Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

thực trạng và giải pháp phát triển lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.21 KB, 96 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ 1986 đến nay, đất nước Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi mới. Cùng
với những thành tựu về kinh tế - xã hội, thương mại quốc tế của Việt Nam đã có
những bước tiến vượt bậc trên nhiều mặt: quy mô, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nhóm,
ngành hàng, thị trường…góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, ổn định
chính trị và xã hội, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực hết mình trong
việc hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới,
trong đó bước ngoặt quan trọng là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006.
Nhờ việc mở rộng hơn nữa các quan hệ thương mại song phương và đa phương,
Việt Nam ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi lớn để phát huy tối đa những tiềm
năng, thế mạnh của mình, phát triển kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối diện với những áp lực cạnh tranh khốc liệt
từ các quốc gia khác, cũng như những rào cản vô hình, hữu hình và sự bất bình đẳng
trong quan hệ ngoại thương đặc biệt là với các nước kinh tế phát triển.
Để tham gia rộng rãi vào phân công lao động quốc tế, mở rộng sự giao lưu
giữa các thị trường trong nước và quốc tế, Việt Nam cần dựa chủ yếu vào các nguồn
lực trong nước, kết hợp với xu thế phát triển của thế giới, trên cơ sở đó, mở rộng qui
mô và tăng xuất khẩu. Điều cơ bản là làm thế nào khai thác được tối đa nguồn lực
bên trong và những lợi thế so sánh có được trong phân công lao động quốc tế để đẩy
mạnh xuất khẩu. Đó chính là việc xác định sản phẩm chủ lực và cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu hợp lý trong điều kiện phát triển cụ thể của đất nước và bối cảnh kinh tế
quốc tế trong từng thời kì, bên cạnh đó xác định đối tác, thị trường trọng điểm và cơ
cấu thị trường phù hợp. Những vấn đề này có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển
kinh tế quốc gia và quan hệ kinh tế quốc tế.

1


Trong quá trình tìm tòi tài liệu cho khoá luận này, em đã quyết định chọn đề tài:


“Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là phân tích, làm rõ thực trạng lựa chọn sản
phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua dựa trên những
lợi thế cạnh tranh của đất nước kết hợp với xu thế phát triển của thế giới; trên cơ sở
đó đưa ra một số giải pháp và định hướng cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường
xuất khẩu, góp phần đưa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam phát triển mạnh và hiệu
quả hơn nữa, xứng đáng với vai trò đầu tàu của nền kinh tế quốc dân trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề trong nước và thế giới liên quan đến việc

xác định sản phẩm và cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, thị trường và cơ cấu thị trường
xuất khẩu của Việt Nam qua các thời kì.
-

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào vấn đề sản phẩm và thị trường

xuất khẩu của Việt Nam trên cơ sở phân tích chung và đi vào một số sản phẩm và
thị trường cụ thể. Thời gian nghiên cứu của đề tài là giai đoạn từ 1986 – 2009.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
-


Phương pháp phân tích và tổng hợp

-

Phương pháp thống kê

-

Phương pháp khái quát

-

Phương pháp so sánh

-

Phương pháp luận giải

5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận được chia làm 3 chương:

2


Chương 1: Một số vấn đề chung về việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất
khẩu
Chương 2: Thực trạng của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
của Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp cho việc lựa chọn sản phẩm và thị

trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới

3


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC LỰA CHỌN
SẢN PHẨM VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
I. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
1. Một số nhận định chung về nền kinh tế trong nước và thế giới trong những
năm gần đây
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn
biến hết sức phức tạp, có thể nói là có những thay đổi mang tính chất bước ngoặt.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và đang gây những ảnh
hưởng nặng nề đến thương mại thế giới cũng như có những tác động sâu sắc đến
mọi quốc gia. Siêu cường Mỹ đang dần suy yếu, trong khi đó Trung Quốc đang nỗ
lực để đi nhanh hơn nữa trên con đường trở thành siêu cường. Tuy nhiên, nhìn
chung tình hình kinh tế thế giới trong những năm vừa qua, chúng ta thấy một số
chiều hướng chính sau:
1.1. Khoa học công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và
trực tiếp của xã hội
Với cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm
vi toàn thế giới như hiện nay, trên nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là kinh tế tri thức,
khoa học công nghệ đã trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trong đó tri thức và
thông tin trở thành yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt, có giá trị cao.
Các thành phố khoa học, công viên khoa học, khu công nghệ cao chính là môi
trường với những điều kiện thuận lợi để cho khoa học, công nghệ và sản xuất nhập
làm một. Trong các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ sinh học, công nghệ
thông tin, phòng thí nghiệm cũng chính là nhà máy, nhà khoa học đồng thời là nhà
sản xuất, kinh doanh. Các loại dược phẩm mới, các vi mạch, các sản phẩm phần
mềm tin học được sản xuất ra từ phòng thí nghiệm. Cùng một nơi, người ta nghiên

cứu thực nghiệm rồi sản xuất đại trà, xưởng sản xuất cũng là một phòng thí nghiệm.
Một phân xưởng sản xuất vi mạch điện tử có các trang thiết bị và điều kiện giống
như một phòng thí nghiệm hiện đại nhất.

4


Các ngành kinh tế giàu chất xám phát triển mạnh, chu kì đổi mới về công nghệ
và sản phẩm được rút ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến
sự dịch chuyển thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh đó, mức độ phổ cập mạnh mẽ của mạng Internet trong những năm
gần đây đã khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng nhanh và thông qua đó thay
đổi một cách sâu sắc tư duy kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức
kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Sự phát triển các giao dịch thương mại điện tử
được thực hiện thông qua mạng Internet cho phép hạ thấp các hàng rào chắn và chi
phí đi vào thị trường. Kết quả là từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến các công ty
xuyên quốc gia đều có thể tham gia thị trường toàn cầu.
Như vậy, có thể nói, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đã tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, rút ngắn
thời gian, giảm dần ý nghĩa khoảng cách không gian, thúc đẩy phân công quốc tế
ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư và tích tụ tập
trung tư bản trên toàn cầu dẫn đến hình thành nền kinh tế thế giới nhất thể hóa, toàn
cầu hóa hiện nay. Các quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và
liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác.
Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để các nước có điều kiện phát triển, sự hợp
tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng trở nên gay gắt.
1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu thế chung của thế giới, đã và sẽ
tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các nước và mở rộng trên hầu khắp
các lĩnh vực giao lưu kinh tế
Toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế lớn của kinh tế thế giới và quan hệ kinh

tế quốc tế từ vài thập niên trở lại đây. Nó là một xu thế khách quan, có những tác
động sâu sắc và toàn diện tới các nước và toàn bộ quan hệ quốc tế. Với việc xóa bỏ
các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và
nhân công giữa các nước, toàn cầu hóa đã giúp hình thành những thị trường khu vực
chung và tiến tới hình thành một thị trường thống nhất trên toàn cầu.

5


Toàn cầu hóa kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so
sánh của mình, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững hơn, nguồn lực được phân
bổ một cách hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là con
đường đi phù hợp với xu thế toàn cầu hóa của tất cả các nước, cho phép các nước tận
dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi mà quá trình toàn cầu hóa tạo ra để phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu hóa cũng gây ra nhiều khó
khăn, thách thức lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển, đó chính là
sức ép cạnh tranh và sức ép chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian ngắn.

Trong xu thế chung đó, Việt Nam cũng đã có những bước phát triển hội nhập
rất mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của khối ASEAN năm 1995, APEC năm 1998 và gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới WTO năm 2006, cũng như hàng loạt các sự kiện về tự do hóa thương mại khác
đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế nước ta nói chung cũng như hoạt động
xuất nhập khẩu nói riêng. Điều đó đã tạo ra nhiều cơ hội lớn hơn cho hàng hóa Việt
Nam thâm nhập thị trường nước ngoài, tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều
những thách thức mà chúng ta phải vượt qua.
1.3. Phân công lao động quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu do có sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hệ thống công ty đa quốc gia
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã làm cho phân công lao

động quốc tế trở nên sâu sắc và rộng khắp toàn cầu. Trong thời đại kinh tế tri thức,
thay vì đất, đai, tài nguyên, vốn trước đây, tri thức ngày càng làm nên giá trị áp đảo
trong mỗi sản phẩm. Các nước có thế mạnh về khoa học, công nghệ ra sức đầu tư,
phát triển những ngành kinh tế dựa trên tri thức. Khác biệt về điều kiện tự nhiên
không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa, thay vào
đó khả năng về công nghệ đang dần trở thành yếu tố quan trọng.
Bên cạnh xu thế trên của phân công lao động quốc tế, sự phân công chuyên sâu
trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng xuất hiện nhiều
hơn các công ty đa quốc gia. Với tư cách là những thực thể chính trị và kinh

6


tế mạnh nhất toàn cầu ngày nay, các công ty đa quốc gia đã thiết lập hệ thống các
chi nhánh trải rộng trên thế giới phụ thuộc vào công ty mẹ dẫn đến việc lôi cuốn các
nước có chi nhánh phải tham gia vào vòng chu chuyển của tư bản xuyên quốc gia.
Hoạt động cùng một lúc trên phạm vi nhiều nước trên thế giới, các công ty xuyên
quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Với mục tiêu
đạt được lợi nhuận siêu ngạch, các công ty xuyên quốc gia luôn tập trung phát triển
khoa học và công nghệ, tiếp tục mở rộng kinh doanh trên phạm vi toàn cầu để triệt
để khai thác các cơ hội đầu tư. Dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI – Foreign Direct
Investment) ngày càng đổ về những nước có nguồn nhân lực với lợi thế về trí tuệ và
tay nghề cao. Các công ty xuyên quốc gia đã có vai trò thúc đẩy sự phồn thịnh đến
một mức độ nhất định ở các nước đang phát triển, nhưng sau đó bằng việc bòn rút
lợi nhuận đã làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên và ô nhiễm nghiêm trọng
môi trường sinh thái ở những nước này.
1.4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào những năm 2008, 2009 đã
gây ra những tác động sâu sắc đến hầu hết mọi quốc gia
Bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ cuối năm 2007, cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu này được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ tám

mươi năm qua. Cuộc khủng hoảng này đã và đang có những tác động mạnh mẽ, lâu dài
đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Viện quốc gia nghiên cứu kinh tế và xã hội
(NIESR - National Institute Economic Review) của Anh cho rằng với giao dịch buôn
bán toàn cầu dự kiến giảm 8,2% trong năm 2009, kinh tế toàn cầu có thể phải chứng
kiến sự sụt giảm tồi tệ nhất trong hơn 60 năm qua (Nguyễn Thị Bình, 2009). Xu hướng
sụt giảm kinh tế ở Mỹ, khu vực châu Âu và Nhật Bản có thể kéo dài, thời gian có thể
đến hàng năm. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy kinh tế thế giới sẽ sớm trở lại với tăng
trưởng, và khi trở lại, tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu chắc chắn trong một thời
gian không ngắn sẽ thấp hơn so với trước khi khủng hoảng xảy ra.

Với cuộc khủng hoảng lần này, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế toàn cầu có thể
sẽ phải diễn ra. Ðó có thể là quá trình cơ cấu lại nền sản xuất theo hướng tiết kiệm
năng lượng và thân thiện với môi trường do đi đôi với khủng hoảng kinh tế là khủng
hoảng năng lượng và khủng hoảng khí hậu, môi trường. Ðó là quá trình cơ cấu lại

7


hệ thống tài chính tiền tệ song song với quá trình cơ cấu lại cơ chế quản lý, giám sát
trong từng quốc gia và trên toàn cầu. Ðó là việc điều chỉnh lại mối tương quan giữa
chính sách hướng mạnh ra xuất khẩu và chính sách coi trọng thị trường nội địa bởi
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng vừa qua, những nước gắn quá sâu với xuất
khẩu đều chịu tác động mạnh.
Cuộc khủng hoảng cũng sẽ dẫn đến những điều chỉnh về cán cân quyền lực
trên bàn cờ chính trị thế giới: Mỹ sẽ phải tính đến việc giảm bớt sự bành trướng về
chính trị, điều chỉnh quan hệ đối ngoại theo hướng tăng tính đa phương, giảm đối
đầu trực tiếp hơn; vai trò của Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi sẽ gia tăng.
Cuộc đấu tranh về lợi ích giữa các nước lớn sẽ dẫn đến một số điều chỉnh lợi ích
nhất định tại các thiết chế tài chính, tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên, do sự ràng buộc về
lợi ích, các nước lớn vẫn sẽ thỏa hiệp để tiếp tục duy trì cục diện chung với vai trò

chính của Mỹ trên quy mô toàn cầu.
Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta đã hội
nhập khá sâu với nền kinh tế toàn cầu, chính vì vậy, khủng hoảng kinh tế thế giới
cũng đã gây những ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến Việt Nam. Tác động của
cuộc khủng hoảng đối với Việt Nam, tuy có chậm hơn một số nước do một số lý do
nêu trên, nhưng cũng rất lớn và khá rộng, ảnh hưởng trước hết đến xuất khẩu,
thương mại, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct
Investment), viện trợ phát triển chính thức (ODA - Official development assistance),
vấn đề thất nghiệp...
Tóm lại, thương mại thế giới đã phải chịu những ảnh hưởng hết sức nặng nền
trước cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế thế giới có
thể sẽ phục hồi tuy nhiên thương mại thế giới nói chung và xuất khẩu của nước ta
nói riêng sẽ khó lấy lại được sự phát triền năng động như thời kì trước đó.
2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
2.1. Sự cần thiết phải lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trước bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến bất lợi như hiện nay, lợi thế so sánh
của các nước có những thay đổi cơ bản. Trên phạm vi toàn cầu, lợi thế phát triển
chủ yếu của thế giới là trí tuệ và hàm lượng công nghệ cao chứ không phải là lao

8


động rẻ, tài nguyên phong phú và nguồn vốn dồi dào. Điều này đặt ra sự phân chia
các nhóm nước và khẳng định vai trò của từng nhóm nước với những lợi thế so sánh
tương ứng để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Bằng lợi thế bên
trong của mình về thị trường, lao động tài nguyên, các nước đang phát triển vẫn có
thể tham gia vào nấc thấp hơn của sự chuyển dịch cơ cấu toàn cầu. Tuy nhiên để có
thể tận dụng được tối đa những lợi thế đó, các nước cần xác định một cơ chế xuất
khẩu phù hợp dựa trên tiềm năng, nội lực của mình. Các nước sẽ tạo ra được hiệu
quả xuất khẩu như mong muốn, khai thác tối đa tiềm năng khi nước đó tạo được cơ

cấu sản phẩm xuất khẩu tối ưu, một hệ thống thị trường xuất khẩu đảm bảo khả
năng phát triển dài hạn.
Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nền kinh tế mới cho thấy, những thành tựu
kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng trong thời kỳ công nghiệp hoá có sự
đóng góp quan trọng của chính sách lựa chọn sản phẩm chủ lực và thị trường ưu
tiên. Nhờ chính sách này mà các nguồn tài nguyên, vật lực đã được tập trung cao
cho các sản phẩm có lợi thế so sánh, phát triển sản xuất các sản phẩm có ưu thế về
quy mô, khai thác được tiềm năng tăng trưởng cao và hiệu quả.
2.2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trong bối cảnh biến động nền kinh tế thế giới như vậy, các nước đang trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không còn con đường nào khác
là phải lựa chọn chiến lược xuất khẩu phù hợp. Điều đó có nghĩa là, cần xác định
sản phẩm và thị trường xuất khẩu sao cho có thể phát huy tối đa lợi thế của mình.
Thực chất của chiến lược này là phát huy lợi thế của sản xuất trong nước, đặt nền
kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Để
đẩy nhanh phát triển ngoại thương, chúng ta cần phải thực hiện phương châm đa
dạng hóa sản phẩm và đa phương hóa thị trường, đi cùng với việc đó là phát triển
sản phẩm chủ lực và thị trường trọng điểm. Chính vì vậy, vấn đề lựa chọn sản phẩm
và thị trường xuất khẩu được coi là vấn đề cốt lõi. Lựa chọn đúng sản phẩm và thị
trường xuất khẩu nhằm mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng lợi thế
cạnh tranh trong xuất khẩu và thu được hiệu quả cao, từ đó thúc đẩy ngoại thương
phát triển, góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.

9


Cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu đã luôn được
thừa nhận là hoạt động rất cơ bản và hết sức quan trọng, là phương tiện thúc đẩy
nền kinh tế quốc gia phát triển nói chung, phương tiện chính để tăng thu nhập ngoại
tệ cho tài chính và nhu cầu nhập khẩu hàng hóa thiết bị phục vụ sản xuất tiêu dùng

nói riêng, góp phần thanh toán dần nợ nước ngoài. Việc lựa chọn sản phẩm xuất
khẩu phù hợp sẽ tạo ra các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia. Đó sẽ là nguồn quan
trọng sẽ thúc đẩy sự gia tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó. Chính vì
vậy, đất nước nào có một cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp nhất với năng lực sản
xuất và xu thế phát triển trong từng giai đoạn thì hoạt động xuất khẩu của nước đó
sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao, có nghĩa là thu được nhiều ngoại tệ, tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu và từ đó dẫn tới góp phần làm tăng ngân sách và cũng tạo điều
kiện cải thiện đáng kể cán cân thương mại.
Sản phẩm phù hợp sẽ không thể mang lại hiệu quả kinh tế cao nếu như không
có thị trường phù hợp với sản phẩm đó. Chính vì vậy, song song với việc lựa chọn
sản phẩm, lựa chọn thị trường xuất khẩu cũng vô cùng quan trọng trong chính sách
ngoại thương của một nước. Nền kinh tế thế giới phát triển, ngoại thương không còn
mang ý nghĩa đơn thuần là các hoạt động mua bán thông qua xuất nhập khẩu hàng
hóa dịch vụ nữa mà còn là sự phụ thuộc tất yếu lẫn nhau giữa các nước trong phân
công lao động quốc tế. Chiến lược về điều tra nghiên cứu thị trường để đưa ra các
quyết định lựa chọn thị trường cho sản phẩm của một công ty hay một quốc gia
được coi là chính sách đầu tiên và quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định trong
chính sách ngoại thương.
Thị trường là một hiện tượng động, nhất là thị trường quốc tế. Nó luôn vận
động và biến đổi theo quy luật riêng dưới sự tác động của các nhân tố như môi
trường kinh tế quốc tế, thời gian, tình hình kinh tế - xã hội của từng quốc gia, của
khu vực cũng như của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì lẽ đó, việc điều tra nghiên cứu
để lựa chọn thị trường cho hoạt động xuất khẩu của một nước là hết sức khó khăn
và phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như môi trường kinh tế

10


vĩ mô, môi trường luật pháp, văn hóa, chính trị - xã hội và quan trọng hơn là việc

xem xét, phân tích, đánh giá cơ cấu tiêu dùng của một quốc gia để xác định thị
trường có tiềm năng hay không. Các quốc gia khác nhau lại có cơ cấu tiêu dùng
khác nhau. Các nước giàu thường nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất, trong khi các
nước nghèo lại chú trọng vào nhập khẩu hàng tiêu dùng. Trong giai đoạn chuyển
tiếp giữa thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu, điều tra lựa chọn thị
trường một cách hợp lý có tính chất quyết định trong việc đảm bảo mục tiêu phát
triển sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế trong
điều kiện tiềm lực còn yếu kém ở các nước phát triển. Trong thời kì này, về căn bản
các nước đang phát triển thường lựa chọn thị trường có dung lượng lớn, sức tiêu thụ
cao, nhằm tranh thủ các lợi thế cạnh tranh về chi phí nguyên vật liệu và công lao
động rẻ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao ở rất nhiều nước trong vài thập kỉ
qua kể từ khi thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, một phần là nhờ vào yếu tố
biết phân tích và lựa chọn hợp lý này.
Vào những năm 60, chiến lược của Nhật Bản trong thời kì này là mở rộng xuất
khẩu sang các thị trường Châu Á nhằm độc chiếm các thị trường này. Chính chiến
lược thị trường hợp lý đó cùng việc thi hành các chính sách ngoại thương khác đã
tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu. Kể từ cuối những năm 70 trở đi, các sản phẩm của
Nhật Bản không còn phụ thuộc phần lớn vào các thị trường Châu Á nữa do các thị
trường này chỉ chấp nhận những sản phẩm chế tạo có hàm lượng giá trị không cao.
Chính vì lý do đó, cộng với sự cạnh tranh về thị trường của các quốc gia đang phát
triển ngày càng gia tăng, chiến lược lựa chọn thị trường của Nhật Bản đã chuyển
sang các nước phát triển đặc biệt là Mỹ và Tây Âu. Với sự lựa chọn thị trường và
sản phẩm cho thị trường đó hợp lý, Nhật Bản đã tạo ra những ảnh hưởng có tính
chất quyết định đối với sản xuất trong nước cũng như chiến lược đầu tư ra nước
ngoài. (Nguyễn Trần Quế, 1998).
Thị trường thế giới luôn là yếu tố động và hết sức nhạy cảm. Chính nó sẽ quyết
định chính sách sản phẩm. Chiến lược thị trường và sản phẩm hợp lý chính là điều
kiện tiên quyết để có được một chính sách ngoại thương hiệu quả trong xu hướng
mở cửa nền kinh tế trên toàn cầu.


11


II. Cơ sở cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Sự lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu dựa trên nhiều yếu tố và điều
kiện khác nhau. Sự lựa chọn đó hình thành chiến lược quốc gia cũng như của các
doanh nghiệp về sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Đối với các nền kinh tế đang
phát triển cơ sở chủ yếu để họ có thể lựa chọn sản phẩm xuất khẩu chính là lợi thế
cạnh tranh có thể tạo ra được trên cơ sở điều kiện nguồn lực quốc gia trong từng
giai đoạn phát triển, nhu cầu và xu hướng biến đổi nhu cầu trên thị trường thế giới.
Trong đó lợi thế cạnh tranh không chỉ đơn thuần dựa vào các nguồn lực quốc gia
sẵn có mà còn phải chủ động tạo ra, muốn như vậy thì phải có những định hướng và
đầu tư dài hạn.
1. Lợi thế cạnh tranh
Đây chính là yếu tố tổng hợp nhất có tính quyết định ảnh hưởng đến chính sách
lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Cần phải sử dụng lợi thế này để tạo ra
các sản phẩm đồng thời tìm kiếm các thị trường xuất khẩu sao cho đạt hiệu quả kinh
tế cao nhất.
Lợi thế cạnh tranh được đánh giá trên ba cấp độ: Lợi thế cạnh tranh quốc gia,
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh của ngành, sản phẩm.
Trong đó, lợi thế cạnh tranh quốc gia được xem là yếu tố bao trùm lên tất cả.
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia được Michael Porter nghiên cứu và
đưa ra vào những năm 1990. Mục đích của lý thuyết này là giải thích tại sao một số
quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói
cách khác đi tại sao những quốc gia có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Lý
thuyết này được xây dựng trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một
ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của
ngành đó. Điều này được khái quát cho một thực thể lớn hơn – một quốc gia.

12



Hình 1: Mô hình khối kim cương của M.Porter

Chính phủ

Chiến lược, cơ cấu và môi trường
cạnh tranh ngành

Điều kiện các yếu tố
sản xuất

Điều kiện về cầu

Các ngành hỗ trợ và có
liên quan

Cơ hội

(Giáo trình Kinh tế Ngoại Thương, 2006)
Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4
nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành một mô hình kim cương. Các
yếu tố đó bao gồm:
- Điều kiện các yếu tố sản xuất
- Điều kiện về cầu
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan
- Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành
Bốn yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh
tranh quốc gia. Ngoài ra còn có hai yếu tố khác là chính sách của Chính phủ và cơ
hội. Đây là hai yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.

Dựa trên việc phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương
của M.Porter, cơ sở để lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của một quốc gia
sẽ dựa trên lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó, được thế hiện ở các yếu tố sau:
1.1. Nguồn lực đầu vào
Lợi thế cạnh tranh quốc gia thể hiện ở điều kiện các yếu tố sản xuất chính là
nguồn lực đầu vào. Đây là ưu thế giữa các quốc gia về lao động, vốn, tài nguyên
thiên nhiên, đất đai và công nghệ. Các quốc gia tận dụng ưu thế này để tạo ra sản

13


phẩm có chi phí thấp. Một nước đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định
hướng sản xuất ra các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (thí dụ như sự lựa chọn của
các nước Đông Á trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hóa là khai thác tài
nguyên và phát triển các mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu).
Tuy nhiên, lợi thế cạnh tranh của bất kì nước nào cũng chỉ có tính chất tương
đối, luôn luôn trong quá trình biến động và phát triển. Vì vậy cơ cấu xuất khẩu theo
mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao
như sản phẩm dệt may, da giày…sang các sản phẩm nhiều lao động có tay nghề cao
như ngành hóa chất, điện tử, sắt thép…và cuối cùng chuyển sang các sản phẩm cần
nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa…Nguồn lực đầu vào
là một cơ sở vững chắc giúp các nước này xây dựng cơ cấu xuất khẩu phù hợp nhất
với thực lực của mình, bởi rõ ràng là các nước dù muốn phát triển đến đâu cũng
không thể không tính đến thực lực của mình. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học kĩ thuật và công nghệ, các nước cần phải chuẩn bị cho mình
một hướng đi thích hợp để một mặt vẫn tranh thủ được những tiến bộ khoa học kĩ
thuật, những cơ hội giành cho nước đi sau, mặt khác vẫn có thể khai thác được tối
đa lợi thế của mình, trên cơ sở đó đi xây dựng một cơ cấu xuất khẩu hoàn thiện,
đem lại lợi ích tối đa cho sự phát triển kinh tế trong môi trường kinh tế toàn cầu

cạnh tranh.
1.2. Điều kiện nhu cầu trong nước
Như trên đã nói, lợi thế cạnh tranh của quốc gia là yếu tố bao trùm lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ
làm nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Nhu cầu trong nước chính là yếu tố ảnh
hưởng đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Bản chất của nhu cầu trong nước sẽ
xác định cách thức doanh nghiệp nhận thức, lý giải và phản ứng trước nhu cầu của
người mua. Người mua đòi hỏi cao sẽ tạo áp lực giúp doanh nghiệp đáp ứng được
tiêu chuẩn cao về chất lượng, đặc tính kĩ thuật và dịch vụ, từ đó nâng cao lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp. Không những thế, nhu cầu trong nước tăng nghĩa là

14


quy mô thị trường được mở rộng, điều này sẽ có tác dụng tạo ra lợi thế cạnh tranh
trong những ngành có hiệu quả kinh tế nhờ quy mô. Như vậy có thể nói sự gia tăng
nhu cầu trong nước không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn cả
cho sản phẩm và ngành, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia, là cơ sở để lựa
chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
1.3. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Đối với mỗi doanh nghiệp, các ngành sản xuất hỗ trợ là những ngành sản xuất
cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi
quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành hỗ trợ và nhiều ngành liên quan sẽ
tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, cung cấp trong thời gian ngắn với chi
phí thấp, duy trì quan hệ hợp tác liên tục, giúp doanh nghiệp nhận thức được các
phương pháp và cơ hội mới để áp dụng công nghệ mới...Như vậy các ngành công
nghiệp hỗ trợ và liên quan cũng tác động đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp,
và từ đó cũng tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể xây dựng mặt hàng và tìm kiếm thị
trường xuất khẩu.
1.4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh (Cạnh tranh giữa các doanh

nghiệp)
Việc đưa ra chiến lược, cơ cấu để cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉ
nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đó mà còn tạo ra lợi thế cạnh
tranh về ngành, từ đó tạo nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia.
Những khác biệt về trình độ quản lý và kĩ năng tổ chức như trình độ học vấn
và hướng đích của cán bộ quản lý, sức mạnh động cơ cá nhân, các công cụ ra quyết
định, quan hệ với khách hàng, thái độ đối với hoạt động quốc tế...sẽ tạo ra lợi thế
hoặc bất lợi thế cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
sẽ tạo ra sức ép phải cải tiến đổi mới đối với các đối thủ cạnh tranh từ đó sẽ tạo ra
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cũng là để doanh nghiệp chuẩn bị tốt
khi phải chịu áp lực cạnh tranh nước ngoài.
Bên cạnh đó, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp còn tạo ra sức ép làm thay đổi
cách thức cải tiến lợi thế cạnh tranh: lợi thế cạnh tranh dựa nhiều hơn vào tính chất

15


độc đáo của sản phẩm và hàm lượng công nghệ hơn là lợi thế về tài nguyên và chi
phí lao động. Như vậy, toàn bộ ngành sẽ tiến bộ nhanh hơn, những ý tưởng mới
được phổ biến và ứng dụng nhanh hơn, điều đó sẽ tạo ra sức cạnh tranh cho ngành
và sản phẩm.
Như vậy, chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh cũng có tác động không nhỏ
đến lợi thế cạnh tranh quốc gia, để từ đó có thể tạo cơ sở lựa chọn sản phẩm và thị
trường xuất khẩu.
1.5. Cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của Nhà nước
Trong xu thế tự do hóa thương mại và khu vực hóa nền kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ như hiện nay thì cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của nhà nước là
một yếu tố vô cùng quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến việc lựa chọn sản phẩm và
thị trường xuất khẩu.
Nhà nước có tác động rất lớn đến lợi thế cạnh tranh quốc gia thông qua việc

tác động tới 4 nhóm yếu tố trên và đồng thời cũng trực tiếp định hướng cho việc lựa
chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
Trước hết, Nhà nước thể hiện vai trò điều hành của mình nhằm tác động đến
các nhân tố tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia dựa trên các mặt sau:
- Thứ nhất là định hướng phát triển thông qua chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế.
- Thứ hai là tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt
động và cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ ba là điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng thông
qua các công cụ ngân sách, thuế khóa, tín dụng…
- Thứ tư là kiếm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và chính sách
đề ra.
Mặt khác, Nhà nước cũng là cơ quan trực tiếp định hướng cho việc lựa chọn
sản phẩm và thị trường xuất khẩu thông qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài
và chiến lược phát triển kinh tế của các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý để
định hướng các sản phẩm và thị trường xuất khẩu phù hợp với nguồn lực của đất

16


nước trong giai đoạn phát triển và bối cảnh quốc tế, đồng thời xây dựng các hệ
thống chính sách, biện pháp phục vụ sản phẩm xuất khẩu và mở rộng thị trường
ngoài nước.
Đến lượt mình, các doanh nghiệp sẽ thực hiện cụ thể và chi tiết, hiện thực hóa
sự lựa chọn sản phẩm và thị trường. Sự ganh đua, cạnh tranh, tìm tòi, sáng tạo để
phát triển và thâm nhập thị trường sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty và nâng cao
năng lực xuất khẩu của đất nước.
Tuy nhiên, sự định hướng của chính phủ chỉ mang tính hướng dẫn, vạch đường
chỉ lối, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh chứ không
mang tính bắt buộc, mệnh lệnh. Sản xuất cái gì, cho ai và số lượng bao nhiêu là

những vấn để của doanh nghiệp. Định hướng của nhà nước là chỉ để giúp đỡ, hỗ trợ
doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề đó.
1.6. Cơ hội
Cơ hội cũng được xem là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đặc biệt
đến lợi thế cạnh tranh cũng như việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của
doanh nghiệp. Cơ hội có thể là sự thay đổi bất ngờ về công nghệ (như công nghệ
sinh học, công nghệ vi điện tử); thay đổi về tỷ giá hối đoái; tăng mạnh cầu thế giới
hay khu vực; quyết định chính trị của các Chính phủ nước ngoài; tham gia vào các
tổ chức kinh tế quốc tế lớn như WTO, kí kết các hiệp định song phương và đa
phương khác…
Các cơ hội rất quan trọng bởi lẽ chúng tạo ra sự thay đổi bất ngờ cho phép dịch
chuyển vị thế cạnh tranh. Chúng có thể tạo ra tiềm năng để các doanh nghiệp có thể
khai thác để có được những lợi thế đáp ứng những điều kiện mới và khác biết. Cần
tận dụng mọi cơ hội để để có thể hoạch định những chính sách sản phẩm và thị
trường xuất khẩu thích hợp.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia cũng như lợi cạnh tranh của doanh nghiệp và sản
phẩm, dịch vụ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạch định các chính sách về sản phẩm và
thị trường xuất khẩu. Cần tập trung vào việc tạo ra, duy trì, phát triển lợi thế cạnh
tranh phù hợp với đặc điểm riêng, trình độ phát triển của thị trường và trình độ của

17


nền kinh tế, của từng ngành kinh tế đồng thời thích ứng với từng giai đoạn phát
triển của đất nước.
2. Nhu cầu trên thị trường thế giới
Bên cạnh lợi thế cạnh tranh, yếu tố chi phối và cũng có tính quyết định đối với
việc lựa chọn sản phẩm xuất khẩu đó là yếu tố thị trường, bởi vì hàng hóa và thị
trường là hai yếu tố cơ bản không thể tách rời nhau, và như Mác nói: “ Cuối cùng
thì nhu cầu của tiêu dùng quyết định sản xuất” (C.Mác và Ph.Angghen toàn tập,

1993). Không hiểu được nhu cầu của thị trường thế giới, của từng nước, của từng
khu vực cũng như không hiểu được khả năng cung cầu của họ về từng loại hàng hóa
thì không thể có phương hướng đúng đắn về chiến lược xuất khẩu nói chung và sản
phẩm xuất khẩu nói riêng. Các nước không thể không tính đến nhu cầu của thị
trường khi xây dựng cơ cấu xuất khẩu dựa trên lợi thế so sánh của mình. Thị trường
là một yếu tố động, nếu một nước không nắm bắt được những thay đổi đó của thị
trường thì sẽ chỉ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đã bão hòa, những mặt hàng
lỗi thời không còn được ưa chuộng trên thì trường, và tất nhiên, không còn phù hợp
với nhu cầu hiện tại thì thất bại là một yếu tố khó có thể tránh khỏi. Chính nhu cầu
thị trường mới có tính chất quyết định đến quy mô sản xuất, cơ cấu sản xuất hay nói
khác đi, cầu về sản phẩm đó trên thị trường mới giúp doanh nghiệp trả lời các vấn
đề cơ bản: sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào?
Thế nhưng, việc nắm chắc được nhu cầu của thị trường về sản phẩm là một
điều không đơn giản, đặc biệt với các nước đang phát triển. Hiện nay, để có được
thông tin về thị trường thế giới, về nhu cầu cụ thể về một sản phẩm nào đó vẫn là
một thách thức đối với các nước này. Vấn đề đặt ra đó là làm sao để các nước đang
phát triển này đó là làm thế nào để có thể bám sát được thị trường thế giới, nắm bắt
được những thay đổi cũng như những xu hướng thay đổi của thị trường để từ đó có
những định hướng phù hợp mang lại hiệu quả cao.

III. Các chính sách lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trong quá trình công nghiệp hóa ở các nước, việc đổi mới cơ cấu ngoại thương
được thực hiện thông qua chính sách “đa dạng hóa ngoại thương”. Nội dung chủ

18


yếu của chính sách này là mở rộng diện mặt hàng và thị trường trên cơ sở tập trung
ưu tiên có trọng điểm một số mặt hàng và một số thị trường chủ lực. Chính sách đa
dạng hóa ngoại thương được triển khai trên hai hướng là đa dạng hóa sản phẩm và

đa dạng hóa thị trường.
1. Chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu
1.1. Chính sách vĩ mô
1.1.1. Đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu
Đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu được thực hiện theo hướng củng cố và phát
triển từ các ngành truyền thống. Sự thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu gắn liền với
sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh
tế công nghiệp. Thời kì đầu những năm 50 và 60, khi nông nghiệp còn chiếm vị trí
chủ đạo trong nền kinh tế, các cơ sở còn yếu kém, kĩ thuật lạc hậu thì sản phẩm thô
và sơ chế chiếm gần như toàn bộ hàng xuất khẩu của các nước này. Đến những năm
70, với sự phát triển tương đối khá của công nghiệp chế biến và chế tạo, trong cơ
cấu xuất khẩu của các nước, sản phẩm thô và sơ chế dần nhường chỗ cho sự tăng
lên của các sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo như hàng dệt may, máy móc,
thiết bị vận tải và các sản phẩm chế tạo khác. Từ những năm 80 đến nay, nhiều nước
đang phát triển ở Châu Á đã đạt được một trình độ phát triển công nghiệp khá cao
như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore được xếp vào hàng các nước công
nghiệp mới (NICs). Các nước này ngày càng coi trọng khả năng xuất khẩu máy
móc, thiết bị công nghiệp đặc biệt là thiết bị điện tử. (Nguyễn Trần Quế, 1998).
Cơ cấu xuất khẩu của hầu hết các nước đó đã và đang thay đổi theo hướng giảm
dần xuất khẩu thuần túy các loại tài nguyên thiên nhiên thô, sơ khai sang tăng dần xuất
khẩu các hàng hóa có hàm lượng tài nguyên cao kết hợp hàm lượng lao động cao như
các sản phẩm chế biến, gia công, lắp ráp, và khi nền công nghiệp đạt được một trình độ
phát triển khá, họ tiến tới tăng dần sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kĩ
thuật cao như máy móc, thiết bị và các sản phẩm kĩ thuật tinh vi, hiện đại.

Tóm lại, có thể khẳng định đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu là xu thế phổ biến
và tất yếu của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.

19



1.1.2. Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Trước hết, Mặt hàng xuất khẩu chủ lực được hiểu là những hàng hóa có điều
kiện sản xuất ở trong nước với hiệu quả kinh tế cao hơn những hàng hóa khác, có
thị trường tiêu thụ tương đối ổn định, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của một quốc gia (Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, 2006).
Một yếu tố then chốt của đa dạng hóa hàng hóa xuất khẩu là ưu tiên phát triển
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Điều này không có gì mâu thuẫn với xu hướng mở
rộng diện mặt hàng, mà ngược lại chính trên cơ sở mở rộng diện mặt hàng, việc lựa
chọn và phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực càng được thực hiện tốt hơn. Sự đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu chủ lực có thể góp phần khắc phục một số bất lợi
trong lĩnh vực xuất khẩu của các nước đang phát triển, đó là:
- Đối với những nước thu nhập từ xuất khẩu dựa gần như toàn bộ vào một
hoặc hai mặt hàng, thì việc tăng thêm số lượng mặt hàng chủ lực có thể giúp những
nước đó tránh được những thiệt hại to lớn do những biến động cung cầu, giá cả bất
lợi trên thị trường thế giới có thể xảy ra cho hàng hóa đó.
- Đối với những nước hàng hóa xuất khẩu ở vào tình trạng phân tán, manh
mún chưa có hàng chủ lực, thì việc tập trung ưu tiên xây dựng và phát triển một số
mặt hàng chủ lực là tất yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực góp một phần vô
cùng quan trọng trong việc phát triển xuất khẩu cũng như đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế cho các nước đó. Đó là một nhu cầu bức thiết vừa cho trước mắt, vừa
cho lâu dài.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: vậy mỗi nước cần bao nhiêu mặt hàng xuất khẩu
chủ lực? Kinh nghiệm của các nước đang phát triển Châu Á trong mấy năm gần đây
cho thấy, mỗi nước nên tập trung ưu tiên cao cho việc phát triển từ 5 đến 10 mặt
hàng xuất khẩu chủ lực. Số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực tuy không nhiều, thế
nhưng khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn. Điều này có ý nghĩa chiến lược lâu dài
và quyết định đối với sự thành bại của hoạt động xuất khẩu của một số nước. Số
lượng từ 5 đến 10 mặt hàng như vậy cho phép khắc phục tình trạng thị trường bất
lợi cho mặt hàng này hay cho mặt hàng kia, không những thế, khi điều kiện thuận


20


lợi có thể lựa chọn một vài trong số mặt hàng đó để tập trung phát triển quy mô lớn,
kịp thời chớp lấy những thời cơ tốt của thị trường thế giới.
1.2. Chính sách vi mô
1.2.1. Chính sách mở rộng trực tiếp
Chính sách mở rộng trực tiếp là việc giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp tới
một thị trường nước ngoài mà không cần bất kì sự thay đổi nào của sản phẩm đó
(Lê Thanh Hà, Nguyễn Trung Tính, 2005).
Thực chất đây là chiến lược dựa trên quan điểm toàn cầu hóa sản phẩm. Trong
trường hợp này, chủ trương của doanh nghiệp là giữ nguyên sản phẩm như nó được
bán trên thị trường nội địa, đồng thời tìm kiếm khách hàng nước ngoài quan tâm.
Chính sách này tuy tiết kiệm được chi phí nhưng chỉ thích hợp với một số sản phẩm
nhất định như nguyên liệu thô, nguyên liệu chế biến dùng trong sản xuất công
nghiệp có khả năng toàn cầu hóa cao đối với các thị trường khác hoặc khi trên thị
trường nước ngoài có những phần thị trường tương tự như thị trường nội địa.
1.2.2. Chính sách thích nghi sản phẩm
Chính sách thích nghi sản phẩm là việc thay đổi sản phẩm nhằm thỏa mãn yêu
cầu và thị hiếu của thị trường nước ngoài. Sự thích nghi này được tiến hành từng
phần hoặc toàn bộ đối với thành phần chất lượng của sản phẩm (thay đổi tính năng
kĩ thuật, tạo ra những công dụng mới cho sản phẩm, thay đổi bao bì sản phẩm, cải
tiến các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm…) (Lê Thanh Hà, Nguyễn Trung Tính, 2005).
Để thực hiện được chính sách này, doanh nghiệp cần tiến hành các bước:
- Nghiên cứu chu kì sống quốc tế của sản phẩm: nói đến chu kì sống của sản
phẩm thì phải gắn sản phẩm đó với một thị trường nhất định. Khi xác định khả năng
tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải biết được sản phẩm của mình đang ở gia đoạn
nào thuộc chu kì sống của nó trên thị trường nghiên cứu. Việc nghiên cứu và phân
tích chu kì sống của một sản phẩm trên thị trường nước ngoài nhằm xác định chính

sách marketing thích hợp cho từng giai đoạn của chu kì sống, kéo dài thời gian cho
những giai đoạn có tỷ suất lợi nhuận cao và rút ngắn những giai đoạn thua lỗ.
- Tạo ra những công dụng mới cho sản phẩm: mục đích của chính sách này là
làm cho sản phẩm thích ứng với thị trường nước ngoài và kéo dài chu kì sống

21


của nó. Đây là vấn đề hết sức khó khăn vì ở mỗi thị trường lại có thị hiếu tiêu dùng
khác nhau. Cần tập trung và thiết kế nhãn mác hàng hóa để tiêu chuẩn hóa kĩ thuật
sản phẩm.
Ý định về một sản phẩm mới cần xuất phát từ giác độ của cả người tiêu dùng.
Đối với người tiêu dùng thì việc sản phẩm đó có đáp ứng yêu cầu của họ không, có
rẻ hơn không, có dễ sử dụng hơn không, chất lượng có tốt hơn không là những điều
mà họ quan tâm. Còn về phía doanh nghiệp vấn đề được đưa ra là sản phẩm sẽ
mang về bao nhiêu lợi nhuận, lượng bán và doanh số có đảm bảo không, khả năng
tài chính có đủ không, có phải đầu tư thêm phương tiện sản xuất mới không, có phải
thiết kế các kênh phân phối mới không. Trước khi tung sản phẩm mới ra thị trường
cần nghiên cứu kĩ các thông tin trên thị trường và khi giới thiệu sản phẩm mới ra thị
trường cần phải dựa và các chính sách chung về marketing.
1.2.3. Chính sách chủng loại sản phẩm
Chính sách chủng loại sản phẩm là một bộ phận chính sách quốc tế chung về
sản phẩm. Nó liên quan đến các tuyến sản phẩm mà doanh nghiệp định đưa ra bán
tại thị trường nước ngoài. Chính sách chủng loại sản phẩm bị chi phối bởi các yếu
tố trên thị trường nước ngoài cũng như năng lực tài chính và sản xuất của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu của mình trong việc mở rộng ra thị
trường nước ngoài là tăng lợi nhuận, doanh số hay mở rộng thị phần, là việc hạn
chế rủi ro hay tận dụng năng lực sản xuất thừa, cần xác định rõ tuyến sản phẩm hiện
tại đã tận dụng hết các nguồn lực của mình hay chưa.
Các nhân tố ngoại sinh ảnh hưởng tới quyết định chính sách sản phẩm của doanh

nghiệp là: sự khác biệt về đặc điểm nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng tại thị
trường khác nhau; các giá trị văn hoá và xã hội ảnh hưởng lớn đến hành vi và những
định kiến của người tiêu dùng về sản phẩm; các yếu tố cạnh tranh trên thị trường như
loại sản phẩm và khả năng cạnh tranh của chúng, mức độ thoã mãn nhu cầu thị trường
của các sản phẩm cạnh tranh đó; mức độ cạnh tranh lớn và chi phí thâm nhập thị trường
cao thì doanh nghiệp có thể phải bằng lòng với tuyến sản phẩm hẹp phục vụ cho những
phần thị trường chọn lọc; hệ thống phân phối đang tồn tại

22


trên thị trường; các quy định về sản phẩm và bao gói, quy định về nhập khẩu, các
điều kiện về tự nhiên, khí hậu, địa lý, trình độ phát triển kinh tế của thị trường đó.
2. Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu
2.1. Chính sách vĩ mô
Lựa chọn một cách hợp lý, đề xuất và thực thi chiến lược thị trường xuất khẩu
đúng đắn là một trong những khâu quan trọng làm tăng mức xuất khẩu của các
nước. Ở hầu hết các quốc gia, quá trình đẩy mạnh xuất khẩu trên thực tế là quá trình
khai thác thị trường theo hai hướng: tìm kiếm thị trường mới và tăng mức xuất khẩu
trên các thị trường hiện có. Có nghĩa là các quốc gia đều cố gắng tăng xuất khẩu
bằng mọi cách, tránh sự tập trung quá mức vào một thị trường nào đó, tức là phải đa
dạng hoá thị trường xuất khẩu để đảm bảo xuất khẩu tăng nhanh và ổn định.
Trong hoàn cảnh phát triển có nhiều bất lợi, diễn biến kinh tế thế giới biến
động các nước đang phát triển luôn phải thay đổi, điều chỉnh linh hoạt các chính
sách để có một chiến lược có hiệu quả. Các nước muốn đa dạng hoá thị trường xuất
khẩu cần tăng cường các hoạt động mở mang thị trường theo nhiều phương vị,
nhiều tầng nấc, nhiều phương thức mà trọng tâm là đa dạng hoá thị trường. Nếu các
nước không thể xây dựng cho mình một mạng lưới thị trường xuất khẩu thì thất bại
là điều chắc chắn. Tuy nhiên, bên cạnh đó các nước cần tập trung vào một số thị
trường trọng điểm mà mình có khả năng xuất khẩu để làm bàn đạp cho chiến lược

đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Do vậy, một chính sách đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá bạn hàng sẽ
giúp cho các nước cân bằng trong chiến lược hội nhập kinh tế thế giới, giảm được
tổn thất xảy ra khi có những biến động bất thường, góp phần ổn định nền kinh tế
trong nước cũng như nền kinh tế toàn cầu. Các nước cần tăng cường hợp tác chiều
sâu, giảm sự phụ thuộc vào từng nước riêng lẻ để phân tán các nhân tố rủi ro.
2.2. Chính sách vi mô
Song song với chiến lược, chính sách đa dạng hoá thị trường xuất khẩu các
nước cần xây dựng cho mình các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Chính những thị
trường này sẽ giúp các nước củng cố vị thế của mình nhanh chóng, đẩy mạnh được

23


xuất khẩu. Các nước chủ yếu nhằm vào các thị trường có dung lượng lớn, có khả
năng thanh toán cao, có nhu cầu đa dạng có như vậy như thị trường Mỹ, thị trường
EU, thị trường Nhật Bản... Khi thâm nhập vào các thị trường này, các nước sẽ gặp
phải các rào cản thuế quan và phi thuế quan, tuy nhiên với những chiến lược đã
hoạch định sẵn, các thị trường này sẽ đem lại cho các nước xuất khẩu sự tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu nhanh chóng. Các thị trường này thường là các thị
trường khó tính, đòi hỏi các tiêu chuẩn chất lượng cũng như kỹ thuật cao, do đó cần
có bước chuẩn bị tốt trước khi bắt đầu thâm nhập, sự thành công của lần thâm nhập
đầu tiên sẽ quyết định tất cả.
Các thị trường trọng điểm này sẽ là bước đệm vững chắc để thâm nhập vào thị
trường thế giới nếu được xác định thích hợp với khả năng cạnh tranh, khả năng
cung cấp. Thành công tại thị trường này sẽ tạo uy tín do đó các nước sẽ dễ dàng
thâm nhập vào các thị trường khác. Tuy nhiên đầu tư ban đầu cho các thị trường này
tương đối cao và đòi hỏi các nước xuất khẩu phải có chiến lược cụ thể, có sự nghiên
cứu sâu sát thị trường cần thâm nhập đó.


24


CHƯƠNG 2: THỰC TRANG VIỆC LỰA CHỌN SẢN PHẨM
VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
I. Cơ sở lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam
Khai thác một cách có hiệu quả những lợi thế của đất nước, cùng với chính sách
của Đảng và nhà nước, nhu cầu cũng như xu hướng chung của thị trường thế giới
chính là những cơ sở để Việt Nam có thể dựa vào đó xây dựng nên danh mục hàng hóa
xuất khẩu cũng như tìm kiếm các thị trường xuất khẩu nhằm đem lại hiệu quả kinh tế
cao nhất, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

Tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, vị trí địa lý thuận lợi trong giao
lưu quốc tế, nguồn lao động rẻ và dồi dào…chính là những lợi thế mà Việt Nam
hiện có.
Như vậy, so với các nước trong khu vực, Việt Nam có các lợi thế chủ yếu, đó
là điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực.
1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý: đất nước Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, thuộc Châu Á
– Thái Bình Dương, phía Tây gắn liền với lục địa Châu Á, phía Đông thông ra Thái
Bình Dương, được coi là khu vực “năng động” có vị trí chiến lược ngày càng quan
trọng về cả chính trị lẫn kinh tế. Việt Nam nằm trên con đường huyết mạch tuyến
đường giao lưu hàng hải từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc sang các nước Nam
Á, Trung Đông và Châu Phi. Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy sẽ tạo điều kiện cho
Việt Nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và giao lưu buôn bán với các
nước trong khối ASEAN và trong khu vực cũng như trên thế giới một cách dễ dàng,
đồng thời Mặt khác, đây cũng là tiền đề để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa
cũng như lựa chọn mặt hàng và thị trường sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Điều kiện khí hậu: khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm
mưa nhiều, là điều kiện rất thuận lợi cho việc sinh trưởng các loại thực vật, đồng

thời cũng là điều kiện tốt để tiến hành xen canh, gối vụ, tăng nhanh vòng quay
ruộng đất, tăng vụ, thâm canh tăng năng suất. Sự khác nhau về nhiệt độ giữa các

25


×