Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn thị xã sơn tây, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.08 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ PHƯƠNG LAN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Chính sách công
Mã số: 834 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN

HÀ NỘI - 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay nhân loại đang bước vào nền văn minh tri thức với những biến đổi
vô cùng to lớn cùng sự phát triển kỳ diệu của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi
hỏi mỗi Quốc gia , mỗi dân tộc, bằng truyền thống và nội lực của mình phải tạo
được những bước đi thích hợp để nhanh chóng tiếp cận và hội nhập vào trào lưu đó.
Đối với Việt Nam hiện nay đây thực sự là thời cơ thuận lợi to lớn để phát triển,
đồng thời đây cũng là một thách thức vô cùng gay gắt, đòi hỏi phải có nghị lực kiên
cường, tài năng sáng tạo để vượt qua. Chính vì lẽ đó mà đầu tư cho sự nghiệp giáo
dục, đào tạo- phát triển nguồn nhân lực đã được Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu.
Đào tạo nghề là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi Quốc gia để hướng tới sự phát triển bền vững.
Việt Nam với 70% dân số trong độ tuổi lao động là lao động nông thôn, do


vậy, lực lượng này đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu lao động, có đóng góp
không nhỏ trong tiến tình phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy đào tạo nghề và
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đang là nhiệm vụ quan trọng và cấp
thiết nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực phục vụ quá trình phát triển kinh tế
xã hội của nước ta ngày càng khởi sắc.
Sơn Tây là một thị xã nằm ở phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội. Tổng số hộ
dân cư là 35.389 hộ dân cư, trong đó số hộ nông thôn là 16.888 hộ, với 68.900 nhân
khẩu. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo và thu nhập bình quân đầu người ở vùng
nông thôn đạt thấp, tỷ lệ hộ nghèo bền vững cao, chưa có bước đột phá. Nhằm nâng
cao thu nhập cho lao động nông thôn (LĐNT) để thực hiện công tác xóa đói, giảm
nghèo, năm 2010 thị xã bắt đầu triển khai khảo sát nhu cầu học nghề của LĐNT và
xây dựng Đề án đào tạo nghề (ĐTN) cho LĐNT đến năm 2020. Qua 09 năm triển
khai Đề án, số lao động được ĐTN tăng dần lên qua các năm: Những kết quả đạt
được trong thời gian qua của công tác ĐTN đặc biệt là ĐTN cho LĐNT trên địa bàn
thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội đã đóng góp không nhỏ cho việc phát triển kinh tế
của địa phương, góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội và giải quyết việc làm, nâng
cao thu nhập và đời sống cho người lao động... Tuy nhiên, bên cạnh

1


những thành tựu đạt được thì công tác ĐTN cho LĐNT vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế và chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội như: chất lượng ĐTN chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu phát triển; chưa chuyển mạnh đào tạo theo nhu cầu của xã hội,
chưa thực sự bám sát vào nhu cầu nguyện vọng của người lao động nhất là đối với
ĐTN nông nghiệp… Xuất phát từ thực tiễn đó, có thể thấy rằng việc nâng cao chất
lượng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại thị xã Sơn Tây, thành phố
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay là một việc cấp thiết. Do vậy, tôi lựa chọn đề tài
“Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn thị xã
Sơn Tây, thành phố Hà Nội” để nghiên cứu làm Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành

chính sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói chung và thực
hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã thu hút sự quan tâm của
các nhà khoa học, nhà nghiên cứu nhiều công trình đã được công bố qua đó đã giúp
cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ và đa chiều hơn về công tác này. Những năm vừa
qua đã có nhiều tác giả có các công trình nghiên cứu và nhiều bài viết nhằm tìm
hiểu thực trạng công tác đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề cho LĐNT nói riêng,
cụ thể như:
Nguyễn Tiến Dũng (2014), Mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong công trình này, những nội dung cơ bản về
đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tác giả đề cập. Tác giả đặc biệt đã đưa ra
một số mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn đã được triển khai trong thực tế
để đánh giá và chỉ ra những vấn đề vướng mắc chưa giải quyết được hiện nay.
Tác giả Nguyễn Viết Sự trong công trình, Giáo dục nghề nghiệp - Những vấn
đề và giải pháp, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005 đã đưa ra tập hợp các nghiên cứu về
vấn đề giáo dục và dạy nghề có giá trị khảo sát những vẫn đề chung. Điểm mạnh
của công trình này là bao quát một cách khá toàn diện những lĩnh vực và các vấn đề
của công tác giáo dục và dạy nghề. Tuy nhiên, những vấn đề đào tạo nghề cho lao
động nông thôn chưa được tác giả đề cập đến một cách sâu sắc.

2


Đi vào cụ thể vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn có một số các công
trình tiêu biểu. Cụ thể như: “Đào tạo nghề cho LĐNT vùng đồng bằng Sông Hồng
trong thời kỳ CNH-HĐH” của tác giả Nguyễn Văn Đại (2012); “Một số giải pháp
đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hoà
(2016); “Đào tạo nghề phải gắn với doanh nghiệp”, của tác giả Lê Quân (Báo Lao
động ngày 28/7/2018); “Có nghề nông dân mới thoát nghèo bền vững”, của tác giả

Đào Ngọc Dung (Báo Dân trí ngày 12/4/2018); “ Nâng cao chất lượng công tác đào
tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chương Mỹ , thành phố Hà
Nội của tác giả Bùi Thị Ngọc Thoa, Tạp chí Kinh tế và chính sách (số 1, 2017 ) ...
Các công trình trên đây đã có một cái nhìn tổng thể về thực trạng công tác đào
tạo nghề cho LĐNT, thực trạng về việc làm và giải quyết việc làm, cũng như thực
trạng về thực hiện các chính sách đào tạo nghề cho LĐNT hiện nay. Các bài báo,
công trình này cũng đã chỉ ra được các tồn tại, hạn chế trong công tác đào tạo nghề
cho LĐNT như: Nhiều cơ quan, bộ ngành, nhiều địa phương và xã hội nhận thức
chưa đầy đủ về công tác đào tạo nghề, trong đó có đào tạo nghề cho LĐNT do vậy
công tác đào tạo nghề cho LĐNT ở nước ta chưa được quan tâm đúng mức; chưa
coi xem đây là công việc thường xuyên, liên tục và có hệ thống mà chỉ coi công tác
này là nhiệm vụ nhất thời, việc thực hiện còn cầm chừng chưa có sự vào cuộc quyết
liệt của các cấp, các ngành, các địa phương. Ngoài ra, bản thân người dân nhận thức
chưa đầy đủ về tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề dẫn đến thái độ không
mặn mà, thậm chí còn thờ ở với công tác này. Công tác tuyên truyền của các cấp,
các ngành, các cơ quan thực hiện chưa tốt; công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu
cầu về đào tạo còn gặp nhiều khó khăn đã làm cho công tác đào tạo nghề, trong đó
có đào tạo nghề LĐNT thời gian qua chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, các công
trình, bài viết cũng đã nêu lên được thực trạng của chính sách đào tạo nghề cho
LĐNT ở nước ta hiện nay, qua đó đề xuất nhiều giải pháp, cách làm nhằm giúp cho
chính sách đào tạo nghề cho LĐNT ngày càng hoàn thiện hơn. Các tác giả đều nhất
trí cho rằng để hoạt động đào tạo nghề cho LĐNT ngày càng đi vào thực tiễn, mang
lại hiệu quả thiết thực cho người dân, cần phải có sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ
thống chính trị từ trung ương đến địa phương, nhất là các cấp chính quyền ở địa

3


phương từ tỉnh đến xã và nhu cầu đào tạo nghề phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của
người dân, người nông dân, từ tình hình phát triển KT-XH của đất nước, của từng

địa phương và của các doanh nghiệp thì việc triển khai, tổ chức thực hiện mới có
hiệu quả được. Tuy nhiên, thực trạng của chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn những năm gần đây chưa thực sự được quan tâm một cách thỏa đáng.
Đặc biệt, với một địa phương đặc thù như thị xã Sơn Tây của thành phố Hà Nội.
Chính vì vậy, chúng tôi tập trung khảo sát và nghiên cứu việc thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại thị xã Sơn Tây nhằm góp phần tăng cường
sự hiểu biết thực tế của địa phương, đóng góp vào một vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, trên cơ sở đó, phân tích đánh giá thực trạng tổ chức
thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn thị xã Sơn
Tây, thành phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta nói chung và thị xã Sơn Tây,
thành phố Hà Nội nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn
- Phân tích thực trạng tình hình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội;
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tại thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội .

4



4.2 .Phạm vi
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực hiện đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn ở thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước về đào tạo nghề, trong đó có đào tạo nghề cho LĐNT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là nghiên cứu tài liệu,
phương pháp tiếp cận chức năng xã hội, tổng hợp, so sánh, thống kê, qui nạp, diễn
dịch. Cụ thể:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa, khái quát hóa các tài liệu sẵn có từ các nguồn tài liệu chính thức, từ các công
trình nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trước đây, các bài viết, tạp chí, sách
báo, internet,.. từ các báo cáo của UBND thị xã Sơn Tây về công tác đào tạo nghề
cho lao động nông thôn,
Phương pháp quy nạp - diễn dịch: Được tác giả sử dụng để diễn đạt, phân
tích và giải thích các vấn đề có liên quan đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
chính sách đối với lao động nông thôn, từ đó khái quát hiện trạng thực hiện chính
sách đào tạo nghề đối với lao động nông thôn trên địa bàn thị xã Sơn Tây để đưa ra
các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện chính sách
đối với với lao động nông thôn trên địa bàn thị xã Sơn Tây trong thời gian tới.
Phương pháp điều tra khảo sát: Đối với lao động nông thôn: Các phiếu điều
tra dành cho đối tượng là lao động nông thôn được thực hiện ngẫu nhiên tại 10 xã
phường của thị xã với số lượng 100 phiếu (10 phiếu/xã, phường). Phiếu trả lời sẽ

được thu thập, xử lý và sử dụng vào phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu để
có được các kết quả khách quan, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

5


Để kết quả nghiên cứu của luận văn được khách quan, khoa học và hợp lý,
ngoài việc tập trung điều tra khảo sát đối với người lao động, luận văn đã xây dựng
bảng hỏi dành cho đối tượng cán bộ, công chức thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn .
Ngoài ra tác giả sử dụng các phương pháp: phương pháp nghiên cứu của kinh
tế chính trị học trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế trên các nguồn tài liệu và
thông tin, các cuộc hội thảo khoa học, sách, báo, tạp chí có liên quan đến đối tượng
nghiên cứu. Đồng thời, sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp
phân tích và tổng hợp, kỹ thuật phân tích SWOT để giải quyết nội dung nghiên
cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn.
Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn giúp hoàn thiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Thông qua thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn có
những nội dung chưa phù hợp cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và tăng tính
khả thi cho chính sách.
Luận văn làm rõ những hạn chế, nguyên nhân từ đó đề xuất một số giải pháp
khắc phục khó khăn trong thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại thị xã

Sơn Tây,TP. Hà Nội đồng thời góp phần thực hiện Quyết định 1956 về phê duyệt đề
án “ Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập về khoa học
chính sách, chính sách công ở các cơ sở đào tạo nghề và là tài liệu tham khảo cho
một số ban, ngành của Thành phố Hà Nội nói chung và thị xã Sơn Tây về thực hiện
đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

6


7. Kết cấu của luận văn
Luận văn kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

7


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1.Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.Khái niệm lao động nông thôn
a) Lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất
tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Theo Các Mác “ lao

động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình
trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và
kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”.[Error! Reference source not
found.]
Theo khái niệm của Liên Hợp Quốc thì : “ Lao động là tổng thể sức dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người
vào cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội”.
Theo khái niệm của tổ chức lao động thế giới (ILO)thì: “ Lực lượng lao động
là một bộ phận dân số trong độ tuổi theo quy định, thực tế có tham gia lao lộng và
những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm”.
Theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012: “Người lao động là người
từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được
trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”.
b) Nông thôn
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, “Nông thôn là phần lãnh thổ sinh sống của
cộng đồng dân cư chủ yếu là nông dân, là vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp,
ngoài ra còn có các hoạt động sản xuất và dịch vụ chủ yếu cho nông nghiệp và cho
cộng đồng nông thôn. Sản xuất chịu ảnh hưởng nhiều điều kiện tự nhiên. [Error!
Reference source not found., tr852]
- Lao động nông thôn
Từ các khái niệm về nông thôn, lao động, có thể đưa ra khái niệm lao động
nông thôn như sau: Lao động nông thôn là một bộ phận trong nguồn lao động xã

8


hội. Lao động nông thôn bao gồm toàn bộ người lao động đang làm việc trong nền
kinh tế quốc dân và những người có khả năng lao động nhưng chưa tham gia hoạt
động trong nền kinh tế quốc dân thuộc khu vực nông thôn.
c) Đặc điểm của lao động nông thôn

Do lao động nông thôn chủ yếu tham gia sản xuất trong các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp có đặc điểm khác với lao động ở các ngành kinh tế khác và được
biểu hiện ở các mặt sau:
Một là: Cần cù, chăm chỉ, chịu khó tuy nhiên mang nặng tư tưởng và tâm lý
tiểu nông, sản xuất nhỏ, sợ rủi ro, ngại thay đổi nên thường hay bảo thủ và thiếu sự
năng động.
Hai là: LĐNT có tính thời vụ, đây là đặc điểm đặc thù không thể xoá bỏ
được của lao động nông thôn, LĐNT có thời kỳ căng thẳng, có thời kỳ nhàn rỗi.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu trong từng thời kỳ, đời sống sản xuất
cũng như thu nhập của lao động nông thôn.
Ba là: Do tính chất, đặc thù công việc trong sản xuất nông nghiệp và tập tục
sinh hoạt nông thôn hình thành tâm lý và thói quen làm việc một cách không thường
xuyên, liên tục, tác phong lề mề, ít sáng tạo trong công việc.
Bốn là: LĐNT có kết cấu phức tạp không đồng nhất và có trình độ rất khác
nhau, nhiều độ tuổi khác nhau trong đó có cả những người ở ngoài độ tuổi lao động.
Năm là: Thu nhập của người LĐNT còn thấp, trình độ thể lực hạn chế do
kinh tế kém phát triển, mức sống thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày
chưa được đáp ứng đầy đủ. Do vậy sức khỏe của người lao động nông thôn chưa tốt.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ phát triển kinh tế và năng suất lao động .
Sáu là: Trình độ của LĐNT thấp khả năng tổ chức sản xuất kém. Nguồn LĐNT
chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ chuyên môn của LĐNT thấp, ngay thực tế cả
những người trong độ tuổi lao động thì trình độ vẫn thấp hơn so với lao động trong các
ngành kinh tế khác. Từ đó đòi hỏi công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải
tính đến các yếu tố như độ tuổi, học vấn, kinh nghiệm trong thực tiễn.

1.1.2.Khái niệm nghề và đào tạo nghề.
a) Đào tạo: Đào tạo được hiểu là quá trình truyền đạt, lĩnh hội nghiệp vụ cho

9



người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định.
Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến thức
chuyên nghiệp.Việc đào tạo kiến thức chuyên môn có nhiều hình thức, cấp độ khác
nhau để người học lựa chọn phù hợp với điều kiện thực tế của mình với các cấp
trình độ: Trung cấp; cao đẳng; đại học, sau đại học với các phương thức:chính quy,
tại chức hoặc từ xa.
b) Nghề: là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo,
con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật
chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc. Nghề nghiệp
cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu vong. Chẳng hạn,
do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công nghệ điện tử, do sự
phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả một nền công nghệ tin
học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần cứng, phần mềm và các thiết bị bổ
trợ … Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ
sinh học và các ngành dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây,do sự chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường đã tạo ra những biến đổi sâu sắc
trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội.Trong cơ chế thị trường, nhất là trong nền kinh
tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng
hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của
người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng
chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Khái niệm phân công công tác
sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Con người phải chủ
động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để
tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất
hẹp mà ở đó con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những
giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động… hoặc giá trị tinh thần

(sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh

10


tồn và phát triển của xã hội.
Thống kê trên thế giới hiện nay có khoảng 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên
môn. Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở
Mỹ con số đó lên tới 40.000. Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng
nghề và chuyên môn nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề
nghiệp”. Có những nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác.
Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản
xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa.
Theo thống kê gần đây cho thấy trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải
và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Mỗi năm ở nước ta có cả 3 hệ trường (dạy nghề,
trung học chuyên nghiệp và cao đẳng - đại học) đào tạo khoảng 300 nghề bao gồm
hàng nghìn chuyên môn khác nhau.
c) Đào tạo nghề: Theo quy định tại Điều 3 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014:
“Đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ
nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc
làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp” [Error!
Reference source not found., tr1]. Hay nói theo cách khác, đào tạo nghề là quá
trình tác động có mục đích, có tổ chức đến người học nghề để hình thành và phát
triển một cách có hệ thống những kỹ năng ,kiến thức và thái độ nghề nghiệp cần
thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, trong đó có nhu bản thân người học nghề,
nhu cầu doanh nghiệp, và nhu cầu Quốc gia .
Mục tiêu của đào tạo nghề là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất kinh
doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo
đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với
môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất,

chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.
d) Đặc điểm của đào tạo nghề
- Đào tạo nghề gắn chặt với sản xuất, với doanh nghiệp, với việc làm đặc biệt
trong điều kiện kinh tế thị trường.

11


- Là hoạt động đào tạo nghề mang tính thực hành kỹ thuật cao chiếm khoảng 80%
thời gian học tập, có nghề chiếm tới 90%.
- Đối tượng học nghề là những người đã trưởng thành, thậm chí đã lớn tuổi,
trừ một số trường hợp khác pháp luật quy định.
- Hình thức dạy nghề rất phong phú và đa dạng bao gồm: Dạy nghề ngắn
hạn, dạy nghề dài hạn, dạy nghề theo modul,dạy nghề kèm cặp, dạy nghề lưu động.
e)Phân loại đào tạo nghề
Căn cứ vào trình độ nghề, có 3 bậc: trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp và trình độ
cao đẳng.
- Học nghề trình độ sơ cấp diễn ra trong khoảng thời gian từ 3 tháng đến dưới 1
năm nhằm trang bị cho người học kĩ năng thực hành một nghề đơn giản, tác phong
công việc, tạo điều kiện cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm hoặc có
điều kiện học lên trình độ cao hơn. Các cơ sở dạy nghề trình độ sơ cấp như: trung
tâm dạy nghề, trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề
trình độ sơ cấp. Người học nghề trình độ sơ cấp được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề
theo quy định của pháp luật.
- Học nghề trình độ trung cấp diễn ra trong khoảng thời gian từ 1 năm đến 2
năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông,
đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở thì đào tạo từ 3 năm tùy theo nghề
đào tạo. Học nghề trình độ trung cấp trang bị cho người học kiến thức chuyên môn
và năng lực thực hành các công việc của 1 nghề, có khả năng làm việc độc lập và

ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, tự tạo việc làm hoặc học có điều kiện
học lên trình độ cao hơn… Các cơ sở dạy nghề trình độ trung cấp bao gồm: trường
trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trung cấp; trường trung
cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề trình độ
trung cấp. Khi tốt nghiệp, người học nghề được cấp bằng tốt nghiệp trung cấp nghề
theo quy định của pháp luật.
- Học nghề trình độ cao đẳng: diễn ra trong khoảng thời gian từ 2 năm đến 3 năm
tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, từ 1

12


năm đến 2 năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp
nghề cùng ngành nghề đào tạo. Mục tiêu của học nghề trình độ cao đẳng là trang bị
kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề, có khả
năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng
dụng kỹ thuật, có khả năng tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn. Cơ sở
dạy nghề trình độ cao đẳng bao gồm: trường cao đẳng nghề; trường cao đẳng,
trường đại học có đăng ký dạy nghề trình độ cao đẳng. Sau khi kết thúc khóa học,
người học nghề được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề theo quy định của pháp
luật
Từ những cơ sơ lí luận trên có thể hiểu: Đào tạo nghề là hoạt động có mục đích, có
tổ chức nhằm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của một nghề nào đó để
người lao động có những hiểu biết nhất định về chuyên môn nghiệp vụ, có những
kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cần thiết để thực hiện thành công nghề đã được
đào tạo.
1.1.3.Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
- Khái niệm chính sách
Chính sách là gì? Theo Từ điển tiếng Việt “chính sách” được hiểu là “sách lược và
kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị

chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…”. Có những cách tiếp cận khác
“chính sách được hiểu là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn
cần hướng tới, cần đạt được hay “Chính sách chính là linh hồn, là nội dung của
pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách khi nó
được thừa nhận, được “nhào nặn” bởi “bàn tay công quyền”, tức là được ban hành
bởi nhà nước theo một trình tự luật định.
Qua phân tích trên cho ta thấy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính
trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy quyền lực công - nhà nước và chính sách
công là sự lựa chọn hành động của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các
quyết định liên quan với nhau do Nhà nước ban hành tác động lên đối tượng để giải
quyết một vấn đề công nhằm đạt được các mục tiêu nhất định .
- Chính sách công.

13


“ Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng
một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng
mục tiêu và cách thức giải quyết các vấn đề công trong xã hội” [9, tr51].
Có thể nói, Chính sách công là sự lựa chọn hành động của Nhà nước
được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do Nhà
nước ban hành tác động lên đối tượng để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt
được các mục tiêu nhất định.
Với cách tiếp cận Chính sách công như vậy, bàn đến chính sách đào tạo nghề
chúng ta có thể hiểu đó là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau của Nhà
nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ thực hiện để đào tạo nghề cho
người lao động, góp phần đảm bảo nhu cầu cuộc sống của họ và yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước .
Trong hệ thống chính sách đào tạo nghề, chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn là ý chí của Nhà nước thể hiện thông qua tập hợp các quyết định để

lựa chọn mục tiêu nguyên tắc và các biện pháp nhằm phát triển quy mô, cơ cấu, số
lượng và chất lượng nguồn lao động khu vực nông thôn nhằm phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.3.1. Mục đích và nội dung cơ bản của chính sách đào tạo nghề.
Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ở khu vực nông thôn. Lao động nông thôn đa số có trình độ học vấn thấp,
khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin còn nhiều
hạn chế. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn giúp người lao động nâng cao nhận
thức về ngành, nghề nào đó sau khi được đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thị trường
lao động từ đó tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tại điều 33, Luật giáo dục năm 2005 và tại Điều 4 Luật Dạy nghề có nêu: Mục tiêu
dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực
thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm, tạo điều kiện cho
người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc

14


làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước”.
Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn có một số nội dung cơ bản như
sau: .
Chính sách đối với người học: LĐNT khi học nghề nhất là lao động nông thôn được
hưởng chính sách người có công, quân nhân xuất ngũ, người dân tộc thiểu số, người
thuộc hộ nghèo, người tàn tật, khuyết tật..được hỗ trợ chi phí học nghề, sau khi học
nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm, tự tạo việc làm, lập thân, lập nghiệp. Chính phủ đã ban nhiều bản
pháp lý nêu rõ về các chính sách như: Quyết định số 52/2012/QĐ-TTg ngày
16/11/2012 về chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động bị
thu hồi đất nông nghiệp.

Chính sách đối với giảng viên: Chính sách đối với giáo viên dạy nghề ngày càng
được quan tâm. Hiện nay họ được hưởng các chính sách chung đối với nhà giáo
trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngoài ra, còn có một số chế độ, chính sách riêng
đối với giáo viên dạy nghề như: chính sách về phụ cấp cho giáo viên khi dạy thực
hành các nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và phụ cấp đặc thù cho giáo viên dạy
nghề cho người tàn tật, khuyết tật. Giáo viên dạy nghề ở các vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn đều có chế độ đãi ngộ riêng.
Chính sách đối với cơ sở đào tạo nghề: Nhà nước có chính sách đầu tư mở
rộng mạng lưới cơ sở đào tạo nghề như hỗ trợ kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất, thiết
bị dạy nghề cho các trung tâm dạy nghề, hỗ trợ cho các làng nghề truyền thống để
tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn. Ngày 23/5/2014, thủ tướng đã ban hành
quyết định số 761/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển trường nghề chất lượng cao
đến năm 2020, trong đó nêu rõ những ưu đãi về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
hiện đại để phát triển hệ thống trường này, góp phần đào tạo nhân lực kỹ thuật trực
tiếp trong sản xuất, dịch vụ, có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp cao,
trên cơ sở tăng cường năng lực cạnh tranh của người lao động.

15


1.2. Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
1.2.1.Khái niệm thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao đông nông thôn

Việc tổ chức thực hiện chính sách (Policy Implementation) là quá trình biến các
chính sách thành những kết quả, trên thực tế là các hoạt động có tổ chức trong bộ
máy nhà nước, nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Nói
cách khác, thực hiện chính sách công là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn
đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện
chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính
sách công [4].

Tổ chức thực hiện chính sách có vị trí rất quan trọng, nó là một khâu hợp
thành chu trình chính sách, nếu khuyết thiếu công đoạn này thì chu trình chính sách
không thể tồn tại.Tổ chức thực hiện chính sách để từng bước thực hiện các mục tiêu
chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn
đề, nhiều lĩnh vực nên không thể cùng một lúc giải quyết hết tất cả mà phải lần lượt,
và việc thực thi chính sách công giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng
với mục tiêu chung do đó nó có thể giải quyết các vấn đề đặt ra. Trong thực tế mục
tiêu chính sách chỉ có thể đạt được thông qua thực thi chính sách, đồng thời các mục
tiêu của chính sách có quan hệ và ảnh hưởng đến mục tiêu chung.
Thực hiện chính sách để khẳng định tính đúng đắn của chính sách có nghĩa là
chính sách này được thực hiện triển khai rộng rãi trong đời sống xã hội và được xã
hội chấp nhận thì điều này cũng phản ánh tính đúng đắn của chính sách này và
ngược lại. Qua thực hiện giúp chính sách ngày càng hoàn chỉnh vì chúng ta đều biết
chính sách do một tập thể hoạch định nên, nhưng cũng không tránh khỏi
ý kiến chủ quan làm ảnh hưởng tới hiệu quả của chính sách, để khắc phục điều
này thì khi chính sách được thực thi thì qua đó rút kinh nghiệm và chỉnh sửa để
hoàn thiện chính sách.
Từ cách tiếp cận nêu trên, khi bàn đến “thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn chúng ta hiểu đó là một khâu cấu thành của chu trình chính
sách đào tạo nghề, là một bộ quá trình chuyển hóa ý chí của Nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nông thôn vào trong thực tế thông qua việc ban hành

16


các văn bản, chương trình dự án thực hiện chính sách đào tạo nghề và tổ chức thực
hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách và đạt được mục tiêu Nhà nước
đề ra trong quá trình phát triển xã hội.
1.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách công, các

chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong quá trình thực hiện chính
sách, số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thể tham gia tùy thuộc vào từng
chính sách cụ thể và bối cảnh của từng nước. Tuy nhiên , có thể nhóm các chủ thể
tham gia vào thực hiện chính sách công thành các nhóm:
Nhóm 1: chủ thể thực thi là các cơ quan Nhà nước và nhân sự của các cơ
quan đó - đây là chủ thể chịu trách nhiệm thực thi chính sách. Trong chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn Bộ lao động- thương binh và xã hội là cơ quan
thường trực của Đề án, chủ trì phối hợp với các bộ, ngành triển khai đề án đạo tạo
nghề cho lao động nông thôn.
Các cơ quan phối hợp gồm:
Ở Trung ương: là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ giáo dục và
đào tạo; Bộ nội vụ ; Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ở địa phương: Phòng lao động thương binh và xã hội, Phòng kinh tế, Phòng
nội vụ, Phòng giáo dục & đào tạo, Phòng Tài chính- kế hoạch, Phòng văn hóa và
thông tin, Trung tâm văn hóa, Ngân hàng chính sách xã hội, Trung tâm giáo dục
thường xuyên, Ủy ban mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể.
Nhóm 2: chủ thể tham gia là các đối tác phi Nhà nước, các doanh nghiệp,
nhà máy, công xưởng, trang trại…
Nhóm 3: Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách là
lao động nông thôn .
1.2.3. Quy trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn .

Quá trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn được
triển khai thông qua hệ thống bộ máy nhà nước, với sự tham gia của các đối tác. Xét
ở góc độ chung nhất, quá trình triển khai thực hiện chính sách công được tổ chức
thành các nội dung như được mô tả dưới đây

17



Hình 1.1: Sơ đồ triển khai thực thi chính sách công
Chính sách công

Cơ quan hoạch
định chính sách

Các văn bản thực thi
chính sách
Triển
khai
thực
thi
chính

Thi hành văn bản

sách

Các cơ quan, tổ
chức thực thi chính
sách công
Các cơ quan, tổ
chức thực thi
chính sách công

Các chương trình,
dự án thực thi
chính sách công
Tổ chức thực hiện

chương trình, dự án

công

Sơ kết, tổng kết thi
hành văn bản

Các cơ quan, tổ
chức thực thi
chính sách công

Đánh giá giữa kỳ và
đánh giá kết thúc
chương trình, dự án

Nguồn : Lê Văn Hòa (2016), Quản lý thực thi chính sách công theo kết quả
Trong sơ đồ trên, đường thẳng
thể hiện sự liên kết giá các nội dung; đường mũi
tên
thể hiện trách nhiệm của các cơ quan tổ chức ; đường mũi tên biểu diễn trật
tự tiến hành các công việc; đường mũi tên biểu diễn tuyến báo cáo kết quả.
Như vậy, về cơ bản quy trình thực hiện chính sách bao gồm một số nội dung như sau:
1.2.3.1 Lập kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Đây là bước cần thiết và rất quan trọng vì đối với chính sách nói chung,
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng thì việc tổ chức thực hiện
chính sách là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần
được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan Nhà nước triển khai thực hiện
chính sách một cách chủ động hoàn toàn.

18


Báo
cáo

kết
quả
thực
thi
chính
sách
công


Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông
thôn được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai
thực hiện chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch,
chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động nông thôn bao gồm những nội dung cơ bản sau:
-

Kế hoạch tổ chức, điều hành

-

Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực

-

Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thi hiện chính sách


-

Dự kiến những nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa

vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan Nhà nước tham gia tổ chức
điều hành chính sách.
1.2.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành triển khai tổ chức
thực hiện theo kế hoạch. Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền,
vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp các đối tượng chính sách và mọi
người dân tham gia thực hiện hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng
đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định; và về tính khả thi của chính
sách…để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu của quản lý Nhà nước. Đồng thời còn giúp
cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhận thức được đầy đủ
tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm
kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực
hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.

Phổ biến, tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách đào tào nghề cho lao
động nông thôn được thực hiện thường xuyên liên tục, kể cả khi chính sách đang
được thực hiện, để mọi đối tượng cần tuyên truyền luôn được củng cố niềm tin vào
chính sách và tích cực tham gia vào thực hiện chính sách. Phổ biến, tuyên truyền
chính sách bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng
qua các phương tiện thông tin đại chúng…tuỳ theo yêu cầu của các cơ quan quản lý,

19



tính chất của từng loại chính sách và điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn hình thức
tuyên truyền vận động thích hợp.
1.2.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn thường được thực hiện trên
phạm vi rộng lớn, tối thiểu cũng là một địa phương. Vì thế số lượng cá nhân và tổ
chức tham gia thực hiện chính sách là rất lớn. số lượng tham gia bao gồm các đối
tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực hiện của
Nhà nước. Bởi vậy, muốn tổ chức thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn có hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan
quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực hiện chính
sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.
1.2.3.4. Duy trì chính sách:

Duy trì chính sách là làm cho chính sách tồn tại được và phát huy hiệu quả và
chất lượng trong thực tiễn xã hội. Việc tổ chức duy trì thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn là bước quan trọng để đưa chính sách vào cuộc sống

1.2.3.5.Điều chỉnh chính sách:
Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong quá trình thực thi do
tác động của nhiều yếu tố sẽ bộc lộ sự bất cập. Điều chỉnh chính sách là một hoạt
động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách.
Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày
càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào
ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực
tế việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ
quan quản lý nhà nước, các cấp, các ngành chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế
chính sách để thực hiện có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục
tiêu chính sách. Hoạt động điều chỉnh chính sách đòi hỏi phải chính xác, hợp lý, nếu
không sẽ làm sai lệch, biến dạng chính sách, làm cho chính sách trở nên kém hiệu
quả, thậm chí không tồn tại được. Muốn vậy, cơ quan đơn vị, các cấp, các ngành

phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện mới kịp thời phát hiện
những vấn đề chính sách để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung.

20


1.2.3.6. Đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách
Đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn là hoạt
động của cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công
cụ hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực hiện nêu cao ý thức trách nhiệm trong
thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách.
Kiểm tra, theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực hiện chính sách vừa kịp thời
bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính
sách, giúp nâng cao kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương.
Chủ thể kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho
lao động nông thôn là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên để
đảm bảo tính khách quan và chính xác về kết quả kiểm tra đánh giá, quá trình này
cần có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể nhân dân, thậm chí là của chính đối
tượng chính sách. Có như vậy mới đảm bảo được tính dân chủ trong quá trình thực
hiện chính sách.
1.2.3.7. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Tổ chức thực hiện chính sách được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì
chính sách. Trong quá trình đó, người ta có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ kết
quả thực hiện chính sách, trong đó có đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi kết
thúc chính sách. Đánh giá tổng kết trong bước thực hiện chính sách được hiểu là
quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo- điều hành và chấp hành chính sách của các
đối tượng thực hiện chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực hiện
chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra còn xem xét

cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị xã hội và xã hội trong việc
tham gia thực hiện chính sách.
Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách
công trong các cơ quan Nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế
được xây dựng ở bước 1 của phần này.

21


Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ quan
Nhà nước, còn xem xét, đánh giá việc thực hiện của các đối tượng tham gia thực
hiện chính sách công bao gồm: các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián
tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội với tư cách là công dân.
Thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là tinh thần hưởng ứng
với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ chế, biện pháp
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách
trong từng điều kiện về không gian và thời gian.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn
Trong thực tế có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách
đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Việc triển khai thực hiện chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn chịu ảnh chính của một số yếu tố sau đây:
1.3.1. Điều kiện tự nhiên : Các vùng có tác động đến sự phân bố lao động, chất
lượng lao động, từ đó sẽ ảnh hưởng đến công tác đào tạo nghề. Điều kiện tự nhiên,
thời tiết, khí hậu tạo ra các đặc điểm con người khác nhau giữa các địa phương,
vùng, miền dẫn đến những đặc điểm khác nhau giữa lao động các vùng, miền như
lao động thuộc các dân tộc khác nhau, lao động ở các vùng sinh thái khác nhau, lao
động ở đồng bằng và miền núi, hải đảo đều có những đặc trưng về tập quán,
phương thức sản xuất khác nhau. Khí hậu, thời tiết giữa các vùng khác nhau dẫn
đến hệ sinh thái khác nhau, cây trồng, con vật nuôi khác nhau, tạo ra cách thức sản

xuất, cách thức canh tác khác nhau của người lao động. Vùng đồng bằng người dân
thường giỏi về nghề trồng lúa, người dân ở vùng ven biển thường giỏi nghề thủy
sản, người dân vùng miền núi, trung du lại giỏi về nghề trồng cây công nghiệp, lâm
nghiệp… Điều kiện khí hậu, thời tiết làm cho một số vùng thường xuyên gặp bão
lụt, dẫn đến sản xuất của người dân hay gặp rủi ro. Điều kiện về khí hậu, thời tiết
cũng tạo ra tính chất mùa vụ khác nhau dẫn đến công việc và thời gian của lao động
làm nghề nông cũng khác nhau. Tất cả các yếu tố về điều kiện tự nhiên đều ảnh
hưởng đến việc xây dựng kế hoạch, lựa chọn hình thức, danh mục nghề đào tạo cho
lao động nông thôn.

22


1.3.2. Quy mô và chất lượng của lực lượng lao động nông thôn
Lao động tham gia học nghề là nhân tố trung tâm, có tính quyết định đối với
công tác đào tạo nghề. Nhận thức của lao động nói chung và lao động nông thôn nói
riêng là cách nhìn nhận, đánh giá về tầm quan trọng của việc học nghề.Trình độ văn
hóa, sự hiểu biết, tâm lý, cá tính, quỹ thời gian cùng nhận thức và thái độ nghề của
những học viên có ảnh hưởng lớn đến thực hiện chính sách đào tạo nghề. Nếu lao
động có đánh giá đúng đắn hơn về tầm quan trọng của việc học nghề thì lượng lao
động tham gia học nghề sẽ chiếm tỷ lệ lơn hơn và sẽ có cơ cấu trẻ hơn, đa dạng hơn.
Để chính sách đào tạo nghề cho LĐNT thực hiện thực sự đạt hiệu quả, thì
giữa các ngành nghề đào tạo đòi hỏi người lao động phải có trình độ nhất định. Như
đào tạo nghề trong lĩnh vực nông nghiệp, điều kiện học vấn chỉ đòi hỏi ở mức tốt
nghiệp trung học cơ sở, nhưng đối với những ngành công nghiệp, dịch vụ thì điều
kiện về học vấn cao hơn, tối thiểu là trung học phổ thông. Tuy nhiên các học viên
tham gia đào tạo nghề là người lớn tuổi mới chỉ tốt nghiệp THCS. Do vậy quá trình
tiếp thu kiến thức cũng có phần hạn chế. Điều này đòi hỏi trong quá trình thực hiện
chính sách đào tạo nghề các giảng viên cần quan tâm đến trình độ và mức độ tiếp
thu kiến thức của người học để có phương pháp truyền đạt dễ hiểu, chỉ việc tận tay.

Đạo đức, tác phong, kỷ luật của người lao động là những phẩm chất để đánh
giá sự chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp trong điều kiện sản xuất của một xã
hội phát triển. Những điều này, một mặt được hình thành từ tập quán, thói quen, lối
sống của người lao động nhưng căn bản hơn, được hình thành thông qua quá trình
đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng trong các cơ sở giáo dục đào tạo.
Đối với Việt Nam, một đất nước có nền sản xuất nông nghiệp chiếm đa số
trong cơ cấu nền kinh tế thì vấn đề giáo dục đạo đức, tác phong, kỷ luật là điều vô
cùng cần thiết không chỉ đối với lao động nông thôn. Vì chúng ta biết, người nông
dân với bản tính cần cù, chịu khó, thông minh đã góp phần to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, với bản tính chất phác, thật thà, tự do đôi
khi thái quá khiến cho ý thức trách nhiệm với công việc, tác phong, kỷ luật lao động
của lao động nông thôn hiện nay chưa thật cao. Cùng với tâm lý bảo thủ, ngại thay
đổi, kém năng động, khi tham gia quá trình hội nhập và phát triển của đất nước

23


khiến cho lao động nông thôn khó thích nghi và hòa nhập trong điều kiện luôn thay
đổi của xã hội.
Chính vì vậy, trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn, vấn đề đặt ra
không chỉ là việc chúng ta đào tạo kỹ năng, nâng cao năng lực nhận thức và sáng
tạo của đội ngũ này, mà quan trọng không kém chính là việc chúng ta cần chú trọng
giáo dục đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động cho họ. Chỉ khi hình thành trong họ ý
thức tự giác về kỷ luật lao động, trách nhiệm với công việc, nâng cao đạo đức nghề
nghiệp và lối sống thì lao động nông thôn mới phát huy hết khả năng của mình, trở
thành một động lực quan trọng, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.
1.3.3. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất trong dạy nghề
Đội ngũ nhà giáo có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, kinh nghiệm và nhiệt
huyết trong dạy nghề, truyền nghề sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo. Bên cạnh đó đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý trong dạy nghề được

xác định là chủ thể trong quá trình dạy nghề, truyền nghề; trong quản lý, sử dụng
phương tiện, thiết bị, cơ sở vật chất giảng dạy; trong xây dựng chương trình, giáo
trình phục vụ giảng dạy…; do đó, đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dạy nghề cũng như sự thành công
trong việc thực hiện chính sách đào tạo nghề, trong đó có đào tạo nghề cho LĐNT.
Đào tạo nghề có những nét khác biệt so với cấp học khác trong nền giáo dục quốc
dân, đó là ngành nghề đào tạo đa dạng, học viên và nghề học có nhiều cấp trình độ
khác nhau. Sự khác biệt đó làm cho đội ngũ giáo viên đào tạo nghề cũng rất đa dạng
với nhiều cấp trình độ khác nhau.
1.3.4. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
- Đối với lĩnh vực NN và phi NN: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động có tác động rất lớn đến việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho LĐNT,
do có sự chuyển đổi nghề nên một bộ phận LĐNT rất lớn cần phải được đào tạo phục
vụ cho quá trình đô thị hoá ở nông thôn. Chiến lược dạy nghề cùng lúc phải đáp ứng
hai yêu cầu vừa là đào tạo mới, chuyển đổi ngành nghề đối với lao động trước đây họ là
nông dân, để cung ứng cho các nhà máy, cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, đồng thời phải đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao để đáp

24


×