Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.77 KB, 32 trang )

Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
1.1. Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn quan trọng, được
đánh giá là khá hữu hiệu, tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt
động kinh doanh cho thuê tài chính trên thế giới hiện nay phát triển khá
nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các năm. Các sản phẩm của hình
thức tín dụng này ngày càng đa dạng hơn, từ máy fax, máy photocopy,
máy tính đến xe tải, máy bay, tàu thủy...Trước khi đi vào phân tích về
lĩnh vực quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính, việc tìm hiều
những nét tổng quan về hình thức tín dụng này sẽ giúp chúng ta có thể
hiểu sâu sắc hơn.
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính có nguồn gốc từ việc cho thuê tải sản.
Từ những năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian gần
vịnh Ba Tư ( hiện nay thuộc Iraq ), giao dịch cho thuê tài sản đầu tiên ra
đời với việc cho thuê các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo,
ruộng đất, nhà cửa. Sau đó, vào khoản năm 1700 trước Công nguyên,
vua Babylon đã ban hành nhiều văn bản quy định về cho thuê tài sản.
Ở các nước có nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập,
giao dịch cho thuê tài sản cũng đã xuất hiện hàng ngàn năm trước công
nguyên. Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển việc
cho thuê hầm mỏ. Người Hy Lạp cổ đại cũng tiên phong tạo ra khái
niệm ngân hàng cho thuê. Tài sản thuộc quyền sở hữu của ngân hàng
cho thuê đầu tiên được kí kết vào năm 370 trước công nguyên trong đó
bao gồm tên ngân hàng, tiền kí quỹ, tên văn phòng và đội ngũ nhân
viên.
Đến đầu thế kỷ 19 do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền
kinh tế hàng hóa hoạt động thuê tài sản đã có sự thay đổi về tính chất
của giao dịch và xuất hiện hình thức cho thuê tài chính đầu tiên ở Mỹ.
Hoạt động cho thuê tài chính thời kỳ này đã có sự gia tăng đáng kể về


số lượng, chủng loại thiết bị tài sản thuê. Những dạng hợp đồng cho
thuê tài chính tạm thời bắt nguồn từ Hoa Kỳ. Công ty cho thuê tài chính
đầu tiên của Hoa Kỳ United State Leasing Corporation do Henry Shoeld
sáng lập vào năm 1952 Công ty đã được thành lập để phục vụ cho
ngành công nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt.
Các nước châu Âu đã nối gót thành lập những công ty cho thuê vào
cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 và có những bước phát triển
mạnh mẽ ở châu Á và châu Phi từ thập niên 70. Thập niên 80 đã đánh
dấu việc cho thuê tài chính được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Ở Việt Nam, phải đến năm 1995, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn ngày càng gia tăng, nghiệp
vụ cho thuê tài chính mới bắt đầu được thực hiện dưới hình thức tín
dụng thuê mua bằng việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết
định số 149/QĐ-NHNN ngày 27/05/1995. Theo Quyết định này, các tổ
chức tín dụng được thành lập công ty trực thuộc hoặc văn phòng Tín
dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt động tín dụng thuê mua.
Tiếp theo đó ngày 09/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP quy
định tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại
Việt Nam. Nghị định này đã là cơ sở hướng dẫn và là quyết định cho
hàng loạt các Công ty Cho thuê tài chính ra đời.
Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập ở Việt
Nam vào năm 1996 và hoạt động cho thuê cũng đã manh nha ở các
ngân hàng thương mại trước đó nhưng mãi đến khi Chính Phủ ban
hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP vào ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho
thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự được hình thành. Mới đây nhất,
chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2008/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung
một số điều về Nghị định 16/2001/NĐ-CP. Việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật này đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho
thuê tài chính ở Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam đang có 13 công ty cho thuê tài chính được

thành lập dưới các hình thức khác nhau đang hoạt động. Trong số đó,
có các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, có các doanh nghiệp dưới
hình thức công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, lại có doanh
nghiệp thuộc hình thức đa sở hữu như Công ty cho thuê tài chính liên
doanh. Lượng vốn cấp theo hình thức cho thuê tài chính chiếm tỷ lệ khá
nhỏ so với hình thức cấp vốn của ngân hàng. Trong khi đó, với lợi thế
của mình, đáng lẽ loại hình dịch vụ cho thuê tài chính phải được phát
triển nhanh chóng ở Việt Nam, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang
cần thu hút một lượng vốn lớn cho đầu tư cũng như cho tái đầu tư mở
rộng. Dù vậy cũng phải nhìn nhận hoạt động cho thuê tài chính đã phần
nào giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại
trong việc cung ứng vốn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn
trung và dài hạn.
Các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay gồm:
+ Các công ty cho thuê tài chính của các Ngân hàng: Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, Công thương, Ngoại thương, Sài Gòn Thương
Tín, Đầu tư và Phát triển Việt Nam;
+ Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài gồm: Công ty
cho thuê tài chính ANZ-VTRAC; Cty cho thuê tài chính Kexim và Công ty
cho thuê tài chính Quốc tế Chailease;
+ Các loại hình khác: Công ty cho thuê tài chính Quốc tế VN (liên
doanh); Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính
Ngân hàng Á Châu; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho
thuê tài chính Công nghiệp tàu thủy.
1.1.2. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính
* Theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC), một giao dịch
thuê tài sản thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn dưới đây đều được gọi
là thuê tài chính:
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hợp đồng.
- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua bán tài sản tại thời điểm

chấm dứt hợp đồng.
- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động hữu dụng
của tài sản.
Trên cơ sở phân loại của IASC, các nước có những quy định cụ thể
trong pháp luật về cho thuê tài chính dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ
thể của mỗi nước, có thể nhấn mạnh tiêu chuẩn này hay giảm bớt tiêu
chuẩn khác nhưng về cơ bản không có điều gì mâu thuẩn với các tiêu
chuẩn chung.
* Ở Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001
của Chính phủ về “ Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính” thì:
“Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên
thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ
quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thoả thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại
tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong
hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định
tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của
tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.”
Điểm khác biệt lớn giữa quan điểm về cho thuê tài chính ở Việt
Nam so với trên thế giới là đối tượng cho thuê là máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà không áp dụng cho
thuê đối với bất động sản.
1.1.3. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính
- Hoạt động cho thuê tài chính phải đáp ứng được những tiêu

chuẩn nhất định như Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra 4
tiêu chuẩn mà bất cứ giao dịch thuê nào thỏa mãn một trong bốn tiêu
chuẩn sau đều được gọi là giao dịch thuê tài chính:
+ Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người thuê khi
kết thúc hợp đồng.
+ Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết
thúc hợp đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp
đồng.
+ Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng
hữu ích của tài sản thuê.
+ Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả
tiền lớn hơn hoặc bằng giá trị thị trường của tài sản thuê tại thời điểm ký
hợp đồng
- Đa phần các hợp đồng cho thuê tài chính được hai bên ký kết là
để đầu tư cho các tài sản thuê mới. Quyền lựa chon tài sản thuê trong
các trường hợp đều thuộc về bên thuê, công ty cho thuê tài chính có
nghĩa vụ phải mua đúng loại tài sản thuê mà bên thuê đã thỏa thuận hay
cam kết với bên cung cấp tài sản.
- Tài sản thuê tài chính phải được mua bảo hiểm vật chất đầy đủ
trong suốt quá trình thuê. Phí bảo hiểm cho tài sản có thể do bên thuê
hoặc bên cho thuê thanh toán và được quy định cụ thể trong hợp đồng
cho thuê tài chính nhưng người hưởng thụ trong suốt quá trình thuê
phải là bên cho thuê tài chính.
- Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang nên
bên thuê không được quyền chấm dứt hợp đồng trước hạn, trừ trường
hợp do lỗi của bên cho thuê hoặc bên thuê đề nghị xin chấm dứt hợp
đồng trước hạn và phải được bên cho thuê đồng ý.
- Thuê tài chính là một hình thức vay vốn, tài trợ vốn. Tổng số tiền
thuê tài chính được trả theo một lịch thanh toán do bên cho thuê và bên
thuê thỏa thuận và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài

chính. Thông thường số tiền thuê tài chính được trả theo định kỳ nhất
định mà bên thuê đề nghị. Các khoản tiền phải trả trong một kỳ bao gồm
tiền gốc và tiền lãi thuê.
So sánh giữa cho thuê tài chính và cho vay trung dài hạn
Để các đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính trở nên nổi bật
và dễ nhận biết, ta có thể làm phép so sánh sau:
Về cơ bản, có thể coi cho thuê tài chính như một loại hình tín dụng
trung và dài hạn vì nó mang những đặc trưng cơ bản của loại hình tín
dụng này:
- Bên cho vay (hay bên cho thuê) chuyển giao có thời hạn cho bên
đi vay (hay bên đi thuê) một lượng giá trị dựa trên những cơ sở tín
nhiệm.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (hay
cho thuê) hay nói cách khác là bên đi vay (đi thuê) phải trả thêm phần lãi
ngoài vốn vay gốc.
Tuy nhiên cho thuê tài chính vẫn có thể phân biệt với tín dụng trung và dài
hạn thông thường của ngân hàng qua một số điểm sau:
- Trong cho vay trung và dài hạn thông thường, ngân hàng tài trợ
vốn bằng tiền cho khách hàng dùng số tiền đó mua tài sản phục vụ cho
sản xuất kinh doanh. Còn trong cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ
cho khách hàng trực tiếp bằng các tài sản máy móc thiết bị mà khách
hàng đang cần dùng. Như vậy, tài trợ bằng cho thuê tài chính đảm bảo
sử dụng đúng mục đích vốn vay hơn so với hoạt động cho vay thông
thường.
- Lãi suất cho thuê của cho thuê tài chính cao hơn so với lãi suất tín
dụng trung và dài hạn của ngân hàng, do được tính trên cơ sở lãi suất
cho vay trung và dài hạn cộng với một tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý
tài sản cho thuê của bên cho thuê.
- Trong giao dịch tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng phần lớn
có sự tham của hai bên là người đi vay và ngân hàng, nhưng cũng có

những trường hợp có sự tham gia của bên thứ ba là người bảo lãnh
trong trường hợp người đi vay không đủ năng lực tài chính. Còn trong
cho thuê tài chính, bên cạnh sự tham gia của bên thuê, công ty cho thuê
tài chính, người bảo lãnh còn có sự tham gia rất quan trọng của một chủ
thể thứ ba là các nhà cung cấp tài sản, nhưng cũng có trường hợp chỉ
có hai bên tham gia trong giao dịch mua và cho thuê lại.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, người đi vay có quyền định đoạt
đối với tài sản đầu tư bằng tiền vay (tài sản đó thuộc sở hữu của người
vay, được thế chấp cho ngân hàng). Do đó, khi cần thu nợ thường khó
khăn vì xử lý tài sản thế chấp phức tạp. Đối với cho thuê tài chính,
quyền sở hữu tài sản vẫn do bên cho thuê nắm giữ và bên thuê chỉ có
quyền sử dụng tài sản trong thời gian cho thuê. Vì thế bên thuê không
được hạch toán vào tài sản có của mình mà chỉ được hạch toán vào tài
sản ngoại bảng và tất nhiên cũng không được sử dụng làm vật bảo đảm
trong tài sản thế chấp. Đồng thời, cũng nhờ vậy mà khi xảy ra tình
huống xiết nợ thì điều đó dễ dàng cho công ty cho thuê tài chính để thu
hồi tài sản.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thường yêu cầu người
vay phải có tài sản đảm bảo và kéo theo nhiều thủ tục giấy tờ. Còn trong
cho thuê tài chính, tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên cho thuê nên
người thuê không bị đòi hỏi có tài sản thế chấp và nhờ đó giảm bớt một
số công đoạn thủ tục, giấy tờ.
1.1.4. Phân loại hoạt động cho thuê tài chính.
Việc áp dụng cho thuê tài chính có sự cải biến tùy theo điều kiện
kinh tế và môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia, nhưng sự khác biệt
là không nhiều do quan hệ cho thuê hiện nay đã có mối quan hệ toàn
cầu, doanh nghiệp của một nước hoàn toàn có thể sử dụng sản phẩm
được thuê từ một tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, các công ty cho
thuê tài chính, các ngân hàng, tổ chức tài chính của các nước phát triển
cũng đã thâm nhập vào các nước đang phát triển dưới hình thức thành

lập công ty 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh hoặc liên doanh. Điều
này giúp cho thuê tài chính thâm nhập sâu hơn vào các nước đang phát
triển và sự khác biệt về quan điểm cho thuê tài chính giữa các quốc gia
dần dần thu hẹp lại.
Theo số đối tác tham gia giao dịch, cho thuê tài chính thường có hai
hình thức chủ yếu sau:
a, Cho thuê tài chính giản đơn (có sự tham gia của hai bên)
Theo hình thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản được
dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua tài
sản hoặc tự xây dựng. Đây là hình thức được các công ty kinh doanh bất động
sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện. Các tổ chức tài chính rất
ít khi áp dụng hình thức tài trợ này.
Bên đi thuê
Ký hợp đồng thuê (1)

Bàn giao tài sản thuê (2)
Thanh toán tiền thuê (3)
Sơ đồ 1.1: Cho thuê tài chính hai bên
(1) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng
Bên cho thuê
(2) Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng và giao tài sản
cho bên đi thuê
(3) Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê
b, Cho thuê tài chính thông thường (có sự tham gia của 3 bên) :
Theo hình thức này, có sự tham gia của ba bên là bên cho thuê, bên đi thuê
và bên cung cấp. Bên thuê được quyền lựa chọn, thỏa thuận với bên cung cấp về
sản phẩm. Bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu đã được hai
bên thỏa thuận trong hợp đồng của bên đi thuê.
Nhà cung cấp
Bên thuê

Bên cho thuê
(1) (3)
(4) (5)
(6)

(2)
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên
(1) Bên thuê được chủ động lựa chọn máy móc thiết bị, thỏa thuận với nhà
cung cấp bằng hợp đồng hoặc bản ghi nhớ.
(2) Bên thuê – Bên cho thuê ký kết hợp đồng cho thuê tài chính trên cơ sở
hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua máy móc
thiết bị, kết quả thẩm định của bên cho thuê đồng ý cho thuê.
(3) Bên cho thuê – Nhà cung cấp ký kết hợp đồng mua bán máy móc thiết
bị là tài sản thuê theo thỏa thuận giữa bên thê và nhà cung cấp.
(4) Nhà cung cấp giao hàng cho bên thuê, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài
sản giao nhận.
(5) Bên cho thuê thanh toán tiền tiền mua tài sản thuê cho nhà cung cấp.

×