thông tin mà
họ cung cấp cho cơ quan Thi hành án.
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định cụ
thể hơn, khắc phục được cơ bản các bất cập trong xác minh điều kiện Thi hành án dân sự:
- Về thời điểm xác minh Thi hành án: Trước đây, theo khoản 2 điều 44 Luật Thi
hanhd án dân sự 2008 thì trong khoản thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết


×