Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn: Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 115 trang )

2
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chương 1

1.1.

1.2.
Chương 2

2.1.

2.2.
Chương 3

3.1.
3.2.

3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG
BỘ TỈNH NINH BÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001
ĐẾN NĂM 2005
Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
(2001 - 2005)
Đảng Bộ tỉnh Ninh Bình chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp (2001 – 2005)
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ


TỈNH NINH BÌNH ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM
2005 ĐẾN NĂM 2010
Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
(2005 - 2010)
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2005 - 2010)
KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH
ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh
đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2001 - 2010)

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

10

10
25

39

39
47


62
62
70
82
84
95


3
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua một phần tư thế kỷ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện (1986 - 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính
sách thể hiện rõ sự đổi mới trong tư duy kinh tế, lấy phát triển kinh tế là trọng
tâm, công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu và chỉ rõ
trọng điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa
là vấn đề cốt lõi, là quy luật phát triển của nền kinh tế nước ta; con đường tất yếu
để nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia văn
minh hiện đại, tiến kịp các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nói riêng trong những năm đổi mới đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
hướng của Đảng và Nhà nước ta. Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp đã chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp cũng đã tác động mạnh mẽ đến công nghiệp, dịch vụ, lao động việc
làm và thị trường xuất khẩu hàng hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
đúng hướng đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra sự ổn định
trong đời sống chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Tuy nhiên
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi
phải có bước đi, cách làm thận trọng và không tránh khỏi có những sai lầm, thiếu
sót. Phải kịp thời điều chỉnh trên phạm vi của từng địa phương và cả nước.

Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam của đồng bằng Bắc bộ có địa
hình của ba vùng rõ rệt, đó là vùng đồng bằng trung tâm, vùng đồi núi bán
sơn địa và vùng đồng bằng ven biển, với nhiều lợi thế về tự nhiên, xã hội
như: vị trí địa lý, đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nhân lực, giao thông.
Do có nhiều điều kiện đặc trưng như vậy nên Ninh Bình có tiềm năng phát
triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện đường lối đổi


4
mới của Đảng, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Tổ chức sản xuất của các vùng sản
xuất nông sản hàng hóa từng bước được nâng cao, cơ cấu mùa vụ, vật
nuôi, cây trồng được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ sở
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phát triển, đời sống nông dân được cải
thiện. Tuy nhiên là một tỉnh nghèo, mới được tái lập (năm 1992), cơ bản
là sản xuất nông nghiệp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn, thách thức đặt ra cần phải giải
quyết. Đó là vấn đề vốn đầu tư, quy hoạch vùng kinh tế, thị trường đầu
ra, chất lượng hàng hóa đảm bảo cho xuất khẩu, việc đầu tư khoa học,
công nghệ vào sản xuất, cơ giới hóa khâu canh tác, cơ chế chính sách
nhằm phát huy tối đa nguồn lực lao động và các lợi thế so sánh của tỉnh.
Đặc biệt quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
bền vững, không làm xáo trộn đời sống nhân dân.
Do vậy việc đánh giá đầy đủ, khách quan, khoa học quá trình lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và khẳng định
tính đúng đắn của chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng là một vấn đề có
ý nghĩa chiến lược để xây dựng phát triển kinh tế bền vững. Bên cạnh đó việc đánh
giá thành tựu, khuyết điểm, thuận lợi, khó khăn, kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng bộ Ninh Bình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là vấn đề
cần được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn việc cụ thể hóa

đường lối của Đảng vào địa phương trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Với ý nghĩa đó tác giả chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010” làm luận văn Thạc sĩ
Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên cả bình diện lí luận và thực tiễn vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng trong những


5
năm đổi mới đã thu hút nhiều cá nhân và tập thể khoa học tập trung nghiên
cứu, khai thác ở nhiều góc độ khác nhau:
Nhóm các sách chuyên luận, chuyên khảo:
GS Đỗ Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; PGS Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và
phát triển mũi nhọn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; TS Đặng Văn Thắng,
TS Phạm Ngọc Dũng (2003), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và triển vọng , Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; PGS,TS Nguyễn Văn Khanh(2003), Biến đổi cơ cấu
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ
đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hồng Vinh (2009), Vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn – Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung
Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS,TS Phạm Thị Khanh (2010),
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tổng cục Thống kê – Cục Thống kê Ninh Bình
(2012), Ninh Bình 20 năm xây dựng và phát triển (1/4/1992 – 1/4/2012), Nxb
Thống kê.
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau các tác giả đã đi sâu nghiên cứu cơ

sở lí luận và thực tiễn, tính tất yếu khách quan phải tiến hành chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Các công trình nghiên cứu cũng đã bước đầu đánh giá những thành tựu quan
trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta góp
phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, cải thiện đời sống nhân
dân. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu vẫn nổi lên các hạn chế, bất cập cần
sớm được khắc phục đó là: xu hướng chạy theo năng xuất và sản lượng còn
phổ biến mà chưa tính đến các yếu tố xã hội, môi trường; tác động của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến nền kinh tế chưa cao, tỉ lệ lao động dư


6
thừa, thất nghiệp còn lớn. Trong lĩnh vực nông nghiệp việc chuyển dịch
giống, vật nuôi, cây trồng còn chậm, cơ cấu nông nghiệp chưa thay đổi về
chất chủ yếu chúng ta vẫn còn xuất nông sản dưới dạng thô hoặc sơ chế, hàm
lượng dinh dưỡng chưa cao. Việc ứng dụng khoa học, kĩ thuật vào quá trình
sản xuất nông nghiệp còn nhiều yếu kém. Để khắc phục các hạn chế, các
tác giả cũng đã nêu ra các giải pháp cơ bản, đồng bộ như đột phá về quy
hoạch, sử dụng đất đai, đột phá trong sử dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật
công nghệ, đột phá trong chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ giới hóa khâu sản
xuất và có cơ chế lưu thông hợp lí với thị trường đầu ra có sức cạnh tranh tốt
trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Nhóm các luận án, luận văn: Tiêu biểu có một số luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ ngành Kinh tế và chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, viết về lĩnh vực này và đã bảo vệ thành công như:
Phạm Anh Tuấn (2006) “Về chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở nước ta hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội; Đặng Thị Kim
Oanh (2005) “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
năm 1997 đến năm 2003”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại

học Quốc gia, Hà Nội; Đào Thị Vân (2004), Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai
đoạn 1997- 2003, luận văn Thạc sĩ Kinh tế , Đại học Quốc gia Hà Nội; Trịnh
Văn Tiến (2010), “Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn từ năm 2000 đến năm 2006”, Luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Đào Thu Huyền (2010), “Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm
2006”, Đại học Quốc gia, Hà Nội; Trần Trung Nhàn (2011) “Đảng bộ tỉnh


7
Đồng Nai lãnh đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn từ năm1996 đến năm 2006”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch
sử Đảng, Học viện Chính trị, Hà nội.
Nhóm các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học: GS,TS Nguyễn
Thiện Nhân (2005), “Bốn bài học về chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công
trong nông nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản (số18); PGS,
TS Trần Thọ Đạt (2008), “Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam
giai đoạn 1991- 2006”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (số 128); Nguyễn Thanh
Vinh (2007), “Đảng Bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp (1996 - 2006 )”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (số 5); Nguyễn Sinh Cúc
(2001), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân giai đoạn 1996 - 2000”, Tạp chí
Cộng sản, (số17); Nguyễn Thị Minh, “Chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh
tế”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (số 3); Trần Anh Phương (2009) “Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế - thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng Sản, (số1);
PGS, TS Phạm Thị Khanh (2007), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn nhìn từ góc độ quản lý nhà nước”, Tạp chí Quản lý nhà nước,
(số135).
Các công trình khoa học nêu trên đã khẳng định vị trí, vai trò của quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phân tích thực trạng, những
tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến phát triển các
ngành, các lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Một số công trình có đề
xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước và từng địa phương. Các công
trình nghiên cứu khá toàn diện, hệ thống, phong phú về nội dung, đề cập
khá cụ thể về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các phạm
vi khác nhau. Song chưa có một công trình nào đề cập một cách đầy đủ, hệ


8
thống, khoa học về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhất là dưới góc độ khoa
học Lịch sử Đảng. Những công trình khoa học nêu trên là những tư liệu
quý, tác giả có thể tham khảo, tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện
luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010. Rút ra
những kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp những năm tới.
* Nhiệm vụ
Làm rõ yêu cầu khách quan, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
của tỉnh Ninh Bình từ năm 2001 đến năm 2010.
Phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
Đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm chủ yếu
trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Ninh Bình để làm
cơ sở cho giai đoạn sau.

* Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.


9
4. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lí luận
Luận văn dựa trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp của tỉnh Ninh Bình từ năm 2001 đến năm 2010, thông qua các số
liệu của các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, các số liệu báo cáo
thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan Đảng, chính quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội của Tỉnh, cùng kết quả điều tra khảo sát thực tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận sử học mác xít, trong đó
chủ yếu dựa vào phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và kết hợp phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgic với các phương pháp khác như: phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh... để làm sáng tỏ những vấn đề cụ thể.
5. Ý nghĩa của luận văn
Thành công của luận văn góp phần làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của

chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng trong tỉnh Ninh Bình, các Học viện,
Nhà trường trong và ngoài quân đội.
Luận văn là nguồn tư liệu để các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội ở tỉnh Ninh Bình tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong lãnh
đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới.


10
6. Kết cấu luận văn
Gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


11
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1.Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2001 - 2005)
1.1.1.Yêu cầu khách quan chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
của tỉnh Ninh Bình
* Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình ảnh
hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Đặc điểm điều kiện tự nhiên, địa lý
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng,
phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa,

phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Nam giáp biển Đông. Ninh Bình có
vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa
lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa đồng bằng Bắc bộ với vùng
núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc. Trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ 1A, 1B, 10,
12A, 12B và đường sắt Bắc Nam chạy qua cùng hệ thống sông ngòi dày
đặc như sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vân, sông Trinh Nữ... tạo thành
mạng lưới giao thông thủy, bộ rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế
nông nghiệp trong và ngoài tỉnh, làm cho vị trí địa - kinh tế của Ninh Bình
ngày càng trở nên quan trọng là lợi thế cho sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Về tổ chức hành chính: Tỉnh có thành phố Ninh Bình, thị xã Tam
Điệp và 6 huyện là Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô, Gia Viễn và
Nho Quan, có 2 dân tộc chính là Kinh và Mường, 2 tôn giáo chính là Phật
giáo và Thiên chúa giáo. Thế mạnh chủ yếu phát triển kinh tế của Ninh
Bình là nông nghiệp, du lịch, công nghiệp vật liệu xây dựng và dịch vụ.


12
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 138.199,0 ha. Đất nông nghiệp 89.449,0 ha
trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 67.630,0 ha; đất lâm nghiệp 17.732,0 ha;
đất nuôi trồng thủy sản 4.087,0 ha. Đất phi nông nghiệp 27.051,0 ha trong đó đất
ở 5.018,0 ha; đất chuyên dùng 15.611,0 ha. Đất chưa sử dụng 21.699,0 ha, trong
đó có 5.952,0 ha đất bằng và mặt nước; 15.47,0 ha đất đồi núi. Một bộ phận
đáng kể trong quỹ đất chưa sử dụng có khả năng khai thác cho phát triển nông lâm nghiệp và thủy sản. Ngoài ra vùng ven biển Kim Sơn mỗi năm phù sa tiếp
tục bồi lấn ra biển 80 - 100 m làm cho tài nguyên đất nông nghiệp của tỉnh tiếp
tục được mở rộng. Điều kiện đất đai, địa hình của tỉnh khá đa dạng bao gồm cả
vùng đồng bằng trung tâm, vùng đồi núi bán sơn địa và vùng đồng bằng ven
biển.
Vùng đồng bằng trung tâm: xen kẽ núi đá vôi thuộc các huyện Hoa Lư,
thành phố Ninh Bình, phần còn lại của huyện Yên Khánh, đa số diện tích huyện
Gia Viễn và một số xã của huyện Nho Quan, với diện tích khoảng 76.700 ha

(chiếm 55,5 diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Tiềm năng phát triển nông nghiệp của
vùng là trồng lúa, rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày, chế biến lương thực,
thực phẩm, nuôi một số thủy sản trên ao đầm, ruộng trũng. Có thể phát triển ở
vùng này cây trồng sản xuất hàng hóa tập trung là vùng lúa chất lượng cao
(huyện Yên Khánh, Hoa Lư ) và vùng rau, hoa (thành phố Ninh Bình, huyện
Yên Khánh).
Vùng đồi núi bán sơn địa: nằm ở phía Tây và Tây Nam của tỉnh, bao gồm
các khu vực phía Tây Nam huyện Nho Quan và thị xã Tam Điệp, phía Tây
huyện Gia Viễn, phía Tây Nam huyện Hoa Lư và Tây Nam huyện Yên Mô. Diện
tích toàn vùng này khoảng 35 nghìn ha, (chiếm 24,5% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh). Vùng này tập trung tới 90% diện tích đồi núi và diện tích rừng của tỉnh.
Sản xuất nông - lâm nghiệp ở vùng này bên cạnh trồng lúa thế mạnh là trồng cây
công nghiệp, cây ăn quả đặc biệt là đã hình thành vùng dứa xuất khẩu và trồng
rừng. Đây là vùng có thế mạnh về du lịch sinh thái - tâm linh.


13
Vùng đồng bằng ven biển: bao gồm huyện Kim Sơn, 9 xã thuộc huyện Yên
Khánh, 2 xã thuộc huyện Yên Mô, lấy ranh giới là đê Hồng Đức với diện tích
khoảng 31.000 ha (chiếm 21,7% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Thế mạnh sản xuất
nông nghiệp ở vùng này là trồng lúa, là vùng lúa có năng suất cao nhất trong tỉnh
(trong đó có một số lúa đặc sản có hiệu quả kinh tế cao), chăn thả các loại thủy,
hải sản có giá trị như tôm sú, cua rèm, trồng cói và chế biến cói xuất khẩu.
Ninh Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, cho phép cây
trồng và vật nuôi sinh trưởng quanh năm. Nhìn chung chế độ khí hậu, thủy
văn tương đối thuận lợi cho phát triển đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi
và thủy sản. Tuy vậy vẫn còn nhiều hạn chế là mùa khô thì hạn hán, mùa
mưa gây úng, lũ lụt và hệ thống một số sông phải đảm nhiệm vai trò phân lũ,
chậm lũ cho một phần của vùng đồng bằng sông Hồng. Hàng năm Ninh
Bình chịu ảnh hưởng khoảng 4 - 5 cơn bão.

Xét dưới góc độ địa lý - kinh tế, vị trí địa lý tạo cho Ninh Bình một
không gian kinh tế mở, vừa gắn kết với các tỉnh Đồng bằng sông Hồng
với các tỉnh miền Trung và miền Nam, đồng thời gắn kết giữa kinh tế
đồng bằng, kinh tế biển và ven biển với không gian kinh tế rộng lớn của
vùng trung du, miền núi Hòa Bình và các tỉnh vùng Tây Bắc. Do vậy từ
xưa cho đến nay, Ninh Bình vẫn được xem như là một “yết hầu” trên
tuyến giao lưu kinh tế Bắc Nam, một cửa ngõ giao thương giữa đồng bằng
với các vùng miền núi phía Tây, Tây Bắc của Tổ quốc và có nhiều lợi thế
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.
Đặc điểm kinh tế - xã hội
Theo Cục Thống kê tỉnh, dân số năm 2001 là 888,652 nghìn người,
trong đó khu vực nông thôn có 766,918 nghìn người chiếm 86,3% dân số
trung bình toàn tỉnh. So với dân số khu vực đồng bằng sông Hồng, dân số tỉnh
Ninh Bình chiếm 5,6% và bằng 1,2% dân số cả nước. Mật độ dân số của Tỉnh


14
khoảng 675 người/ km2 thấp hơn mật độ trung bình của vùng, đang nằm trong
“Thời kì dân số vàng”, là lợi thế không nhỏ để cung cấp nguồn lao động,
thuận lợi trong quản lí và không gây sức ép đối với phát triển kinh tế, với tổng
lao động năm 2001 chiếm 54,3% dân số (khoảng 483,3 nghìn người).
Nông nghiệp nói chung (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản) là nghề
sản xuất chính, là “nghề gốc” của đa số cư dân trong tỉnh. Cho đến nay đa số
dân cư lao động vùng nông thôn của tỉnh vẫn sản xuất và sinh sống chủ yếu
trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp và thủy sản. Theo kết quả tổng điều tra nông
thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001 của Tổng cục Thống kê số hộ nông
- lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh có 158.962 hộ chiếm 80,3% tổng số hộ toàn
tỉnh (198.015 hộ). Trong đó số hộ nông - lâm nghiệp và thủy sản ở khu vực
nông thôn có trên 154.000 hộ, chiếm 80,4% số hộ ở nông thôn và 96,9% tổng
số hộ nông - lâm nghiệp và thủy sản nói chung của cả tỉnh [98, tr.30]. Ninh

Bình có tỉ lệ lao động thất nghiệp đô thị khá thấp (3,7%), chất lượng nguồn
nhân lực được đánh giá là khá so với vùng đồng bằng sông Hồng cũng như cả
nước. Tổng số lao động trong độ tuổi 590 nghìn người, lao động đang hoạt
động trong các ngành kinh tế khoảng 483,3 nghìn người chiếm 81,9% tổng số
lao động toàn tỉnh. Lao động hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản có 315,0 nghìn người (năm 2001), bình quân 1 lao động nông nghiệp
phụ trách 0,25 ha đất sản xuất nông nghiệp (trong đó đất lúa 0,19 ha) và 0,12
ha đất lâm nghiệp [95, tr.45]. Do vậy đây là nhân tố thuận lợi để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nhất là đối với các ngành thủ công mỹ nghệ và
công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Nguồn nhân lực Ninh Bình đang
phát triển khá cả về số lượng và chất lượng và trong thời kỳ đầu khá thuận lợi
cho tăng trưởng nhanh và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuy nhiên, lực
lượng lao động nông nghiệp có trình độ chuyên môn ở Ninh Bình còn thấp.
Theo kết quả điều tra của Cục Thống kê tỉnh (năm 2001) số lao động ở khu
vực nông thôn đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ chuyên môn có 11,2% đại


15
học, cao đẳng; khoảng 2,3% trung cấp, 4,4% sơ cấp, 4,5% công nhân kỹ thuật
[95, tr.128]. Nguồn nhân lực vừa là thế mạnh cung cấp lao động vừa là thị
trường to lớn về mọi mặt của tỉnh, tuy nhiên để giải quyết việc làm cho lao
động đặc biệt là lao động nông nghiệp là một thách thức của tỉnh trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nhất là việc làm trong thời gian
nông nhàn với các ngành nghề truyền thống.
Đối với các vấn đề xã hội: Trong những năm qua, Đảng bộ, chính
quyền, các ngành, các cấp đã chú ý đến phát triển văn hóa - xã hội. Các
chương trình phổ cập giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc y tế, chăm lo
đối tượng chính sách, giải quyết việc làm luôn được quan tâm đúng mức. Đời
sống nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện và nâng lên, bộ mặt nông
thôn mới ngày càng được phát triển và khởi sắc.

Những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nêu trên có tác động mạnh
mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh đó là: Tạo
ra cơ hội và động lực quan trọng để phát triển kinh tế nông nghiệp thành các
vùng chuyên canh cây lương thực và cây công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu,
ngoài ra còn thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường đặc biệt là thị trường tiêu
thụ nông sản, thực phẩm và sản phẩm tiểu thủ công nghiệp mang lại hiệu quả về
kinh tế xã hội và môi trường. Tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập
cho nông dân tiếp cận với các ngành nghề phi nông nghiệp. Bên cạnh thuận lợi
Ninh Bình cũng phải đối mặt với những khó khăn đó là một tỉnh nghèo, cơ cấu
kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp thường xuyên phải chịu nạn lụt lội, hạn hán
do ở vùng phân lũ. Tuy nhiên tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
cho Ninh Bình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thuận lợi là cơ bản.
* Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Ninh
Bình trước năm 2001
Thành tựu:


16
Sau khi tái lập tỉnh tháng 12 năm 1992 Ninh Bình có nhiều cơ hội để
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng phát triển một nền nông nghiệp toàn
diện, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa,
xây dựng một ngành nông nghiệp chất lượng cao, có cơ cấu hợp lý. Đây cũng
là chủ trương của Đảng bộ tỉnh qua các kỳ đại hội: Đại hội lần thứ XII (tháng
8 năm 1992) đề ra 8 nhiệm vụ lớn trong đó xác định phát triển nông nghiệp
toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa là nhiệm vụ trọng tâm. Trong phương
hướng, nhiệm vụ những năm 1992 - 1995, Đại hội XII xác định: “Tập trung
khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh, nhất là lao động và trí tuệ, ruộng đất và tài
nguyên, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công
nghiệp - dịch vụ gắn với xuất khẩu, lấy sản xuất nông nghiệp toàn diện làm
nhiệm vụ quan trọng” [65, tr.44]. Đại hội lần thứ XIII (tháng 4 năm 1996) đã

có các chủ trương: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đặc biệt là cơ
cấu vật nuôi, cây trồng, phát triển kinh tế trang trại ở các vùng đồi núi thuộc
huyện Nho Quan, Tam Điệp và vùng ven biển của huyện Kim Sơn” [66,
tr.46]. Đại hội XIII cũng đề ra mục tiêu trong 5 năm (1996 - 2000), cơ cấu
kinh tế: nông nghiệp 30%; công nghiệp 35%; du lịch và dịch vụ 35%; xây dựng
Ninh Bình thành tỉnh công nghiệp - nông nghiệp - du lịch và dịch vụ. Phấn đấu
nhịp độ tăng GDP hàng năm là 16%, trong đó nông - lâm - ngư nghiệp tăng 6
-7%; công nghiệp tăng 26%, du lịch tăng 20%; kim ngạch xuất khẩu tăng 20%
[66, tr.47].
Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Đại
hội XII và Đại hội XIII của Đảng bộ tỉnh, Tỉnh ủy đã chỉ đạo: Quy hoạch tổng
thể phát triển nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2000 - 2010 bước đầu hình
thành các vùng động lực phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát huy lợi
thế so sánh của các vùng sinh thái của tỉnh như vùng lúa chất lượng cao, vùng
chăn nuôi tập trung, vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước mặn... Cùng
với chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu vùng Tỉnh ủy xác định trọng tâm là chuyển


17
dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp, đầu tư phát triển giống cây,
giống con mới có năng suất cao, chất lượng tốt.
Do có sự lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đúng hướng
nên kinh tế nông nghiệp Ninh Bình từ khi tái lập tỉnh đã có sự chuyển biến
tích cực, khá toàn diện, đạt được những kết quả rõ rệt: Cơ cấu tổng sản phẩm
năm 1992 đối với nông, lâm thủy sản chiếm 62,9%; công nghiệp và xây
dựng chiếm 15,4%; dịch vụ 21,7% đến năm 2000 nông lâm thủy sản
43,6%; công nghiệp và xây dựng 26,2%, dịch vụ 30,2% [95, tr.82]. Tốc độ
tăng trưởng nông nghiệp đạt 7,2% năm (giai đoạn 1992 - 2000). Trong đó kết
quả sản xuất lương thực là một trong những thành tựu nổi bật nhất của ngành
nông nghiệp. Sản lượng lúa bình quân 8 năm (1992 -2000) tăng 9,44%/ năm,

tốc độ tăng sản lượng do hai yếu tố tác động trực tiếp, đó là diện tích và năng
xuất. Diện tích gieo cấy lúa giai đoạn (1992 - 2000) có tốc độ tăng 1,26%/
năm, trong khi đó năng xuất lúa tăng bình quân 8,08%. Giá trị sản xuất nông
nghiệp trên 1 ha canh tác đạt 21 triệu đồng/năm [66, tr.48].
Cây công nghiệp và cây ăn quả được chú trọng đầu tư phát triển.
Bước đầu hình thành một số vùng cây công nghiệp, cây ăn quả tập trung,
có sản phẩm hàng hóa phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Cây
lạc, đậu tương, cói, mía, dứa... phát triển. Năm 2000, tổng diện tích cây
công nghiệp là 9.031ha. Bình quân 8 năm (1992 - 2000) diện tích tăng
4,7%. Toàn tỉnh có 294 trang trại tổng diện tích hàng nghìn hécta, tập
trung chủ yếu ở vùng đồi núi thuộc huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp
và vùng ven biển Kim Sơn.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt đã tạo điều kiện cho cơ cấu
ngành chăn nuôi chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Bình quân 8
năm (1992 - 2000), đàn trâu giảm 2,4% do sử dụng cơ giới vào khâu canh


18
tác; đàn bò tăng 4,44%; đàn lợn tăng 6,52% đàn dê tăng 7,88%; đàn gia
cầm tăng 11,81% [95,tr.102].
Ngành thủy sản có bước chuyển dịch đúng hướng, nhất là nuôi thả thủy
sản nước ngọt do tận dụng các ao, hồ, ruộng trũng cấy lúa một vụ và đầm nước lợ
và cá lồng trên sông. Diện tích nuôi thả từ 3.410 ha năm 1992 tăng lên 3.720 ha
năm 2000; sản lượng nuôi thả, đánh bắt hàng năm tăng từ 1.875 tấn năm 1992 lên
7.610 tấn năm 2000 [95, tr.103].
Về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp khu vực miền
núi, phong trào trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả đã được nông dân quan tâm và
mang lại hiệu quả thiết thực. Rừng trồng diện tích 5.387 ha (chiếm 28,3% đất
lâm nghiệp). Từ năm 1992 đến năm 2000 chương trình 327 và 773 đã xây
dựng 14 dự án phủ xanh đất đồi núi trọc, khai hoang phục hóa nhằm sử dụng có

hiệu quả tiềm năng đất đai hiện có.
Từ khi tái lập Tỉnh năm 1992 đến năm 2000, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
đã lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tương đối toàn diện, đúng
hướng, có chất lượng, tăng thu nhập cho nông dân. Ngành nông nghiệp đã
đóng góp trên 51% GDP của tỉnh. Để có kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp như trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng
nguyên nhân quan trọng nhất là Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã
quán triệt và vận dụng đúng đắn chủ trương của Đảng về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp vào thực tiễn.
Hạn chế:
Một là, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
chưa có bước chuyển biến rõ rệt về cơ cấu mùa vụ, ngành, vùng, cơ cấu mùa
vụ, vật nuôi, cây trồng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, chưa gắn sản
xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, chưa tạo ra được hàng hóa mũi nhọn cả
về số lượng và chất lượng. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng sản xuất nông nghiệp


19
và cơ cấu các thành phần kinh tế chưa thành một chỉnh thể thống nhất. Chưa
hình thành được vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu. Thủy sản là một phần
quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa được khai thác
hiệu quả. Diện tích hồ, ao và ruộng trũng cấy một vụ khá lớn nhưng mới sử
dụng khoảng 26% để nuôi trồng thủy sản, diện tích bãi bồi ven biển còn đang
nuôi thả theo phương thức quảng canh, tự nhiên.
Hai là, chưa phát huy được vai trò của các thành phần kinh tế trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, kinh tế tập thể, quốc doanh còn
lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động, hiệu quả thấp. Một số
hợp tác xã nông nghiệp chỉ tồn tại mang tính hình thức chưa bảo đảm được
các khâu dịch vụ đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ chưa được quan tâm đúng mức. Kinh tế hộ chưa được phát

triển mạnh, năng xuất lao động chưa cao, nông nghiệp vẫn trong tình trạng
sản xuất nhỏ, ruộng đất manh mún.
Ba là, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn nhiều yếu kém, chưa
đồng bộ, hệ thống thủy nông khai thác còn thấp so với năng lực thiết kế và
chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh theo công nghệ sản xuất mới. Giao
thông nông thôn còn khó khăn, hệ thống kênh mương tưới tiêu chưa được đầu
tư xây dựng. Chưa xây dựng được các khu chế biến cho các vùng nguyên liệu.
Bốn là, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn
hạn chế, đội ngũ cán bộ, kỹ thuật các chuyên gia về nông nghiệp còn thiếu
và yếu. Việc chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản
xuất đặc biệt là công nghệ sinh học đã đạt được một số kết quả bước đầu ở
khâu giống cây ngắn ngày và giống con nuôi (lợn, bò sữa, gà, dê). Song
nhìn chung năng xuất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi còn thấp, giá
thành sản phẩm cao, công nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp đang
trong quá trình hình thành và phát triển.


20
Nguyên nhân của những hạn chế:
Một là, Ninh Bình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ điểm
xuất phát thấp, cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn yếu kém, sản xuất lạc
hậu, cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế và cơ cấu trong ngành nông
nghiệp bị mất cân đối ở tình trạng làm không đủ ăn, thu không đủ chi, bội chi
ngân sách phải trông chờ vào hỗ trợ của chính phủ.
Hai là, năng lực cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các cấp, các ngành của tỉnh còn
nhiều bất cập, chưa phát huy được lợi thế của điều kiện địa lý - kinh tế mang lại, đặc
biệt là lợi thế so sánh của các vùng có thể sản xuất chuyên canh, luân canh, chưa có
các chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển.
Ba là, Đảng bộ tỉnh chưa có các chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, vật

nuôi cây trồng mang tính đột phá, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích chưa
cao. Chưa huy động được tốt các nguồn lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp đặc biệt là nguồn lực tài chính và phát huy được nguồn lực lao động tại chỗ.
Bốn là, việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp nông thôn
làm chậm (đến năm 2000 mới xây dựng được quy hoạch), chưa có quy hoạch cụ
thể cho các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu. Trong chỉ đạo điều hành của Ủy
ban nhân dân tỉnh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn lúng túng, chưa
phát huy hết sức mạnh mọi cấp, mọi ngành và mọi thành phần kinh tế trong tỉnh.
1.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (2001 - 2005)
* Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng những chủ trương, quan
điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã được Đảng ta liên tục bổ
sung, phát triển. Trong định hướng phát triển kinh tế lần đầu tiên Đảng ta nhấn


21
mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển nông nghiệp theo hướng đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở phát triển hợp lý nền nông nghiệp
ở các vùng sinh thái, vùng lãnh thổ để khai thác các lợi thế, tiềm năng của từng
vùng để liên kết hỗ trợ nhau, tạo ra nền nông nghiệp phát triển toàn diện hướng tới
nền nông nghiệp sinh thái bền vững. Tiếp tục thực hiện quan điểm của Đảng về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Đại hội Đảng IX (tháng 4/2001) đã khẳng
định rõ hơn quan điểm của Đảng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
“Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn;
xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm năng và
lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương” [29,
tr.276].
Quán triệt thực hiện và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (tháng 3/2002) của
Đảng nhận định: Nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng
hóa phát triển tương đối toàn diện, tăng trưởng khá. Quan hệ sản xuất từng bước
đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên hội nghị cũng
chỉ ra những hạn chế trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của nước ta: “Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở nhiều nơi còn phân tán, manh mún, ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ vào sản xuất chậm, năng xuất, chất lượng và khả năng cạnh tranh
của nhiều sản phẩm nông nghiệp còn thấp” [30, tr.92]. Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 5, ban hành ba nghị quyết quan trọng đều nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đó là: Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế chính
sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết về
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001
- 2010. Đặc biệt là Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) đã đưa ra nội dung tổng
quát và những quan điểm, mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông


22
nghiệp: Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; ứng dụng các thành tựu
khoa học - công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học vào các khâu sản xuất
nông nghiệp[30, tr.93]. Quan điểm của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp đến giai đoạn này được chỉ rõ là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm bảo đảm
vững chắc an ninh lương thực, nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở hình
thành các vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giá thành hạ, gắn với chế biến
và tiêu thụ. Để phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần phải
phát triển sản xuất chế biến các loại nông sản hàng hóa xuất khẩu có lợi
của từng vùng, với quy mô hợp lý; đồng thời xây dựng các vùng sản xuất

tập trung các loại cây lương thực, cây công nghiệp, rau quả; khuyến khích
phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp; tập trung bảo vệ vốn rừng,
quy hoạch để hình thành các vùng rừng nguyên liệu gắn liền với cơ sở chế
biến; đầu tư đồng bộ cho chương trình nuôi trồng và đánh bắt thủy sản với
chế biến hiện đại. Tăng cường các hoạt động khoa học - công nghệ, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nhằm thay đổi nhanh cơ cấu mùa vụ, cơ
cấu cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả kinh tế cao.
Những quan điểm và chủ trương của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp thể hiện rõ quá trình phát triển về nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng thông qua quá trình tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn. Đây là
cơ sở lý luận quan trọng giúp cấp ủy địa phương nhất là các tỉnh kinh tế
thuần nông hình thành các chủ trương chính sách về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đúng quy luật khách quan và phù hợp với điều kiện của
mỗi tỉnh trong đó có tỉnh Ninh Bình.
* Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp từ năm 2001 đến năm 2005


23
Quan điểm chỉ đạo: Trên cơ sở đánh giá thực trạng nền kinh tế nông
nghiệp của tỉnh và kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sau 15
năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, 10 năm tái lập tỉnh; quán triệt và
thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (tháng 1
năm 2001) đã tập trung phân tích tình hình và điều kiện cụ thể của từng
vùng kinh tế đặc biệt là vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của
tỉnh giai đoạn 2001 - 2005 được xác định:
Thứ nhất, tập trung chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng, con nuôi,
thâm canh, tăng năng xuất, bảo đảm an toàn về lương thực, đủ ăn, phát triển

chăn nuôi, có dự trữ và một phần cho xuất khẩu [67,tr.45]. Trên cơ sở đó phát
triển mạnh cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, trồng
rừng và nuôi trồng thủy sản trong đó chú trọng công tác chuyển đổi bộ giống,
khai thác thế mạnh của từng vùng sinh thái.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến, thị
trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp [67,tr.47], thực hiện đường lối thâm
canh hợp lý kết hợp với mở rộng diện tích, sử dụng hiệu quả đất đai, áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất cũng như chế biến, tiêu thụ sản
phẩm, gắn quá trình sản xuất với thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành
phần trong nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa [67,tr.57], trong đó
kinh tế quốc doanh, kể cả quốc doanh trong công nghiệp chế biến và dịch vụ nông
nghiệp cùng kinh tế hợp tác xã vươn lên giữ vai trò nòng cốt, tạo điều kiện thúc
đẩy kinh tế hộ phát triển theo hướng trang trại và doanh nghiệp. Phát triển mạnh
các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nông
dân, giảm bớt nông nghiệp thuần túy, tăng hộ nông dân kiêm ngành nghề và dịch
vụ, gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới.


24
Thứ tư, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải tranh
thủ mọi nguồn lực đầu tư cả trong và ngoài tỉnh của các thành phần kinh tế
[67,tr.51], gắn kinh tế nông nghiệp Ninh Bình với vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ mà trọng tâm là khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh để thu hút vốn đầu tư và công nghệ mới, xây dựng và hình thành các
vùng chuyên canh lớn, những sản phẩm mũi nhọn về nông nghiệp phục vụ
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Mục tiêu, nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong
những năm 2001- 2005 được Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh Ninh Bình xác định:
Chuyển dịch một bước rõ rệt cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng

sản xuất hàng hóa, gắn với công nghiệp chế biến và một phần xuất khẩu, góp
phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thoát dần tình
trạng thuần nông với cơ cấu mới công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ.
Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng sức cạnh tranh cao. Tập trung
làm chuyển biến mạnh hơn cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển cây trồng
kém hiệu quả, giá trị kinh tế thấp trên các vùng đất không phù hợp sang
trồng các loại cây có hiệu quả kinh tế cao. Phấn đấu đến năm 2005 tốc độ
tăng trưởng GDP đạt 8% bình quân hàng năm. Bình quân hàng năm giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng 4%, công nghiệp, xây dựng tăng 16%, dịch vụ
tăng 11%. Đến năm 2005 cơ cấu kinh tế theo GDP: nông nghiệp 40%, công
nghiệp, xây dựng 30%, dịch vụ 30% [67, tr.44].
Trong nội bộ ngành nông nghiệp phấn đấu đến năm 2005, tỷ trọng
GDP là: trồng trọt chiếm 70%, chăn nuôi chiếm 30%. Trong trồng trọt, cây
lương thực 75%, cây thực phẩm và cây công nghiệp 25%. Trong cơ cấu
nông thôn phi nông nghiệp chiếm 30%. Mỗi năm giải quyết việc làm cho
10.000 - 12.000 lao động. Trong 5 năm (2001 - 2005) có 25% số người lao
động được đào tạo nghề, trong đó có khoảng 80.000 - 100.000 lao động


25
nông nghiệp sang làm ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ. Sản lượng lương thực quy thóc bình quân hàng năm đạt 46 vạn
tấn; giá trị sản phẩm trên một ha canh tác bình quân 24 triệu đồng/năm;
80% đường giao thông nông thôn được rải nhựa hoặc bê tông; 60% kênh
tưới tiêu được kiên cố hóa [67, tr.46].
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, phải tập trung thực hiện có
hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các loại đất đai, khai
thác phát huy thế mạnh của các vùng sinh thái trong tỉnh. Trên cơ sở quy
hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2000 - 2010, phải

tiến hành quy hoạch, có kế hoạch cụ thể từng vùng, tùy từng loại đất, để bố trí
cây trồng có hiệu quả nhất. Mở rộng diện tích lấn biển, tăng vụ, nâng cao hệ
số sử dụng đất, tăng diện tích đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng
rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; sử dụng cao nhất diện tích mặt nước
để nuôi trồng thủy, hải sản; bố trí diện cần thiết cho nhu cầu phát triển dịch
vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho nhu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp gắn với cơ cấu lao động việc làm ở nông thôn. Có
các chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho các vùng chuyên canh
sản xuất hàng hóa, vùng nguyên liệu, khu chế xuất. Đặc biệt là đội ngũ cán
bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Có chính sách khuyến khích
những kỹ sư, cán bộ chuyên môn giỏi tới làm việc tại các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
Ba là, chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu
mùa vụ, tạo năng xuất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế cao. Trước hết
chú trọng cơ cấu chất lượng giống (cả giống lúa, rau màu, cây công nghiệp, chăn
nuôi và cây ăn quả). Tổ chức sản xuất giống lúa lai, đưa giống lúa lai và giống


26
lúa có chất lượng cao vào sản xuất, đảm bảo vừa nâng cao năng suất vừa có sức
chống sâu bệnh, úng hạn và chất lượng tốt. Chú trọng đảm bảo thời vụ gieo cấy,
đảm bảo tỷ lệ thích hợp lúa xuân muộn, lúa mùa sớm. Phát triển đàn lợn có tỷ lệ
nạc cao, đàn bò thịt theo hướng lai sind. Nghiên cứu sản xuất giống tôm sú cho
vùng nuôi tôm ven biển.
Bốn là, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp. Trên cơ sở hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu theo
yêu cầu kỹ thuật cho cây trồng. Hạn chế đến mức thấp nhất diện tích bị hạn,
úng và những thiệt hại do thiên tai bão, lụt gây ra, kể cả vùng đồng trũng và
vùng đồng bằng ven biển. Trong 5 năm tới (2001- 2005) cơ bản hoàn thành

mục tiêu kiên cố hóa kênh mương. Tiếp tục nâng cấp hệ thống trạm, trại kỹ
thuật về cây trồng, con nuôi và thủy sản để khảo nghiệm, khu vực hóa và ứng
dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông - lâm- ngư nghiệp.
Năm là, giải quyết tốt khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Tỉnh phải coi đây là yêu cầu bức bách để ổn định và phát triển sản xuất nông
nghiệp. Các cơ quan thương mại phải phối hợp với các ngành chức năng, các
hợp tác xã, bám sát thị trường chủ động xây dựng các cơ sở chế biến nông
sản, thực phẩm, tìm thị trường và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho nông
dân, mở rộng các hình thức thông tin kinh tế. Tạo môi trường thuận lợi cho
việc lưu thông hàng hóa giữa các vùng, coi đây là yếu tố quan trọng để thúc
đẩy sản xuất phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả.
1.2. Đảng Bộ tỉnh Ninh Bình chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp (2001 – 2005)
1.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa
Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ
XIV về phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng
hóa. Tỉnh ủy Ninh Bình đã có chương trình hành động số 01- CTr/TU ngày


×