Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng người khuyết tật thụy an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.04 KB, 67 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HẢI HÀ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC ĐỐI VỚI TRẺ EM
KHUYẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG NGƯỜI KHUYẾT TẬT THỤY AN

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. ĐẶNG THỊ HOA

Hà Nội - 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu đang thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 của
Đại Hội đồng Liên hợp quốc vì sự phát triển bền vững coi phát triển con
người làm trọng tâm với mục tiêu “Để không ai bị bỏ lại phía sau”, đặc biệt là
các nhóm yếu thế trong xã hội bao gồm phụ nữ, trẻ em và người khuyết tật,
Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó.
Ở Việt Nam, trẻ em khuyết tật thường được coi là những đứa trẻ bất bình
thường, đó là sự kì thị hiện hữu trong một số bộ phận người dân, khiến cho
những trẻ em này bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vì phần lớn họ tin rằng các em
không có khả năng đóng góp cho xã hội. Cho nên các em không được tiếp cận
với các dịch vụ xã hội tối thiểu như y tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật. Đặc
biệt, do không được hưởng các cơ hội học tập, không được đến trường nên


các em thiếu kiến thức và kĩ năng sống, kéo theo mất cơ hội việc làm và dần
mất năng lực tham gia xã hội.
Tại điều 7 Công ước về quyền người khuyết tật (Đại hội đồng liên hợp
quốc thông qua 13/03/2007) có nêu.
1. Các quốc gia thành viên tiến hành mọi biện pháp cần thiết để bảo đảm
cho trẻ em khuyết tật được hưởng trọn vẹn các quyền và tự do cơ bản của con
người trên cơ sở bình đẳng với các trẻ em khác.
2. Trong mọi hành động liên quan tới trẻ em khuyết tật, lợi ích tốt nhất
của trẻ phải được đặt lên hàng đầu.
3. Các quốc gia thành viên bảo đảm rằng trẻ em khuyết tật có quyền bày
tỏ ý kiến một cách tự do về mọi vấn đề ảnh hưởng tới các em, ý kiến của trẻ
em phải được cân nhắc thích đáng phù hợp với độ tuổi và sự trưởng thành
của các em, trên cơ sở bình đẳng với các trẻ em khác, bảo đảm cung cấp cho
các em sự trợ giúp phù hợp với lứa tuổi và với tình trạng khuyết tật để các em
thực hiện quyền đó.

1


Các quyền của người khuyết tật đã và đang được thế giới hết sức quan
tâm. Quyền của NKT được đảm bảo thực hiện sẽ có ý nghĩa không chỉ đối với
người khuyết tật mà còn đối với toàn xã hội. Mọi hoạt động của Nhà nước, xã
hội thực hiện các chính sách về y tế, giáo dục, dạy nghề…nhằm hiện thực hóa
các quyền của NKT đã nên trong Công ước để giúp NKT hòa nhập xã hội.
Người khuyết tật luôn mong muốn được tham gia các hoạt động văn hóa
nghệ thuật, thể dục thể thao. Nếu có những chính sách hỗ trợ trong những
hoạt động trên thì họ sẽ phát huy những khả năng còn lại của mình để tham
gia, điều đó giúp cho NKT đóng góp cho xã hội. Đặc biệt các chính sách liên
quan đến giáo dục sẽ trợ giúp cho NKT có được những kiến thức cơ bản và nó
sẽ trở thành nền tảng cần thiết và quan trọng để họ có thể tham gia học văn

hóa, học nghề. Trong môi trường học tập, NKT sẽ có điều kiện để giao tiếp
với thầy cô cũng như bạn bè và những người khác. Đây môi trường tốt nhất
và nhanh nhất để NKT phát triển nhận thức và trí tuệ của mình. Để họ cảm
thấy luôn được quan tâm, hòa đồng không bị phân biệt đối xử hay xa lánh.
Mặt khác, giáo dục giúp NKT có được những kiến thức kỹ năng, sự hiểu biết
nên sẽ giúp họ tự tin và chủ động hơn trong cuộc sống, mang lại cho họ
những nhận thức đúng đắn để tự tin và có nghị lực vươn lên những khó khăn
trong cuộc sống.
Chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà
nước, chính phủ cũng như các tổ chức chính trị xã hội đã có điều kiện quan
tâm nhiều hơn đến người khuyết tật và trẻ em khuyết tật thông qua hàng loạt
các chính sách, đạo luật nhằm hỗ trợ người khuyết tật như: Pháp lệnh người
khuyết tật được ban hành ngày 30 tháng 7 năm 1998; bộ luật lao động; luật
giáo dục; luật phổ cập giáo dục tiểu học; luật dạy nghề; luật bảo vệ chăm sóc
và giáo dục trẻ em; cùng hệ thống văn bản pháp quy liên quan. Bộ luật lao
động sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật NKT ngày 17/6/2010 nhằm bảo đảm
sự bình đẳng cho NKT, TEKT, dần giúp người khuyết tật, trẻ em khuyết tật

2


đã tiếp cận được các dịch vụ y tế, phục hồi chức năng, giáo dục, việc làm, văn
hóa, thể thao, giải trí.
Đặc biệt thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ em khuyết tật là một
trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước ta không chỉ đặt
làm cam kết quốc gia mà còn có trong Công ước quốc tế. Các chính sách giáo
dục đối với NKT được quy định trong Luật và các văn bản quy phạm pháp
luật khác cho thấy việc giáo dục NKT đã được cụ thể hóa và triển khai thực
hiện. Tuy nhiên, từ mong muốn đến thực tế, việc thực hiện chính sách giáo
dục đối với trẻ em khuyết tật vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

giải quyết. Do vậy học viên đã lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách giáo
dục đối với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng
người khuyết tật Thụy An” làm luận văn thạc sỹ ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thực hiện thực chính sách giáo
dục cho TEKT dưới nhiều góc độ khác nhau được thể hiện dưới các hình thức
như: Đề tài khoa học, giáo trình, bài báo, bài đăng tạp chí....Có thể khái quát một
số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề dưới góc độ tiếp cận như sau:

Hồ Văn Thông (Chủ biên, 1999), tìm hiểu về khoa học chính sách công,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tương đối có
hệ thống các vần đề về chính sách công dưới góc độ lý thuyết như: khoa học
chính sách công và khái niệm về chính sách công; những khuynh hướng phát
triển cơ bản của chính sách công; công trình là tài liệu tham khảo quan trọng
của luận văn.
Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Chính sách công - Cơ sở
lý luận, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Đề tài đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề về chính sách
công như: Lý thuyết chính sách công; các công trình nghiên cứu chính sách
công; các cách tiếp cận khi nghiên cứu chính sách công.

3


Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên, 2014), Chính sách công - Những vấn đề cơ
bản, Nxb chính trị quốc gia, cuốn sách đã đề cập đến chính sách công dưới
góc độ chung nhất, bao gồm các vấn đề như: phân tích chính sách công; hoạch
định chính sách công; tổ chức thực hiện chính sách công; nhận thức về chính
sách công.
Tác giả Nguyễn Đức Minh, năm 2015, bài báo “Chính sách giáo dục hòa

nhập trẻ khuyết tật Việt Nam ”.tài liệu đề cập quan điểm, chính sách về tham
gia giáo dục hòa nhập cho TEKT; nêu thực trạng và giải pháp cho chính sách
phát triển giáo dục hòa nhập tại Việt Nam.
Đề tài ”Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt Nam”,
của Nguyễn Hữu Toàn (2010). Tác giả cho rằng trợ giúp xã hội không chỉ là
cứu đói, hỗ trợ lương thực, cho cá nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên tai,
chiến tranh, tai nạn, mà còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ
giúp đột xuất và trợ giúp thường xuyên. Mỗi hợp phần chính sách lại bao gồm
các chính sách bộ phận đặc biệt như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên
tại cộng đồng gồm các chính sách bộ phận là: trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ
giúp về y tế, trợ giúp về giáo dục, trợ giúp về việc làm, trợ giúp về học nghề.
Vụ Pháp chế, Bộ Lao động - Thương binh xã hội và Unicef (2009), “Xây
dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: Đánh giá pháp luật và chính sách
bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam”. Các tác
giả đã rà soát, đánh giá các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến trẻ em
Việt Nam, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sách các chuẩn mực
quốc tế, tìm ra những thiếu hụt và hạn chế của pháp luật Việt Nam, trên cơ sở
đó kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đảm bảo
từng bước hòa nhập với pháp luật và các chuẩn mực quốc tế.
Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội (2013), “Báo cáo năm 2013 về hoạt động giúp
người khuyết tật Việt Nam”. Báo cáo tổng kết những hoạt động và kết quả

4


chủ yếu về hỗ trợ người khuyết tật đã triển khai trong năm của các bộ, ngành,
cơ quan chức năng, tổ chức xã hội với sự điều phối của ban điều phối các hoạt
động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, đánh giá tồn tại, nguyên nhân, bài học
kinh nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật trong

năm 2014 cũng như tiếp tục thúc đẩy thực hiện Luật người khuyết tật và đề án
trợ giúp người khuyết tật của các cơ quan, tổ chức thành viên của Ban điều
phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam.
Giáo trình “Can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật” do Trần Thị Thiệp, Hoàng
Thị Tho và Trần Thị Minh Thành thực hiện năm 2014,do NXB Giáo Dục ấn
hành có nội dung trình bày về những vấn đề chung về can thiệp sớm cho trẻ
khuyết tật, tổ chức can thiệp và giáo dục hòa nhập cho trẻ khiếm thính, trẻ
chậm phát triển trí tuệ, trẻ khó khăn về ngôn ngữ và vận động.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về trẻ em, TEKT, nhưng chưa có
một nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống việc thực hiện chính sách giáo
dục đối với TEKT ở Việt Nam, do đó việc lựa chọn của em không trùng với
các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ
em khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An và
thực tế thực hiện chính sách giáo dục tại Trung tâm trong những năm qua, qua
đó đưa ra những giải pháp nhằm từng bước nâng cao hiệu quả, trợ giúp TEKT
hòa nhập với cộng đồng và được thụ hưởng các chính sách giáo dục để TEKT
có cơ hội phát triển.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Nghiên cứu việc thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ em khuyết tật
từ góc độ lý luận.

5


-Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách giáo dục đối với
TEKT ở Trung tâm phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An từ đó chỉ ra
những nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách.

- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách giáo dục cho trẻ khuyết tật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách giáo dục và quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Chính sách giáo dục và quy trình thực hiện chính sách giáo dục
đối với trẻ em khuyết tật.
Không gian: Trẻ em khuyết tật ở Trung tâm Phục hồi chức năng người
khuyết tật Thụy An.
Thời gian: Từ năm 2009 đến 2019 và định hướng giải pháp cho giai đoạn
2019 đến 2024.
Thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ em khuyết tật tại Trung tâm
Phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An trong 4 năm qua.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện

trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, phương pháp luận của bộ môn

Chính sách công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu:
Tổng hợp, kế thừa các kết quả nghiên cứu lý thuyết về chính sách giáo
dục đối với trẻ em khuyết tật; các văn bản nghị quyết, chính sách, pháp luật

của Đảng, báo cáo kết quả trợ giúp trẻ em khuyết tật của một số tổ chức hỗ

6


trợ trẻ em khuyết tật. Áp dụng phân tích các tình huống chính sách, từ đó tổng
hợp và phát hiện tính đặc thù, khác biệt và đưa ra những nhận định có giá trị
khoa học.
Báo cáo tổng kết 4 năm gần nhất, báo cáo tổng kết hàng năm của Trung
tâm Phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An; dựa trên kết quả nghiên
cứu điều tra thực tế trước đây của cán bộ Trung tâm.
Phương pháp quan sát:
Quan sát sự thay đổi của trẻ khuyết tật trong quá trình phục hồi chức năng
tại Trung tâm, phân tích nhận định tác động của phục hồi chức năng đối với
trẻ khuyết tật.
Phương pháp khảo sát thông kê số liệu:
Phương pháp chuyên gia:
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã hệ thống cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và cho các nhà hoạch định chính sách đối với TEKT, các
cấp chính quyền địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ em
khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ em
khuyết tật tại Trung tâm Phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An.
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp thực hiện chính sách đối
với trẻ em khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng người khuyết

tật Thụy An.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC ĐỐI
VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1.1. Một số khái niệm
-

Trẻ em
Công ước về quyền trẻ em 1989, điều 1 văn kiện đã định nghĩa “Trẻ em

có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể
được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Để làm rõ
khái niệm trẻ em, Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và
trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp
về mặt pháp lý trước và ngay sau khi ra đời”[Error! Reference source not
found., tr.1-2].
Ở Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm,
2004 thì trẻ em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi
là trẻ em trong quy định của pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với
Công ước về quyền trẻ em vì Điều 1 Công ước về quyền trẻ em cho phép các
quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.

-

Khuyết tật

Từ “khuyết tật” có nguồn gốc từ disability trong tiếng Anh. Theo

nguyên nghĩa từ này có nghĩa sự hàm ý không hạn chế, hoặc thiếu khả năng
thực hiện một hoạt động gì đó do có khiếm khuyết.
Theo phân loại Quốc tế về Khiếm khuyết, Khuyết tật và Tàn tật (IDCIDH)
do tổ chức Y tế Thế giới đưa ra lần đầu tiên vào năm 1980 đã có sự phân biệt
quan trọng giữa khiếm khuyết (liên quan đến cơ thể con người, sự mất mát
hoặc bất thường, thường có nguồn gốc sinh lý hay giải phẫu) và hai hình thức
khác của tình trạng khuyết tật, được gọi là khuyết tật và tàn tật và khuyết tật
thường được hiểu theo ba mức độ.

8


- Impairment: nghĩa tương đương tiếng Việt là “khiếm khuyết”.
- Disability: nghĩa tương đương tiếng việt là “giảm khả năng”, “không có
khả năng”. Là bất kỳ giới hạn hoặc mất chức năng bắt nguồn từ sự khiếm
khuyết làm ngăn cản việc thực hiện một hoạt động trong khoảng thời gian
được coi là bình thường đối với một con người.
- Handicap: nghĩa tương đồng tiếng Việt là “tàn tật”, “Tàn phế”, “Tình
trạng tật nguyền nghiêm trọng”. Là tình thế bất lợi xuất phát từ sự khiếm
khuyết hoặc khuyết tật là hạn chế thực hiện một vại trò được coi là bình
thường đối với tuổi tác, giới tính và các yếu tố xã hội và văn hóa ”[Error!
Reference source not found., tr.24-25].
Dựa vào cách phân loại này, có thể khái quát các thuật ngữ về khiếm
khuyết, khuyết tật và tàn tật như sau:
Bảng 1.1: Phân loại các thuật ngữ về khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật
Khiếm khuyết

Khuyết tật


Tàn tật

Khuyết tật về hành vi,
khuyết tật về giao tiếp

Tàn tật về định hướng

Khiếm thính

Khuyết tật trong chăm
sóc bản thân

Tàn tật đối với sự độc
lập về thể chất

Khiếm thị

Khuyết tật về vận động Tàn tật về di chuyển

Khiếm khuyết về bộ phận
cơ thể

Khuyết tật cơ thể,
khuyết tật về độ khéo

Suy giảm khả năng trí tuệ
Suy giảm tâm lý khác
Suy giảm ngôn ngữ và từ
ngữ


Tàn tật nghề nghiệp

léo
Suy giảm về cấu trúc
xương

Khuyết tật trong hoàn
cảnh

Tàn tật trong hoàn
cảnh xã hội

Sẹo và suy giảm thẩm mỹ

Người khuyết tật trong
hoạt động cụ thể

Tàn tật trong tự chủ

9


Khiếm khuyết nói chung,
cảm giác và các loại khác

Những hạn chế khác
đối với khả năng

Các loại tàn tật khác


Trong hệ thống phân loại quốc tế ICF, WTO định nghĩa khuyết tật như
sau: “Khuyết tật là thuận ngữ chung chỉ tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận
động và tham gia, thể hiện những mặt tiêu cực trong quan hệ tương tác giữa
cá nhân một người (về mặt sức khỏe) với các yếu tố hoàn cảnh của con người
đó (bao gồm các yếu tố môi trường và các yếu tố cá nhân khác)” [Error!
Reference source not found., tr.26]..
-

Trẻ em khuyết tật

Theo Công ước về quyền của người khuyết tật ngày 06 tháng 12 năm
2006 đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007.
Theo đó, tại Điều 1 có nên Người khuyết tật (people with disabilities) bao
gồm những người có những khiếm khuyết lâu dài về thể chất, thần kinh, trí
tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản
trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng
công bằng như những người khác trong xã hội.
Mặc dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu
thành khái niệm “người khuyết tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định
nghĩa về “người khuyết tật” được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền
con người, nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối
tượng này.
Theo Luật Người khuyết tật được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
17/06/2010 “Người khuyết tật được hiểu là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng
tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [Error! Reference
source not found., tr.1].

10



Như vậy, dựa trên các định nghĩa về khuyết tật, người khuyết tật và trẻ em.
Theo học viên, trẻ em khuyết tật là những trẻ em có độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi có
khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm
hạn chế các hoạt động gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập và xã hội.

Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về TEKT là rất quan trọng nhưng
không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi các tiêu chí
xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực sự thống
nhất. Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người khuyết tật để
hình thành khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó, là cơ sở để
phân loại, nghiên cứu, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ nhóm đối tượng dể bị
tổn thương này.
-

Mức độ khuyết tật

Theo điều 3 Nghị định số 28/2012 NĐ-CP ngày 14/04/2012 của Chính
phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người
khuyết tật có 3 mức độ khuyết tật.
Người khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất
hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các
hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ
nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp,
chăm sóc hoàn toàn.
Người khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một
phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện
được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc

phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ
giúp, chăm sóc.

11


Người khuyết tật nhẹ: là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết tật đặc
biệt nặng và khuyết tật nặng”[Error! Reference source not found., tr.34-35].
Như vậy, khuyết tật ở các em rất đa dạng. Tuy nhiên có thể nhận thấy
điểm chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật
nhìn là đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm, tạo môi
trường thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì TEKT vẫn có thể tiếp
thu được chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế
xã hội của cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng, chính xác trẻ khuyết tật
là cơ sở để thực hiện các hoạt động phù hợp với từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ
phát triển năng lực bản thân, tự tin trong cuộc sống.
Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể như người khuyết tật nói chung,
lại vừa là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần giống như
biết bao trẻ em bình thường khác. Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống của bản thân trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến
việc tham gia các hoạt động xã hội của trẻ.mức độ khuyết tật và phân loại
được TEKT sẽ có tác dụng trong việc ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ
khuyết tật đang ngày càng gia tăng, từ đó hạn chế tình trạng trẻ em bị thiệt
thòi, đồng thời phân loại trẻ khuyết tật còn là cơ sở để áp dụng các chính
sách, biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật vượt qua
khó khăn trong cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
-

Đặc điểm của trẻ em khuyết tật


Khuyết tật về vận động: Trẻ bất thường về cấu trúc; suy giảm chức năng
vận động (phản xạ vận động bất thường, thiếu khả năng điều phối vận động
phù hợp với lứa tuổi, thăng bằng kém); chậm phát triển vận động (không đạt
được các mốc phát triển phù hợp với lứa tuổi chẳng hạn như điều khiển đầu,
lẫy, điều khiển thân mình, ngồi, đứng, bò…); suy giảm vận động; suy giảm

12


chức năng sinh lý thần kinh (biểu hiện bất thường ở hành vi mút, nắm, tư thế,
phản xạ, trương lực cơ, vận động chậm chạp).
Đối với trẻ bị tổn thương ở não gây rất nhiều cản trở cho hoạt động vận
động của trẻ. Do đó hoạt động nhận thức của loại trẻ này cũng có những hạn
chế tương tự như trẻ chậm phát triển trí tuệ và còn bị ảnh hưởng thêm của
khuyết tật vận động.
Đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ: Chậm phát triển trí tuệ hay khuyết tật
trí tuệ là một dạng khiếm khuyết về phát triển trí não khiến trí thông minh của
trẻ ở tình trạng dưới mức trung bình và thiếu các kỹ năng cần thiết, cụ thể như
sau: Chậm phát triển kỹ năng vận động tinh; không tò mò hay thể hiện sự
quan tâm đến môi trường sống; khả năng học tập chậm hơn bạn đồng trang
lứa; gặp khó khăn trong việc học hỏi hay tiếp thu những thông tin mới dù đã
được nhắc nhiều lần; gặp khó khăn khi giải quyết vấn đề, suy nghĩ logic hoặc
ghi nhớ khó giao tiếp với người khác; không thực hiện được các công việc
đơn giản hàng ngày nếu không có sự trợ giúp hoặc các kỹ năng mới đã được
dạy; bốc đồng, dễ bị kích động; có thể có những hành vi lặp lại. Cụ thể là khó
khăn khi nói, kém hiểu biết về các quy luật xã hội căn bản, không ý thức về
hậu quả về các hành vi của mình, khó khăn khi tự phục vụ, phân tích màu sắc,
dấu hiệu, chi tiết sự vật kém, thiếu tích cực, trong quan sát tư duy của trẻ
thường biểu hiện không liên tục, chậm tiếp thu cái mới, quên nhanh cái vừa
mới tiếp thu, thời gian chú ý của trẻ em chậm phát triển trí tuệ kém hơn nhiều

trẻ bình thường.
Bên cạnh những đặc điểm của TEKT về vận động cũng như trẻ em khuyết
tật về trí tuệ, các em đều là những người sống nội tâm, giàu cảm xúc, giàu
nghị lực để thích nghi, để vượt qua những khó khăn. Đây là ưu điểm cần quan
tâm động viên để TEKT tự vươn lên hòa nhập cuộc sống xã hội. TEKT cũng
như những trẻ bình thường có những đòi hỏi thỏa mãn các nhu cầu

13


ngày càng tăng về vật chất, tinh thần và nhu cầu hoàn thiện chính bản thân
mình như những trẻ em bình thường khác.
-

Phục hồi chức năng

Phục hồi chức năng là một chuyên ngành y học, nghiên cứu ứng dụng mọi
biện pháp y học, kỹ thuật phục hồi chức năng, giáo dục học, xã hội học…
nhằm làm cho người khuyết tật có thể thực hiện tối đa những chức năng đã bị
giảm hoặc mất do khiếm khuyết và giảm khả năng gây nên, giúp người
khuyết tật có thể sống độc lập tối đa, hòa nhập hoặc tái hòa nhập xã hội, có cơ
hội bình đẳng và tham gia vào các hoạt động xã hội. Bản thân người khuyết
tật, gia đình và cộng đồng đều đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia lập
kế hoạch, thực hiện và đánh giá chương trình phục hồi chức năng.
Phục hồi chức năng theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới là “bao
gồm các biện pháp y học, kinh tế, xã hội, giáo dục hướng nghiệp và kỹ thuật
phục hồi nhằm làm giảm tác động của giảm khả năng và tàn tật, đảm bảo cho
người tàn tật hội nhập xã hội, có những cơ hội bình đẳng và tham gia đầy đủ
các hoạt động của xã hội” [Error! Reference source not found., tr.17].
Phục hồi chức năng theo định nghĩa của WTO là “ tất cả các biện pháp

nhằm giảm tác động của tình trạng khuyết tật và những điều kiện bất lợi từ đó
tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập xã hội” [Error! Reference
source not found., tr.80-81].
Phục hồi chức năng là một phương pháp, giúp TEKT tận dụng hết những
khả năng còn lại về thể chất, tinh thần để trẻ trở thành người có ích cho xã
hội, gia nhập trở lại cộng đồng.
Tuy nhiên để PHCN toàn diện trước tiên phải phát hiện sớm tình trạng
khuyết tật của trẻ càng sớm càng tốt ngay sau khi sinh hoặc khi trẻ dưới 5 tuổi.
Khi thấy trẻ có biểu hiện phát triển không bình thường, cần cho trẻ đi khám bác
sĩ để sớm phát hiện và giúp trẻ kịp thời bằng phương pháp can thiệp

14


sớm sẽ giúp TKT và gia đình bước đầu vượt qua những khó khăn. Bằng các
hướng dẫn về y tế và giáo dục, từ đó giúp trẻ phát triển mọi kỹ năng cần thiết
cần cho các hoạt động trong cuộc sống gia đình và xã hội. Mục tiêu cuối cùng là
TKT có một tương lai tốt đẹp hơn, hạn chế tác hại của khuyết tật, tạo điều kiện
kích thích sự phát triển tối đa cho TKT và chuẩn bị tốt cho trẻ tham gia vào hoạt
động học tập và phát triển. Trên thực tế có các hình thức PHCN như sau:

+ Phục hồi chức năng nội viện, hoặc tại các Trung tâm phục hồi
chức năng
Với hình thức này, người khuyết tật được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ, các
liệu pháp y học, cán bộ chuyên khoa và vật lý trị liệu để phục hồi chức năng.
Qua đó có thể làm công tác nghiên cứu và đào tạo cán bộ chuyên trách.
Tuy nhiên do người khuyết tật phải đi đến Trung tâm để được phục hồi
chức năng. Điều này là một khó khăn đối với bản thân người khuyết tật và gia
đình họ vì đa số gia đình người khuyết tật là gia đình khó khăn về kinh tế.
Mặt khác số lượng người khuyết tật được phục hồi chức năng ít, vì số Trung

tâm và khả năng tiếp nhận của các Trung tâm có giới hạn, trong khi số người
khuyết tật nhiều. Những khó khăn về kinh tế và nhân lực của người khuyết tật
và gia đình họ cũng làm hạn chế số người khuyết tật đến các Trung tâm để
được phục hồi chức năng. Phục hồi không sát với nhu cầu người khuyết tật tại
địa phương họ. Mỗi địa phương nơi người khuyết tật sinh sống có những đặc
điểm riêng về địa lý, tập quán sinh hoạt, điều kiện kinh tế. Vì vậy, phục hồi
chức năng tại các Trung tâm hoặc bệnh viện khó đáp ứng được hết mọi điều
kiện để họ thích nghi được với điều kiện tại địa phương nơi họ sinh sống.
Ngoài ra với mức giá cao: Người khuyết tật và gia đình họ phải chi trả tốn
kém, đồng thời chi phí xây dựng và hoạt động của các Trung tâm cũng cao, vì
vậy không thể đáp ứng được với số lượng đông người khuyết tật.
+ Phục hồi chức năng ngoại viện
15


Cán bộ phục hồi chức năng tổ chức khám và hướng dẫn phục hồi chức
năng cho một nhóm những người khuyết tật theo địa bàn sinh sống một cách
định kỳ hoặc đến tận nhà điều trị cho họ.
Với hình thức này, số người khuyết tật được tiếp cận với dịch vụ cũng
được nhiều hơn. Tuy nhiên, người khuyết tật không được tiếp cận đầy đủ các
dịch vụ, liệu pháp phục hồi, điều trị không liên tục. Do đó, các dịch vụ tư vấn,
khám và điều trị phục hồi chức năng cho người khuyết tật còn rất hạn chế. Vì
thế hình thức phục hồi chức năng ngoại viện chưa đáp ứng được nhu cầu của
người khuyết tật.
+Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là hình thức mà người khuyết tật
được phục hồi chức năng tại gia đình, địa phương, nơi họ sinh sống với sự
giúp đỡ của người thân hoặc người tình nguyện trong cộng đồng và nhân viên
y tế cơ sở, dưới sự hướng dẫn của cán bộ chuyên ngành phục hồi chức năng.
Đây là cách xã hội hóa công tác phục hồi chức năng tốt nhất trong phạm

vi quốc gia, quốc tế. Phục hồi chức năng tại cộng đồng có thể thu hút được
những người thân trong gia đình, những người tình nguyện trong cộng đồng,
các đoàn thể xã hội như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, thu
hút được hệ thống chính quyền cơ sở tham gia vào công tác phục hồi chức
năng cho người khuyết tật tại địa phương.
Đây cũng là hình thức tốt nhất để làm thay đổi quan niệm của cộng đồng
đối với người khuyết tật, tạo thuận lợi nhất cho những người khuyết tật hòa
nhập với gia đình và xã hội.
Tỷ lệ người khuyết tật được phục hồi cao nhất. Phục hồi chức năng tại
cộng đồng có thể triển khai rộng rãi trên cả nước, nhờ đó số người khuyết tật
có cơ hội được phục hồi chức năng nhiều nhất.

16


Đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người khuyết tật, phù hợp với nơi họ
sinh sống, giúp họ có cơ hội hòa nhập với xã hội. Người khuyết tật vẫn sống
tại gia đình và địa phương, vì vậy các chương trình phục hồi chức năng được
thiết kế phù hợp với hoàn cảnh địa lý, tập quán sinh hoạt, điều kiện kinh tế tại
địa phương, giúp người khuyết tật dễ dàng hòa nhập.
Chi phí cho phục hồi chức năng ít tốn kém, dễ chấp nhận. Phục hồi chức
năng tại cộng đồng tận dụng được các phương tiện tại chỗ như chế tạo các
dụng cụ trợ giúp hoặc phương tiện tập luyện bằng các nguyên liệu sẵn có tại
địa phương như tre, gỗ làm giảm chi phí cho công tác phục hồi chức năng.
Tận dụng được nhân lực tại địa phương giúp khắc phục được tình trạng thiếu
nhân lực.
Có thể gắn chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng vào công
tác của hệ thống y tế hiện có. Ở mỗi quốc gia đều có hệ thống y tế từ trung
ương tới cơ sở, công tác phục hồi chức năng tại cộng đồng được gắn với hệ
thống này. Vì vậy, giải quyết được vấn đề nhân lực, ngân quỹ và công tác

quản lý.
-

Chính sách đối với trẻ em khuyết tật

Chính sách đối với trẻ em là các quan điểm, cách thức, biện pháp của nhà
nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền tác động đến lĩnh vực
giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đó là các chính sách và chương trình hỗ
trợ nuôi dưỡng, chăm sóc thay thế; trợ giúp giáo dục, y tế, chỉnh hình, phục
hồi chức năng; hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; chính sách và chương trình tiếp
cận công trình công cộng, tham gia giao thông và công nghệ thông tin đối với
trẻ tàn tật; chính sách và chương trình hỗ trợ gia đình trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt; các chương trình mục tiêu quốc gia trong đó có hợp phần hoặc nội dung
bảo vệ trẻ em; các chương trình dành riêng cho trẻ em.
Lý luận về thực hiện chính sách giáo dục đối với trẻ khuyết tật

17


Thuật ngữ “chính sách” được dùng rộng rãi trong lý thuyết phát triển hiện
đại. Có nhiều cách tiếp cận để đưa ra những khái niệm về chính sách, dưới
các góc độ quản lý, chính trị hay hành chính. Tiếp cận dưới góc độ quản lý,
“chính sách” được xem ở hai mức độ phạm vi:
Ở phạm vi hẹp, chính sách đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng quản lý, là những quy định, điều kiện của chủ thể quản lý đặt ra và
thực hiện nhằm đưa hoạt động của đối tượng quản lý theo ý chí, mục đích của
mình.
Rộng hơn, chính sách đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý còn được hiểu như là những đối sách, ứng xử của tổ chức,
quốc gia đối với môi trường xã hội, tự nhiên và chính trị mà chính thể đó tồn

tại. Nhất là trong hệ thống mở về kinh tế, chính trị , xã hội ở đó xuất hiện
nhiều mối quan hệ với những vị trí, vai trò, sự tương tác khác nhau.
James Anderson đã khái quát: “chính sách là một đường lối hành động có
mục đích được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải
quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm” [Error! Reference source
not found., tr.18-19]. Khái niệm này ở Việt Nam được hiểu “Chính sách là
một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc một
chủ thể quản lý đưa ra, trong đó có sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội,
kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm
thực hiện một mục tiêu nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống
xã hội” [Error! Reference source not found., tr.20-21].
1.1.1. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với TEKT mang đầy đủ đặc điểm của quá trình
thực hiện chính sách nói chung. Với bản chất là hoạt động xã hội của con
người, thực hiện chính sách đối với TEKT với những đặc chung của các hoạt

18


động xã hội khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện chính
sách đối với TEKT đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc thù sau đây:
Nói đến việc thực hiện chính sách đối với TEKT bao giờ các chủ thể cũng
quan tâm tới việc thực hiện cái gì. Nói cách khác là thực hiện nội dung liên
quan tới TEKT và cách thức, hình thức thực hiện bằng hình thức nào. Như
vậy, tính hợp pháp trong quá trình thực hiện chính sách đối với TEKT bao
gồm thực hiện đầy đủ quy trình thực hiện chính sách: Xây dựng kế hoạch
triển khai thực hiện chính sách, bao gồm: Kế hoạch tổ chức, điều hành, kế
hoạch cung cấp các nguồn vật lực, kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện
chính sách, dự kiến những nội quy, quy chế; phổ biến, tuyên truyền chính
sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; đôn đốc thực hiện chính

sách; đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
Thực hiện chính sách đối với TEKT là một quá trình có mục đích, nó bao
gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Để biến những quyền và nghĩa vụ pháp lý
bảo vệ TEKT thành những hành vi xử sự trong thực tế thì cần thiết phải thông
qua hàng loạt là các hoạt động cụ thể của con người mà các hoạt động đó phải
có mục đích, mục tiêu cụ thể.
Các hoạt động cụ thể đó bao gồm: Chủ thể tìm hiểu các quy định của pháp
luật có nội dung cụ thể như thế nào? Xem xét vị trí, chức năng vai trò của bản
thân, ra các quyết định về cách thức, thời gian hoạt động cụ thể. Tất cả các
hoạt động đó phải cần thiết xác định mục tiêu cụ thể là bảo vệ và bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của TEKT thông qua việc thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể.
Tính mục đích có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện pháp
luật nói chung và thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật nói riêng.

Thực hiện chính sách đối với TEKT là đưa đường lối, chủ trương của
Đảng về chính sách đối với trẻ khuyết tật vào cuộc sống, khẳng định bản chất

19


tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thông qua chỉ đạo việc triển khai và tổ
chức thực hiện chính sách, tổ chức Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và
đánh giá đúng mức về năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Đảng và
Nhà nước định hướng mọi TEKT đều hòa nhập cộng đồng, tạo điều kiện phát
huy mọi khả năng của mình để vươn lên trong cuộc sống và học tập, giảm bớt
gánh nặng của gia đình và xã hội, trở thành những thành viên có ích cho xã
hội. Từ các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra, các chủ thể
thực hiện chính sách bằng cách xây dựng và ban hành văn bản, chương trình,
dự án thực hiện chính sách để cụ thể hóa mục tiêu và giải pháp chính sách cho

từng giai đoạn thời gian và địa bàn cụ thể. Kết quả của việc thực hiện chính
sách phải bảo đảm mọi TEKT ở các vùng sâu, vùng xa cũng như khu vực
thành phố, nông thôn đều được hưởng bình đẳng các quyền của TEKT, đó là
quyền được đi học, được chăm sóc sức khỏe, được tham gia vào các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, được tiếp cận với các phương tiện
giao thông công cộng dành cho TEKT, được giảm vé khi tham gia giao thông,
được tiếp cận với các hoạt động công nghệ, thông tin. Vì vậy trong quá trình
thực hiện chính sách các chủ thể cần thể chế hóa định hướng, mục tiêu của
Đảng và nhà nước, và thực hiện theo đúng mục tiêu, bên cạnh đó các chủ thể
cần tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách đối với TEKT trên phạm vi
quốc gia và từng bước tiếp cận Công ước quốc tế về quyền của TEKT.
Không thể phủ nhận sự song hành của TEKT trong đời sống xã hội và
điều đó có nghĩa rằng nhà nước cần phải có trách nhiệm đối với việc bảo đảm
cho TEKT được tiếp cận đầy các quyền như những trẻ em bình thường. Vì
vậy trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các Nghị định,
Thông tư hướng dẫn, cách chủ thể thực hiện chính sách đối với TEKT cần áp
dụng thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất và hiệu quả nhằm đưa chính
sách vào đời sống xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước

20


đặt ra để TEKT nhận được sự chăm sóc tốt nhất trong điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước ta hiện nay.
Căn cứ theo các quy định của Luật, TEKT được hưởng chính sách đặc biệt
ưu tiên trong giáo dục. Tuy nhiên,khi các chủ thể xây dựng kế hoạch thực
hiện, kế hoạch về kinh phí, kế hoạch nhân sự, cơ sở vật chất, giáo trình đã gặp
rất nhiều khó khăn như khó khăn về kinh phí, thiếu giáo viên về lĩnh vực giáo
dục hòa nhập hoặc giáo viên thiếu chuyên môn về lĩnh vực này, đặc biệt là
lúng túng trong quá trình biên soạn giáo trình. Do đó tỷ lệ trẻ em đưa vào các

trường công lập để giáo dục hòa nhập tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước
không cao, thậm chí do điều kiện vật chất nhiều trường còn từ chối tiếp nhận
trẻ khuyết tật vào giáo dục hòa nhập. Trong quá trình thực hiện chính sách mà
gặp phải những chính sách không phù hợp, không khả thi, cần có những kiến
nghị với Nhà nước, với các nhà hoạch định chính sách để điều chỉnh, bãi bỏ
hoặc bổ sung cho phù hợp để chính sách đối với TEKT thực sự có hiệu quả và
đi vào cuộc sống, giúp trẻ khuyết tật có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, thực hiện chính sách đối với TEKT là quá trình biến các chính
sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức
trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hóa các chính sách đối với trẻ em
khuyết tật đã đề ra.
Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
+ Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật
Tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật là quá trình phức
tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch,
chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một
cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với
TEKT được xây dựng trước khi chính sách đi vào cuộc sống. Kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách đối với TEKT bao gồm những nội dung cơ bản:
21


Kế hoạch tổ chức điều hành: Nội dung kế hoạch gồm những dự kiến về
phối hợp triển khai thực hiện chính sách và hệ thống các cơ quan chủ trì; số
lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực hiện; cơ chế tác động giữa
các cấp thực hiện chính sách.
Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các nguồn lực tài
chính, cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực hiện
chính sách đối với trẻ em khuyết tật.

Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là dự kiến về thời gian duy trì
chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai từ tuyên truyền chính sách
đến tổ chức rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và thời
gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.
Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách là những dự kiến về tiến
độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện chính sách.
Dự kiến những nội quy, quy chế: Nội quy, quy chế trong thực hiện chính
sách đối với TEKT bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước
tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật
cá nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.
+ Tuyên truyền, phổ biến nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách
đối với trẻ em khuyết tật
Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện đối với TEKT được thông qua,
các cơ quan nhà nước tiến hành tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia
thực hiện chính sách đối với TEKT. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp
cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực hiện hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều
kiện hoàn cảnh nhất định; và về tính khả thi của chính sách để họ tự giác thực
hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ,
công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhận thức được đầy đủ tính

22


chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích
cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách
và triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách
được giao.
Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách được thực hiện bằng nhiều hình

thức như: trực tiếp tiếp xúc; trao đổi với các đối tượng tiếp nhận; gián tiếp qua
các phương tiện thông tin đại chúng. Tuyên truyền, vận động thực hiện chính
sách đối với trẻ em khuyết tật cần được thực hiện một cách liên tục, cho dù
chính sách đang được thi hành.

+ Phân công, phối hợp thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Khi thực hiện chính sách đối với TEKT cần phải phân công, phối hợp giữa
các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham
gia thực hiện chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu
chính sách.
Mặt khác chính sách thường được thực hiện trong phạm vi rộng nên các
đối tượng bị tác động trực tiếp của chính sách, bộ máy tổ chức thực hiện của
nhà nước là rất lớn. Do đó muốn thực hiện chính sách cho TEKT hiệu quả cần
phải có sự phân công, phối hợp.
+ Đôn đốc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Đôn đốc thực hiện chính sách đối với TEKT là hoạt động của cơ quan, cán
bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu ích nhằm
làm cho các chủ thể thực hiện chính sách nêu cao ý thức trách nhiệm trong
thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách. Trên thực tế, khi triển
khai chính sách không phải mọi bộ phận đều thực hiện tốt, vì thế cần có hoạt
động đôn đốc để có tác dụng thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn
thành nhiệm vụ trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật.

23


+ Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật
Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực hiện chính sách được hiểu là
quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo và điều hành, chấp hành chính sách của

các đối tượng thực hiện chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng
kết về chỉ đạo điều hành thực hiện chính sách là các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ
chức chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực hiện chính
sách đối với TEKT. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành
thực hiện chính sách đối với TEKT. Đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn
bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản
quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực hiện
chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội đối với nhà nước.
Thực hiện chính sách đối với TEKT là đưa đường lối, chủ trương của
Đảng về chính sách đối với trẻ khuyết tật vào cuộc sống, khẳng định bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thông qua chỉ đạo việc triển khai và tổ
chức thực hiện chính sách, tổ chức Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo của mình
và đánh giá đúng mức về năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng. Đảng
và Nhà nước định hướng mọi TEKT đều hòa nhập cộng đồng, tạo điều kiện
phát huy mọi khả năng của mình để vươn lên trong cuộc sống và học tập,
giảm bớt gánh nặng của gia đình và xã hội, trở thành những thành viên có ích
cho xã hội. Từ các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra, các
chủ thể thực hiện chính sách bằng cách xây dựng và ban hành văn bản,
chương trình, dự án thực hiện chính sách để cụ thể hóa mục tiêu và giải pháp
chính sách cho từng giai đoạn thời gian và địa bàn cụ thể. Kết quả của chính
sách phải bảo đảm mọi TEKT ở các vùng sâu, vùng xa cũng như khu vực
thành phố, nông thôn đều được hưởng bình đẳng các quyền của TEKT, đó là
quyền được đi học, được chăm sóc sức khỏe, được tham gia vào các hoạt

24


×