Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ 45 tuổi tại lớp nhỡ 2 trường mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.61 KB, 12 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến kinh nghiệm huyện Phú Ninh
Tên đề tài sáng kiến:
“ Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ 4-5 tuổi tại
lớp nhỡ 2 trường mẫu giáo Ánh Hồng”
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Từ ngày 09/2019
4. Mô tả bản chất của sáng kiến
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát
triển toàn diện cả năm lĩnh vực: thể chất, nhận thức, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ,
hình thành nhân cách con người là “Tiên học lễ, hậu học văn”. Bên cạnh đó,
những kỹ năng về giao tiếp xã hội cũng rất cần thiết đối với trẻ như những kỹ
năng chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi… và các tình huống trong giao tiếp. Giáo dục các
kỹ năng cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn là hành trang cần thiết, chuẩn bị cho trẻ
làm nền tảng để trẻ bước vào cuộc sống sau này. Ngày nay, trong điều kiện kinh
tế phát triển, đang trên con đường hội nhập, phải giao lưu với nhiều đất nước,
nhiều nền văn hóa khác nhau. Làm thế nào để mỗi con người Việt Nam chúng ta
vẫn giữ được những gì gọi là “Vốn văn hóa của dân tộc ” trong thời kỳ đổi mới,
thì việc giáo dục cho trẻ phát triển về trí tuệ cũng không đủ mà phải giáo dục cả
về nề nếp, kỹ năng giao tiếp ứng xử, và lễ giáo cho trẻ mầm non. Vì vậy, môi
trường giáo dục kĩ năng giao tiếp, ứng xử là mục tiêu hàng đầu trong hệ thống
giáo dục mà xã hội của chúng ta cần quan tâm và chịu trách nhiệm giáo dục trẻ
từ 0 – 6 tuổi, phải trang bị cho trẻ những điều tốt đẹp nhất kể cả về mặt vật chất
lẫn tinh thần một cách toàn diện cho trẻ. Mà giao tiếp là hiện tượng đặc thù của
con người. Giao tiếp là sự trao đổi thông tin về sự hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp
còn là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người trao đổi với nhau bằng


những phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Qua giao tiếp chúng ta có thể xác
định được nhu cầu, tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm. Từ đó tạo thành
các hình thức giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm, giưa
nhóm với cộng đồng. Vậy giáo dục kĩ năng giao tiếp ứng xử là gì? Là giáo dục
về phẩm chất đạo đức và tính cách, lối sống của trẻ, hình thành cho trẻ nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
1


Giáo dục kĩ năng giao tiếp, ứng xử được thực hiện ở đâu?
Theo tôi, phải giáo dục ở mọi lúc mọi nơi và trong các hoạt động giáo dục.
Thông qua đó những tính cách của trẻ được bộc lộ rõ, nhiều phẩm chất đạo đức
được hình thành và phát triển. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng giao tiếp, ứng xử
cho trẻ ở lứa tuổi mầm non đóng vai trò hết sức quan trọng, cần thiết và có ý
nghĩaTrường mẫu giáo Ánh Hồng, huyện Phú Ninh, phần lớn phụ huynh làm nghề
nông và làm công nhân tại các xí nghiệp. Với đặc thù công việc đi sớm về trễ,
không có nhiều thời gian để quan tâm đến con em mình. Nhiều trẻ khi đến
trường vẫn còn rụt rè, thụ động và ít giao tiếp với bạn bè và người lớn nên chưa
có thói quen nề nếp tốt. Một số trẻ còn khóc nhè khi đến lớp, chưa biết chào hỏi
cô giáo hay những người xung quanh, giao tiếp còn hạn hẹp, bên cạnh đó, một
số trẻ do được ông bà chăm tại nhà, bao bọc nên khi đến trường còn thiếu tập
trung thích làm theo ý của mình.
Qua quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục: Đặc biệt là phát triển ngôn
ngữ ngữ, tôi quan sát nhận thấy đa số trẻ trả lời chưa trọn câu, một số trẻ kĩ năng
giao tiếp giữa cô và trò, giữa bạn với bạn chưa mạch lạc, ứng xử chưa hòa đồng
với bạn…. , Qua khảo sát ban đầu.

TT

Nội dung


Tổng
số
trẻ
31

1
2
3
4

Trẻ trả lời chưa trọn câu
Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
Trẻ biết chưa hòa đồng với bạn trong lớp
Có chưa ý thức tự phục vụ bản thân và chào
hỏi khi có khách vào lớp

Kết quả khảo
sát đầu năm
SL
14/31
18/31
20/31
15/31

TL%
45,16
58,00
64,50
48,38


Từ kết quả khảo sát trên là một giáo viên chủ nhiệm tôi luôn bâng khuâng,
trăn trở. Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề tôi suy nghĩ làm thế nào để trẻ
lớp mình phát triển tốt về mọi mặt, nên năm học 2019 – 2020 này, tôi quyết định
chọn đề tài “Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi tại lớp nhỡ 2 trường mẫu giáo Ánh Hồng” để nghiên cứu giúp trẻ
lớp tôi phát triển một cách toàn diện
4.2. Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết
Môi trường giáo dục là nơi diễn ra các hoạt động giáo dục được giáo viên
2


tổ chức với dụng ý sư phạm và được tổ hợp những điều kiện vật chất và xã hội
cần thiết, trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Môi trường
giáo dục là các thiết bị là đồ dùng, đồ chơi, không gian phục vụ cho việc tổ chức
các hoạt động sinh hoạt hằng ngày của trẻ, môi trường vật chất tốt nhằm tạo cơ
hội cho trẻ thỏa mãn nhu cầu hoạt động và phát triển toàn diện các mặt thể chất,
ngôn ngữ, nhận thức, thẫm mỹ, tình cảm, kĩ năng xã hội. Môi trường xã hội đặc
biệt là mối quan hệ tương tác giữa giáo viên với trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với
những người xung quanh. Vậy môi trường giáo dục phải đảm bảo an toàn về tâm
lý cho trẻ và trẻ thường xuyên được giao tiếp ứng xử thể hiện mối quan hệ thân
thiện giữa trẻ với những người xung quanh. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của
giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo. Môi
trường vật chất trong, ngoài lớp đáp ứng nhu cầu hứng thú học, chơi của trẻ. Tạo
điều kiện cho tất cả trẻ có thể chơi mà học, học bằng chơi. Tóm lại môi trường
giáo dục là tạo điều kiện cho trẻ hoạt động trải nghiệm khám phá dưới nhiều
hình thức hợp tác tự lực, sáng tạo, tự tin, chia sẽ, năng động linh hoạt giúp trẻ
phát triển toàn diện
Để đạt được kết quả cao trong công tác rèn luyện trẻ ở trường tôi nghiên

cứu tìm ra các giải pháp đó là:
+ Phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử thông qua hoạt động giáo dục.
+ Tăng cường việc làm đồ dùng, đồ chơi.
+ Thông qua tổ chức các hoạt động ngày hội, ngày lễ trong năm.
+ Tuyên truyền, phối hợp cùng CMT.
4.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp
Tôi đã chuẩn bị tốt các điều kiện tại lớp mẫu giáo nhỡ 2 truòng mẫu giáo
Ánh Hồng:
Sử dụng đầy đủ trang thiết bị dạy học, các loại đồ dùng đồ chơi theo quy
định
Tạo ra môi trường lớp học thân thiện, tích cực
Tạo mối quan hệ tốt giữa cô và trẻ
Tạo mối quan hệ hợp tác, hòa đồng giữa trẻ với nhau
4.4. Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp
4.4.1. Giải pháp 1: Phát triển kỹ năng giao tiếp ứng xử qua các hoạt
động giáo dục.
* Thông qua hoạt động học:
Thông qua hoạt động học giúp trẻ giải quyết những khó khăn như trẻ chưa
tập trung chú ý, chưa biết cách thực hiện nhiệm vụ học tập. Trong hoạt động học
giúp trẻ lĩnh hội, chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm về sự hiểu biết, nhu cầu, tình
cảm bằng lời nói, thái độ, hành động của mình với cô, với bạn.
3


Ở lớp, tôi hướng dẫn trực tiếp để thực hiện hoạt động học thông qua việc
sử dụng từ ngữ trong sáng, gần gũi đặt câu hỏi gợi mở, dễ hiểu lôi cuốn sự chú ý
của trẻ vào nội dung học, khi trẻ trả lời đúng tôi dùng lời nói tuyên dương, khen
ngợi, để tỏ sự hài lòng tôn trọng trẻ và ngược lại khi trẻ trả lời chưa đúng, tôi
động viên, khích lệ trẻ; Ví dụ: Con nói đúng rồi, cô cảm ơn con; hoặc Con hơi

nhầm một chút, lần sau con cố gắng hơn nhé.
+ Tăng cường các hoạt động tương tác trong giao tiếp:
Luôn tích cực thay đổi ngữ điệu cho phù hợp với nội dung, hoàn cảnh
khi giao tiếp, tương tác với trẻ bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ và qua hình ảnh, sử
dụng đồ dùng học tập, đồ chơi làm phương tiện phát triển kĩ năng giao tiếp cho
trẻ. Làm mẫu hành động khi giao tiếp kèm theo lời nói để trẻ học theo; chào,
tạm biệt, đồng ý, từ chối, cảm ơn, xin lỗi…Dạy trẻ biết cách sử dụng các câu hỏi
và câu trả lời khi giao tiếp.
+ Dạy trẻ thể hiện hành động, cử chỉ, điệu bộ,…trong giao tiếp, ứng xử
Thông qua giờ hoạt động chiều, tôi thường cho trẻ xem video về một số
câu chuyện cổ tích thể hiện tình cảm yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ,… Ví dụ cho
trẻ xem câu chuyện “Ba cô gái”. Qua lời kể, trẻ nắm được cử chỉ, hành động, lời
nói, của từng nhân vật. Từ đó, giáo dục trẻ biết ứng xử và thể hiện tình cảm yêu
thương đối với những người trong gia đình, những người xung quanh.
+ Tạo môi trường lớp học thân thiện, tích cực
Trong lớp, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho trẻ giới thiệu về bản thân,
động viên trẻ chia sẽ với nhau về sở thích, mong muốn và tôi cũng nói cho trẻ
biết về mong muốn của tôi. Đây là hoạt động giúp cô và trẻ hiểu nhau hơn, đồng
thời tạo lớp học thân thiện, cũng là cơ hội để trẻ được nói nhiều hơn, nói những
điều trẻ thích, trẻ nghĩ và trẻ được rèn luyện tính mạnh dạn tự tin trong giao tiếp,
ứng xử. Trẻ thường hay bắt chước, hành động theo cô, vì vậy tôi luôn luôn
chuẩn mực những hành động, cử chỉ, lời nói, cách cư xử khéo léo. Như chủ đề:
“Trường mầm non” Tôi đã lựa chọn kỹ năng giao tiếp như: Chào hỏi, tạm biệt,
cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện, lắng
nghe ý kiến, chia sẻ thông tin, yêu thương và giúp đỡ các bạn trong lớp, cùng
bạn hoàn thành công việc.
Ví dụ: Trẻ đến lớp phải biết khoanh tay, đầu cúi xuống hướng về cô giáo
chào cô, cô nghiên người về phía trẻ khi đón trẻ , ánh mắt nhìn vào trẻ thân
thiện, gần gũi, sau đó hướng trẻ quay lại tạm biệt ba, mẹ vào lớp (hình ảnh 1)
Với chủ đề này ở đầu năm học, trẻ mới đến lớp nên việc giao tiếp, ứng

xử với bạn bè trong lớp trẻ còn nói tự do, làm theo ý thích của trẻ vì vậy tôi theo
giỏi rèn luyện giúp trẻ từng câu, từ nhằm giúp trẻ có ý thức trong việc giao tiếp,
ứng xử cùng bạn.Ví dụ: Trẻ đến lớp thường dùng từ “tau, mi” hay dành lấy đồ
4


chơi tự do. Tôi giáo dục trẻ cách giao tiếp xưng hô là “bạn”, hoặc xưng tên:
Như bạn Thảo cho Vy chơi đồ chơi với…
+ Chủ đề bản thân: Tôi lựa chọn kỹ năng ứng xử như: Biết giúp đỡ bạn,
giao lưu với bạn trong giờ chơi để biết một số thông tin về bạn và bản thân như,
tên, tuổi, sở thích và sử dụng lời nói rõ ràng, mạch lạc để bày tỏ cảm xúc, nhu
cầu của bản thân cùng với bạn. Khi tổ chức tiết học này, tôi yêu cầu từng trẻ tự
lên giới thiệu về tên, tuổi, giới tính, học lớp nào, trường nào, cô giáo nào, sở
thích của mình.Tôi nhận thấy, trẻ rất hào hứng lên giới thiệu. Những trẻ mạnh
dạn đã nói được đầy đủ những thông tin tôi đưa ra. Điều đáng mừng hơn là có
những trẻ rất nhút nhát, thiếu tự tin nhưng cũng vẫn có thể đứng dậy và giới
thiệu được một vài thông tin của mình. Điều đó chứng tỏ rằng, nếu như chúng
ta không gọi đến những trẻ nhút nhát thì có lẽ những trẻ đó sẽ chẳng bao giờ
dám làm một việc gì trước đám đông cả, và sẽ chẳng bao giờ trẻ tự tin lên
được.
+ Chủ đề gia đình: Tôi giáo dục trẻ những kỹ năng ứng xử phù hợp với
những người gần gũi xung quanh: Lễ phép với người lớn, quan tâm nhường
nhịn em nhỏ, giúp đỡ bố mẹ những việc làm vừa sức, biết trò chuyện lễ phép,
thân mật, chơi vui vẻ với bạn, nhận biết và thể hiện cảm xúc, chia sẻ đồng
cảm…Qua tiết về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ: Môn khám phá khoa học, đề tài
“Trái tim yêu thương” tôi cho trẻ xem một số hình ảnh như: Gia đình đang vui
vẻ dẫn nhau đi chơi và gia đình ba mẹ đang tranh cải. Hoặc một bức tranh các
bạn đang chơi cùng nhau, một bức tranh bạn đang tranh dành đồ chơi với nhau
tôi yêu cầu trẻ nói lên cảm nghỉ của mình giữa các bức tranh. Từ cảm nghỉ của
trẻ giáo dục cho trẻ đối với người trong gia đình phải yêu thương, nhường nhịn,

nói năng nhẹ nhàng…, còn đối với bạn bạn bè trong lớp biết giúp đỡ, chia sẽ….
+ Ở chủ đề: “Nghề nghiệp” Thông qua chủ đề này tôi giúp trẻ biết được
công việc của những người thân trong gia đình, nhằm giúp trẻ hiểu ý nghĩa của
các nghề từ đó trẻ biết tuân thủ sự phân công, phối hợp với bạn bè để hoàn
thành công việc chung, khả năng sáng tạo, diễn tả ý tưởng, kỹ năng xử lý tình
huống nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
*Thông qua hoạt động vui chơi
Qua hoạt động vui chơi: những giờ chơi ở các hoạt động ngoài trời, hoạt
động góc, hoạt động chiều… tôi cho trẻ tự thực hiện những yêu cầu của cô và xử
lý tình huống đã xảy ra cùng cô.
+ Hoạt động ngoài trời
Tổ chức cho trẻ giao tiếp trong các cuộc tham quan (Công viên, thư viện
sách, vườn rau…) Ví dụ: Ở hoạt động ngoài trời đi thăm vườn rau của bé, bằng
việc tưới nước, nhổ cỏ cho rau trẻ biết yêu quý các cô chú đã trồng rau, ăn nhiều
canh rau để tốt cho sức khỏe, muốn có rau sạch để ăn thì chúng ta phải trồng
5


rau, tưới nước và chăm bón cho rau. Giờ hoạt động ngoài trời, dạo chơi sân
trường, tôi đều quan tâm nhắc nhở trẻ luôn có những ý thức và hành động tốt
như biết đoàn kết vui chơi cùng bạn, khi làm việc gì sai với bạn, với cô thì phải
biết xin lỗi, biết nhường nhịn bạn trong khi chơi, đoàn kết với bạn, biết giữ vệ
sinh môi trường, thân thể sạch sẽ... (Hình ảnh 4)
Ví dụ: Trẻ đang chơi trò chơi xích đu thì có một bạn đến dành chỗ ngồi
của bạn và xô bạn ngã. Cô nhìn thấy liền đến can thiệp yêu cầu bạn nào làm sai
phải xin lỗi bạn, xin lỗi cô giáo….
Trong hoạt động vui chơi không thể thiếu được các trò chơi dân gian, trò
chơi dân gian thường được lồng ghép trong quá trình hoạt động của trẻ. Trẻ
được tiếp cận và trực tiếp tham gia chơi các trò chơi dân gian sẽ giúp cho trẻ
sớm hình thành các thói quen hoạt động có hệ thống, tính tập thể giúp trẻ tự tin,

linh hoạt hơn trong mọi hoạt động cũng như sự phát triển sau này của trẻ.
Thông qua trò chơi dân gian, trẻ sẽ phát triển được các giác quan, phát triển trí
nhớ, phát triển tư duy, trí tưởng tượng, ngôn ngữ. Trò chơi trí tuệ còn được gọi
là trò chơi học tập, nhằm thúc đẩy hoạt động trí tuệ, giúp trẻ nhận thức thế giới
xung quanh thông qua các thao tác trí óc kết hợp với hành động chơi như: Rồng
rắn lên mây, chấm ve ve, nu na nu nống, lộn cầu vồng,..Nhận biết vui chơi
chính là nền tảng vững chắc để trẻ tiếp cận các kĩ năng mối quan hệ ứng xử sau
này, thông qua hoạt động chơi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm: Trẻ là người
chủ đạo cô chỉ gợi mở, kích thích sự tò mò khám phá của trẻ từ hoạt động đên
hoạt động khác, trẻ tự trau chuốt ngôn ngữ của mình để ửng xử với bạn chơi,
nhờ đó trẻ trẻ phát triển sự mạnh dạn, tự tin trong ứng xử.
+ Trong giờ hoạt động góc:
- Sử dụng trò chơi đóng vai để tạo điều kiện cho trẻ hoạt động theo nhóm.
+ Ví dụ: Trong hoạt động đóng vai theo chủ đề nghề nghiệp, qua việc trẻ
đóng vai bác sĩ và bệnh nhân, tôi đặt ra những câu hỏi mở liên quan để giáo dục
trẻ như khi gặp bác sĩ thì bệnh nhân nói gì? Bác sĩ gặp bệnh nhân nên chào hỏi
như thế nào?...bên cạnh đó tôi tham gia đóng vai cùng trẻ và tạo ra những tình
huống để trẻ xử lý cùng bạn và cô giáo, ví dụ như: Có một người bồng một em
nhỏ đang đau nặng đến khám bệnh thì những bệnh nhân khác phải làm gì? (Phải
nhường cho trẻ nhỏ .. và kể cả người già đó các con) qua đó trẻ tự rút ra bài học
phải biết nhường nhị khi gặp điều kiện cần thiết. bác sĩ phải luôn quan tâm, ân
cần chăm sóc bệnh nhân, còn bệnh nhân thì nhẹ nhàng, yêu mến bác sĩ. Từ đó
khi được ba mẹ đưa đi khám bệnh, trẻ sẽ biết chào hỏi lễ phép, trò chuyện nhẹ
nhàng với bác sĩ và quan tâm đến những người xung quanh. Trong hoạt động vui
chơi, trò chơi đóng vai theo chủ đề trẻ được thực hành, trải nghiệm với nhiều vai
chơi khác nhau, vì thế việc tiến hành lồng ghép kỹ năng giao tiếp, ứng xử vào
hoạt động vui chơi đem lại hiệu quả cao. Qua đó, trẻ được giao tiếp với nhau
6



bằng những lời nói nhỏ nhẹ, ân cần, lễ phép, những lời cảm ơn, xin lỗi, trao
nhận bằng hai tay ... luôn được thể hiện. Tôi theo dõi lắng nghe để kịp thời uốn
nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua đó giúp trẻ hình thành thói quen
hành vi văn minh trong giao tiếp, ứng xử hằng ngày.(Hình ảnh 2)
Ví dụ: Qua trò chơi Bán hàng: Người bán hàng vui vẻ, niềm nở chào hỏi
khách hàng. Biết nói cảm ơn khi khách mua hàng…Người đi mua hàng trật tự
khi mua, nói tên hàng cần mua.( Hình ảnh 3)
+ Trò chơi gia đình: Qua trò chơi nấu ăn cho gia đình trẻ biết mời mọi
người cùng ăn, biết vệ sinh trước và sau khi ăn, ăn uống từ tốn. Khi ăn không
cười đùa, nói chuyện, di chuyển. Sau khi ăn biết sử dụng khăn lau hợp lý, biết
xếp ghế, thìa, bát vào đúng nơi quy định. Khi uống nước biết sử dụng cốc uống
hợp vệ sinh....Ngoài ra, trẻ còn biết thu gom rác bỏ vào thùng rác, nhắc nhở mọi
người phải biết giữ vệ sinh chung...
*Thông qua hoạt động tự phục vụ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Trong các hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường, trẻ dễ được tiếp cận
những gì mà cô giáo, người lớn, bạn bè đã làm. Vì vậy tôi luôn tranh thủ giáo
dục kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi.
+ Trong giờ đón trẻ:
Dựa vào nội dung giao tiếp theo chủ đề trong kế hoạch tuần/ tháng: dạy
trẻ chào hỏi lễ phép thể hiện cảm xúc phù hợp, trò chuyện về bản thân trẻ, sở
thích nhu cầu khả năng của trẻ, cảm xúc, trò chuyện về gia đình trẻ, bạn của trẻ
và những sự kiện diễn ra hằng ngày xung quanh trẻ, cách giữ gìn vệ sinh cá
nhân, tập luyện tăng cường sức khỏe, cách phòng bệnh, cách đảm bảo an toàn.
Ví dụ: Trò chuyện với trẻ về bản thân và các thành viên trong gia đình:
Họ tên, công việc hằng ngày, sở thích của các thành viên trong gia đình….
Tôi thường trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, đón trẻ vào
lớp hướng dẫn trẻ khoanh tay và nói, chào cô và các bạn, rồi tạm biệt mẹ, kỹ
năng tự cất giày dép, cặp, mũ đúng nơi quy định, ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết
chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo khi người khác nói,
không tự tiện lấy đồ dùng và sử dụng đồ của người khác…

+ Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân:
Đây là hoạt động nhằm hình thành một số nề nếp, thói quen trong sinh
hoạt, đáp ứng nhu cầu sinh lý của trẻ, tạo cho trẻ trạng thái thoải mái, vui vẻ. Tôi
muốn trẻ lớp tôi có một sức khỏe tốt để vui chơi và học tập. Ở trường mầm non
công tác chăm sóc nuôi dưỡng, đảm bảo an toàn cho trẻ được đặt lên hàng đầu.
Vì thế, tôi đã thường xuyên nhắc nhở trẻ thực hiện các kỹ năng tự phục vụ như:
Rửa mặt, đánh răng, rửa tay đúng các bước bằng xà phòng, cách chải tóc, và đi
vệ sinh đúng nơi quy định…
7


Trong giờ ăn, tôi giáo dục trẻ những thói quen văn hóa trong ăn uống,
như: Dạy trẻ rửa tay lau mặt trước và sau khi ăn, mời cô, mời bạn, trong bữa ăn
rèn cho trẻ thói quen không được nói chuyện trong giờ ăn, đùa cợt, không ném
hoặc vứt thức ăn xuống sàn, đi lại lung tung làm ảnh hưởng đến bạn xung
quanh, cho trẻ ăn hết xuất, nếu trẻ không chịu ăn hết xuất, hay ăn quá chậm,
không chịu ăn rau cô giỗ dành bón cho trẻ, động viên trẻ ăn hết xuất. giới thiệu
hoặc hỏi trẻ về các món ăn trong ngày, nói với trẻ về ích lợi của việc ăn rau
xanh. khi ăn xong biết vệ sinh miệng sạch sẽ. Uống nước từ từ, không làm đổ,
không làm rơi cốc, và phải biết sử dụng cốc riêng của mình. Ngoài ra, trước
những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài thơ “Giờ ăn”, “Bé ơi nhớ
nhé” để lồng ghép nhắc nhở những kỹ năng vệ sinh trước và sau giờ ăn cho trẻ
(Hình ảnh 5).
Ví dụ: Khi có tình huống xảy ra trong giờ ăn như: có một trẻ ngồi cùng
bàn với bạn và múc thức ăn của bạn, cô nhìn thấy nhắc nhở trẻ và yêu cầu trẻ:
“Mình xin lỗi bạn”. Từ đó, giáo dục cho trẻ biết cách ứng xử đúng.
+ Giờ ngủ: Biết ngủ đúng vị trí của mình, không gây ồn, không dùng chung
chăn gối, không dẫm lên chăn gối của mình và của bạn. Ngủ đúng tư thế và ngủ
đủ giấc. Sau khi ngủ dậy biết xếp cất chăn, gối vào nơi qui định. Giáo dục kỹ
năng mạnh dạn, tự tin và khéo léo trong tự ứng xử trao đổi công việc trong giờ

đi ngủ.
+ Giao tiếp, ứng xử trong giờ chuẩn bị trả trẻ
Trò chuyện với trẻ về những hoạt động trãi qua trong 1 ngày ở lớp, nêu
gương tốt trong ngày tạo tâm trạng hào hứng vui vẻ, có ấn tượng tốt với lớp, với
cô giáo, với bạn bè để hôm sau trẻ thích đến trường, đến lớp; nhắc nhở trẻ,
hướng dẫn trẻ làm vệ sinh cá nhân: lau mặt, rữa tay, sửa sang quần áo, đầu tóc
gon gàng, sạch sẽ trước khi ra về, thông qua hoạt động trả trẻ tôi giáo dục kĩ
năng ứng xử lễ phép biết chào cô, bạn, ba mẹ trước khi ra về, qua đó hình thành
cho trẻ thói quen hằng ngày cho trẻ về giáo dục lễ giáo
4.4.2. Giải pháp 2: Tăng cường làm đồ dùng, đồ chơi.
Trong trường mầm non hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, mà trong
đó đồ dùng, đồ chơi là phương tiện không thể thiếu trong các hoạt động giáo dục
của trẻ. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có tiền để mua hết đồ dùng, đồ chơi
để phục vụ cho hoạt động mà giáo viên mầm non phải luôn sáng tạo ra nhiều đồ
dùng, đồ chơi mới lạ hấp dẫn và phù hợp với nội dung, tình huống giáo dục
trong các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đời sống sinh
hoạt hằng ngày mỗi gia đình có rất nhiều sản phẩm loại bỏ như: hộp sữa, bình
dầu gội đầu, nước rửa chén, vỏ trai, vỏ sò có nhiều kiểu dáng kích thước khác
nhau là nguồn nguyên liệu phong phú. Giáo viên đã tận dụng những nguyên vật
liệu đó để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ hoạt động vừa tiết kiệm tiền, vừa có
8


nhiều hấp dẫn, mang tính sáng tạo, làm tăng số lượng đồ dùng, đồ chơi. Bên
cạnh đó, tôi tuyên truyền với cha mẹ trẻ (CMT) đóng góp nguyên vật liệu đã qua
sử dụng để tái sử dụng làm đồ dùng đồ chơi. Ví dụ: Cha mẹ trẻ hỗ trợ những
chiếc điện thoại bị hỏng, giáo viên phát huy tác dụng qua các hoạt động giúp trẻ
giao tiếp với nhau khi mua bán, trao đổi thông tin với nhau.
Thông qua các giờ học tạo hình tôi hướng dẫn trẻ tạo ra những sản phẩm
phục vụ cho các hoạt động khác. Ví dụ: Dùng hộp sữa qua sử dụng cùng trẻ tạo

nên những chiếc xe ô tô, những hộp su su làm thành các con vật như con thỏ,
con lợn,…tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ cho trẻ chơi ở góc phân vai.
Ngoài ra những buổi hoạt động ngoài trời cho trẻ lao động nhặt lá vàng
bảo vệ môi trường, tôi yêu cầu trẻ nhặt những lá có màu sắc đẹp để lại hôm sau
cô cùng trẻ làm đồ chơi bằng lá cây ví dụ như: Làm con bướm, con thỏ, làm
mũ… bằng lá cây khô, từ những đồ chơi trẻ làm được tôi kết hợp cho trẻ chơi
đội mũ làm thỏ chơi trò chơi dân gian như: “Cáo ơi ngủ à” hay cho trẻ đọc bài
“Con nít con nôi” Qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ và tính kĩ luật trong khi
chơi. (Hình ảnh 6)
4.4.3 Giải pháp 3: Thông qua các chương trình kịch bản ngày hội,
ngày lễ trong năm.
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội như ngày Tết trung thu, Vui hội
trăng rằm, 20/10, 20/11, 22/12, Ngày tết quê em…Hoạt động này tạo cơ hội cho
trẻ kĩ năng ứng xử, giao tiếp xã hội, mang lại cho trẻ cảm xúc tích cực phát triển
sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần, dần dần hình thành và giáo dục cho trẻ tình
cảm, đạo đức về tình yêu quê hương đất nước, lòng biết ơn và yêu quý những
người xung quanh. Ví dụ nhà trường đã tổ chức kịch bản: “Ngày hội đến
trường”, “Vui hội trăng rằm” nhằm cho trẻ biết được ý nghĩa của ngày tết cổ
truyền, những hoạt động trong ngày tết, giáo dục trẻ biết nói lời cảm ơn và nhận
bằng hai tay đối với người lớn khi được nhận quà.
Bằng những hình ảnh trang trí, không gian vui tươi hấp dẫn, tranh ảnh nổi
bật, trang phục đẹp, âm thanh rộn ràng, những bài hát, điệu múa, những bài thơ,
không khí tươi vui náo nức trong ngày hội, ngày lễ đem lại cho trẻ những niềm
vui, cảm xúc, giúp trẻ cỡi mở gần nhau hơn. Ấn tượng sâu sâu sắc của những
ngày hội, ngày lễ như một thứ “thuốc bổ” cho tâm hồn của trẻ, đồng thời ngày
hội, ngày lễ đem lại cảm xúc tích cực, góp phần nuôi dưỡng đời sống tâm hồn
trẻ, khơi gợi ở trẻ những cảm xúc, tình cảm trong sáng, tốt lành là nền tảng quan
trọng để hình thành nhân cách “đẹp”. (Hình ảnh 7).
4.4.4 Giải pháp 4: Tuyên truyền, phối kết hợp cùng CMT trong công
tác chăm sóc giáo dục trẻ.

Ngoài việc được chăm sóc tốt ở trường, các cháu cần được sự quan tâm
chăm sóc của gia đình, do đó công tác phối kết hợp cùng cha,mẹ mang một ý
9


nghĩa rất quan trọng. Tôi thường tuyên truyền đến phụ huynh bằng các hình thức
sau: Qua góc tuyên truyền của lớp, các buổi họp với CMT, qua sổ liên lạc, giờ
đón và trả trẻ…. Tôi thường chú ý xây dựng góc phụ huynh của lớp với những
hình ảnh, nội dung tuyên truyền phong phú, hấp dẫn về giáo dục kĩ năng giao
tiếp, ứng xử phải bắt mắt và được thay đổi thường xuyên. Những nội dung tuyên
truyền ở đây rất thực tế, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của trẻ nên rất được
CMT chú ý mỗi khi đón trả trẻ. Tôi luôn thường xuyên thông tin những vấn đề
cần trao đổi về trẻ đến với CMT qua giờ đón và trả trẻ. Qua các buổi họp CMT
theo định kỳ, ngoài việc trao đổi về những nội dung trọng tâm tôi cũng đã trao
đổi kinh nghiệm chăm sóc, nuôi dạy trẻ theo khoa học và hỗ trợ cho CMT
những kiến thức đúng đắn về việc rèn luyện cho trẻ những thói quen nề nếp cần
thiết. Thông qua cách làm này góp phần nâng cao nhận thức cho CMT chú trọng
đến nội dung rèn luyện cho trẻ những kĩ năng giao tiếp, ứng xử tốt như:
+ Cha, mẹ phải ý thức được vai trò, trách nhiệm của gia đình trong chăm
sóc giáo dục con cái.
+ Cha, mẹ có kiến thức kĩ năng về chăm sóc giáo dục trẻ theo khoa học.
+ Cha, mẹ cần hiểu về tâm lý và tính cách của con mình để thống nhất
phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp.
+ Tổ chức cuộc sống gia đình có thói quen nề nếp tốt.
+ Tôn trọng và biết lắng nghe trẻ.
+ Yêu thương và nghiêm khắc với trẻ.
Ngoài ra, thông qua sổ liên lạc của trẻ tôi đều ghi rất cụ thể những kỹ
năng giao tiếp, ứng xử của trẻ đã làm được ở lớp giúp CMT nắm bắt, để kịp thời
uốn nắn, giáo dục trẻ tại gia đình một cách đồng bộ. Điều đó đã khẳng định
rằng công tác tuyên truyền, phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường đã có sự

đồng thuận và đạt hiệu quả cao trong công tác NDCSGD trẻ đặt biệt kỹ năng
giao tiếp, ứng xử.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến.
Với nội dung đề tài này tôi đã áp dụng tại lớp mẫu giáo nhỡ 2 năm học
2019-2020 và áp dụng tại các lớp mẫu giáo của trường mẫu giáo Ánh Hồng, có
khả năng áp dụng tại các lớp mẫu giáo trên địa bàn huyện Phú Ninh.
5. Những thông tin cần được bảo mật: Không
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến
Sau khi áp dụng các giải pháp để phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử
cho trẻ. Bản thân tôi nhận thấy trẻ lớp tôi tiến bộ và phát triển toàn diện hơn so
với khi chưa áp dụng. Cụ thể như sau:
+ Vốn từ của trẻ phong phú, diễn đạt mạch lạc, trọn câu,
+ Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
10


+ Trẻ biết cách ứng xử với các bạn trong lớp và những người xung quanh,
+ Trẻ có ý thức tự phục vụ bản thân. Biết chấp hành tốt các nội quy và quy
định chung của trường của lớp. Trẻ có những kỹ năng sống cần thiết.
+ Cha mẹ trẻ cũng đã tự hào mỗi khi kể về con mình và vui mừng về sự
tiến bộ mỗi ngày của con mình.
Bên cạnh đó kết quả học tập của trẻ trên các hoạt động khác cũng có
nhiều tiến bộ. Cụ thể như: Vốn từ của trẻ lớp tôi phong phú, diễn đạt mạch lạc,
trọn câu, Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, Trẻ biết cách ứng xử với các bạn
trong lớp và những người xung quanh kết quả cụ thể như sau:
Kết quả
Kết quả
T
Đầu năm

Học kì I
Nội dung
T
SL
TL%
SL
TL%
1 Vốn từ của trẻ phong phú, diễn đạt mạch 14/31 45,20 29/31 93,50
lạc, trọn câu
2 Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
18/31 58,00 30/31 96,70
3 Trẻ biết cách ứng xử với các bạn trong 20/31 64,50 30/31 96,70
lớp và những người xung quanh
4 Có ý thức tự phục vụ bản thân. Chấp 15/31 48,40 29/31 93,50
hành tốt các nội quy và quy định chung
của trường của lớp. Trẻ có những kỹ
năng sống cần thiết.
Phát triển kĩ năng giao tiếp ứng xử cho trẻ mẫu giáo là nhiệm vụ vô cùng
quan trọng. Vì vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài nêu trên, bản thân
tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm trong công tác NDCSGD trẻ tại lớp mình qua
đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ 4-5 tuổi
tại lớp nhỡ 2 trường mẫu giáo Ánh Hồng”. Với lòng yêu nghề mếm trẻ tôi không
ngừng học hỏi trao dồi kinh nghiệm chuyên môn từ các đồng nghiệp, sách báo,
qua mạng internet, qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, của trường, ngành
và qua tài liệu bồi dưỡng thường xuyên. Bên cạnh đó, giáo viên luôn là người có
phẩm chất đạo đức tốt, mẫu mực, chịu khó, kiên trì tìm tòi học hỏi, sáng tạo mới
trong NDCSGD trẻ. Dành thời gian quan tâm đến những trẻ ở mọi lúc mọi nơi
để có biện pháp giáo dục phù hợp. Phải động viên kích lệ, nêu gương cuối ngày
thường xuyên để uốn nắn kịp thời giúp trẻ ngày càng phát triển toàn diện hơn.
Cô phải hết lòng yêu thương trẻ, xem mình như là người mẹ thứ hai của trẻ.

Muốn NDCSGD trẻ đạt kết quả tốt thì phải có sự thống nhất phương pháp
giáo dục chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội là một phần không thể
thiếu trong vấn đề giáo dục, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ tại
11


trường để phát triển toàn diện về thể chất lẫn tinh thần, tạo cảm giác an toàn thân
thiện khi đến trường.
Trên đây là báo cáo kết quả hoạt động sáng kiến: Một số biện pháp rèn
luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho trẻ 4-5 tuổi tại lớp nhỡ 2 trường mẫu giáo
Ánh Hồng
Nơi nhận:

- Như kính gửi;
- Lưu: TĐ-KT

12



×