Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

KHẢO sát mức độ LO âu và một số yếu tố LIÊN QUAN của NGƯỜI BỆNH TRƯỚC PHẪU THUẬT dạ dày tại BỆNH VIỆN hữu NGHỊ VIỆT đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.38 KB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
------***------

NGUYỄN THỊ THƯ

KHẢO SÁT MỨC ĐỘ LO ÂU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH TRƯỚC PHẪU THUẬT
DẠ DÀY TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

HÀ NỘI - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
------***------

NGUYỄN THỊ THƯ

KHẢO SÁT MỨC ĐỘ LO ÂU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH TRƯỚC PHẪU THUẬT
DẠ DÀY TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC


Chuyên ngành : Điều dưỡng
Mã số
: 8720301
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Dương Trọng Hiền

HÀ NỘI – 2020
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


APAIS
BV
BVHNVĐ
ĐD
HADS-A
HAM-A
MDSS
NB
NCV
NVYT
PT
STAI
VAS-A

: The Amsterdam Preoperative Anxiety and Information Scale
: Bệnh viện
: BV Hữu nghị Việt Đức
: Điều dưỡng
: Hospital Anxiety and Depression Scale-Anxiety

: Hamilton Anxiety Rating Scale
: Multi-Dimensional Support Scale
: Người bệnh
: Nghiên cứu viên
: NVYT
: Phẫu thuật
: The State-Trait Anxiety Inventory
: Visual Analog Scale for Anxiety

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC SƠ ĐỒ


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhập viện là sự kiện tiêu cực trong cuộc sống dẫn đến sự lo âu ở người bệnh,
đặc biệt ở những người bệnh nhập viện chờ phẫu thuật [1],[2], nếu không được phát
hiện, sự lo âu kéo dài sẽ tạo ra căng thẳng, sau đó có thể gây hại và ảnh hưởng đến
sự phục hồi sau phẫu thuật của người bệnh [3],[4].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng lo âu trước phẫu thuật sẽ gây ra nhiều ảnh
hưởng xấu như tăng đau, buồn nôn và nôn trong giai đoạn hậu phẫu, tăng nguy cơ
nhiễm trùng, kéo dài thời gian phục hồi của người bệnh [5],[6]. Những tác động tiêu

cực này có thể làm tăng chi phí điều trị và có thể trở thành gánh nặng kinh tế của
người bệnh và gia đình của họ [7].
Xác định tình trạng lo âu của người bệnh trước phẫu thuật đã được thực hiện
nhiều nghiên cứu trong nước và trên thế giới. Theo Jlala (2010) [8], lo âu trước
phẫu thuật được tìm thấy với tỉ lệ lên đến 80%. Tại Anh Quốc, 82% NB có lo âu
trước phẫu thuật [9]. Theo Seifu Nigussie, tại bệnh viện đại học Jimma, Tây Nam
Ethiopia, 70,3% nguời bệnh có lo âu trước phẫu thuật [1]. Theo Rosiek và cộng sự
(2016) [10], 55% người bệnh lo âu trước phẫu thuật mức độ trung bình tại Ba Lan.
Tại Việt Nam, một báo cáo ở Thái Nguyên có đến 100% người bệnh có lo âu trước
phẫu thuật vùng bụng, trong đó 75% lo âu mức độ trung bình [11], tại Phú Thọ tỉ lệ
này là 98,9% và 50% người bệnh lo âu mức độ trung bình [12].
Lo âu trước phẫu thuật là một khái niệm đầy thách thức trong chăm sóc
người bệnh. Mức độ lo âu ở mỗi người bệnh điều trị phẫu thuật là không giống
nhau. Tìm hiểu tâm lý cũng như tình trạng lo âu của người bệnh là một trong những
vai trò quan trọng của người điều dưỡng ngoại khoa trong việc chuẩn bị người bệnh
trước phẫu thuật.
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là bệnh viện chuyên khoa ngoại hạng đặc
biệt, là trung tâm phẫu thuật lớn của cả nước, với hơn 1500 giường bệnh. Trung
bình hàng năm có khoảng 6000 ca phẫu thuật tiêu hóa, trong đó những ca phẫu
thuật về dạ dày tương đối nhiều chiếm khoảng 11% [13] nhưng các thông tin về sự


7

lo âu và các yếu tố liên quan đến sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật dạ dày
còn bị hạn chế.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc, tăng sự hài lòng của người bệnh thì việc
hiểu được tâm lý của người bệnh là một vấn cần thiết. Với mong muốn xác định
mức độ lo âu của người bệnh trước phẫu thuật dạ dày và tìm hiểu về mối liên quan
giữa lo âu trước phẫu thuật dạ dày với đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm bệnh, sự

hỗ trợ từ gia đình và xã hội, nhận thức về bệnh của người bệnh để từ đó có hướng
can thiệp phù hợp giúp người bệnh giảm lo âu trước phẫu thuật, tăng khả năng phục
hồi sớm sau phẫu thuật, rút ngắn thời gian điều trị. Đó là lý do nhóm nghiên cứu
thực hiện đề tài: “Khảo sát mức độ lo âu và tìm hiểu một số yếu tố liên quan của
người bệnh trước phẫu thuật dạ dày tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức” với các
mục tiêu sau:
1. Đánh giá mức độ lo âu bằng thang đo HADS-A ở người bệnh trước phẫu

thuật dạ dày tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến lo âu ở người bệnh
3.


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Lo âu

1.1.1. Khái niệm lo âu
Lo âu bình thường - Lo lắng là hiện tượng phản ứng của con người trước những
khó khăn và các mối đe dọa của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt qua
và tồn tại. Lo lắng là một tín hiệu báo động, báo trước một nguy hiểm sắp xảy đến, cho
phép con người sử dụng mọi biện pháp để đương đầu với sự đe dọa [14].
Lo lắng có thể được coi là một điều tốt, trước những tình huống căng thẳng,
“nguy hiểm” như trước một kỳ thi, trước khi phỏng vấn, chuẩn bị nhận một công việc
mới, khi bị nhập viện điều trị bệnh, nó sẽ kích thích cơ thể giải phóng các chất hóa học
như adrenaline hay cortisol có chức năng điều chỉnh một số chức năng thần kinh, nhờ

đó cơ thể có thêm sức mạnh để có thể “chiến đấu” với tình huống đó và nó sẽ không
còn khi những tình huống căng thẳng, “nguy hiểm” được giải quyết [15].
Lo lắng này coi là “Lo âu” bình thường của con người, nhưng nếu lo lắng
diễn ra quá mức hoặc dai dẳng không tương xứng với sự đe dọa được cảm thấy, ảnh
hưởng đến hoạt động của con người có thể kèm theo những ý nghĩ hay hành động
có vẻ như quá mức vô lý thì lo âu bình thường hay lo lắng sẽ chuyển sang trạng thái
lo âu bệnh lý [14].
Trong phạm vi nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát mức độ
lo âu - lo lắng của đối tượng nghiên cứu.
1.1.2. Mức độ lo âu
Theo Halter và Varcarolis [16], lo âu được phân thành 4 mức độ:
-

Nhẹ: Lo âu ở mức độ nhẹ xảy ra trong trải nghiệm bình thường của cuộc sống hằng
ngày và nó tích cực vì nó tác động đến cá nhân giải quyết vấn đề một cách hiệu quả
hơn. Ở mức độ này, người lo âu có thể thể hiện các triệu chứng như sự khó chịu
nhẹ, bồn chồn hay cáu gắt


9

-

Trung bình: Lo âu ở mức độ trung bình dẫn đến nhận thức bị thu hẹp, khả năng suy
nghĩ rõ ràng bị giới hạn. Nhưng việc học hỏi và giải quyết vấn đề vẫn có thể xảy ra
mặc dù nó không ở mức tối ưu. Thay đổi cơ thể có thể được nhận thấy như căng
thẳng, nhịp tim nhanh, nhức đầu, kích thích dạ dày. Lo âu ở mức độ trung bình thì

-


vẫn còn mang tính suy diễn
Nặng: Ở mức độ nặng của sự lo âu, người này chỉ tập trung vào một chi tiết đặc biệt
và có thể có khó khăn trong việc nhận thấy những gì đang xảy ra trong môi trường.
Người chịu đựng sự lo âu này có thể gặp giảm thông khí, choáng váng, bối rối hay

-

không thể giải quyết vấn đề
Lo âu hoảng sợ: là hình thức khắc nghiệt nhất và có thể dẫn đến hành vi quấy rầy.
Những người đó không thể nhận ra những gì đang xảy ra trong môi trường. Họ có
thể biểu hiện rối loạn, la hét hoặc sự co rút lại. Hành vi của họ có thể thiếu sự phối
hợp và bốc đồng. Hành vi cá nhân để giảm lo âu có thể là không hiệu quả và lo âu
hoảng sợ cấp tính có thể dẫn đến kiệt sức
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng lo âu
Lo âu là triệu trứng phổ biến của con người khi đứng trước những khó khăn,
thử thách, lo âu là triệu trứng cốt lõi của bệnh tâm căn, biểu hiện lâm sàng phụ
thuộc vào cá thể và mức độ lo âu [17]. Một số triệu chứng phổ biến bao gồm:

-

Hồi hộp, bồn chồn hoặc căng thẳng

-

Cảm giác nguy hiểm, hoảng loạn hoặc sợ hãi

-

Nhịp tim nhanh


-

Thở nhanh hoặc thở nhanh

-

Đổ mồ hôi nhiều hoặc nặng

-

Run rẩy hoặc co giật cơ bắp

-

Yếu đuối và thờ ơ

-

Khó tập trung hoặc suy nghĩ rõ ràng về bất cứ điều gì khác ngoài điều bạn lo lắng

-

Mất ngủ

-

Các vấn đề về tiêu hóa hoặc đường tiêu hóa , chẳng hạn như táo bón hoặc tiêu chảy

-


Một mong muốn mạnh mẽ để tránh những điều gây ra lo lắng của bạn

-

Thực hiện một số hành vi nhất định nhiều lần


10

1.1.4. Rối loạn lo âu
Lo âu là không thể tránh khỏi trong cuộc sống và có thể phục vụ nhiều
chức năng tích cực như thúc đẩy con người hành động để giải quyết vấn đề hoặc
giải quyết khủng hoảng. Nó được coi là bình thường khi nó phù hợp với tình
huống và tiêu tan khi tình huống đã được giải quyết, nhưng nếu kéo dài hoặc lo
âu quá mức sẽ dẫn đến trạng thái bệnh lý rối loạn lo âu trong bệnh lý tâm thần
[18]. Theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) [19], rối loạn lo âu
được phân loại như sau:
-

F40: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ
F41: Các rối loạn lo âu khác
F41.0: Rối loạn hoảng sợ
F41.1: Rối loạn lo âu lan tỏa
F41.2: Rối loạn lo âu và trầm cảm
F41.3: Các rối loạn lo âu hỗn hợp khác
F41.8: Các rối loạn lo âu biệt định khác
F41.9: Rối loạn lo âu không biệt định
1.1.5. Các thang đo về tình trạng lo âu trước phẫu thuật
Có rất nhiều thang đo để đo lường mức độ lo âu của NB, các thang đo
thường được sử dụng như: The Amsterdam Preoperative Anxiety and Information

Scale (APAIS), Hamilton Anxiety Rating Scale (HAM-A), The State-Trait Anxiety
Inventory (STAI),Visual Analog Scale for Anxiety (VAS-A), Hospital Anxiety and
Depression Scale-Anxiety (HADS-A), …
The Amsterdam Preoperative Anxiety and Information Scale (APAIS) được
xây dựng vào năm 1996 của Nelly Moerman và cộng sự [20]. APAIS là công cụ
đáng tin cậy cho các chuyên gia gây mê, gây tê dùng để đánh giá sự lo âu trước mổ
và các thông tin cần cung cấp của NB. APAIS gồm 6 mục được đánh giá theo thang
điểm Likert từ 1-5, trong đó mục một, hai, bốn và năm dùng để đo lường mức độ lo
âu của NB trước PT; mục ba và sáu dùng để biết thông tin cần được cung cấp cho
NB về phương pháp vô cảm hay về tiến trình PT.
The State-Trait Anxiety Inventory (STAI) là công cụ tự báo cáo sự lo lắng,
được Charles Spielberger và cộng sự xuất bản năm 1983 [21], gồm 2 phần, mỗi


11

phần 20 mục, mỗi mục được đánh giá theo thang điểm Likert từ 1 đến 4. STAI-S
dùng để xác định tình trạng lo âu tạm thời trong các tình huống nguy hiểm, và thang
điểm Likert theo cường độ xuất hiện (1: không có, 2: có một phần, 3: trung bình, 4:
rất nhiều). STAI-T dùng để đánh giá tính ổn định của sự lo âu lâu dài, thang điểm
Likert biểu hiện tần số, mức độ thường xuyên của cảm giác (1: hầu như không có,
2: thỉnh thoảng, 3: thường xuyên, 4: luôn luôn). STAI thường được phân loại thành
ba mức: từ 20-37 điểm là không lo âu hoặc lo âu nhẹ; từ 38-44 điểm là lo âu trung
bình; từ 45-80 điểm là lo âu cao.
Hamilton Anxiety Rating Scale (HAM-A) được xây dựng do Max Hamilton
năm 1959 [22], là một trong những thang điểm đầu tiên để đo lường mức độ nghiêm
trọng của các triệu chứng lo âu. HAM-A gồm 14 mục, mỗi mục gồm các triệu chứng
của lo âu được cho điểm từ 0 đến 4 (0 là không có, 4 là trầm trọng), tổng điểm của
HAM-A là 0-56 điểm được chia thành 3 nhóm: <17 điểm chỉ những trường hợp lo âu
nhẹ, 17-24 điểm chỉ lo âu nhẹ đến trung bình, 25-30 điểm chỉ lo âu trung bình đến

nặng. HAM-A đã được dịch sang các tiếng Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha.
Visual Analog Scale for Anxiety (VAS-A) là thang đo tự đánh giá sự lo âu
của NB bằng cách chọn các con số thể hiện mức lo âu cuả họ trong khoảng từ 0 đến
100 mm, với 0 là không lo âu và 100 là lo âu nghiêm trọng nhất. Trong các nghiên
cứu đo lường sự lo âu của NB, VAS-A thường được sử dụng phối hợp cùng với một
thang đo lo âu khác và đã chứng minh được mối liên quan của 2 thang đo [23],[24],
[25],[26].
Thang đo lo âu và trầm cảm Hospital Anxiety and Depression Scale-Anxiety
(HADS) được phát triển bởi Zigmond và Snaith (1983) đã được sử dụng để đánh
giá mức độ lo âu và trầm cảm của NB trước PT [27]. Thang đo HADS bao gồm 14
mục được chia thành hai phần: bảy mục đo lường sự lo âu (HADS-A) và bảy mục
đánh giá trầm cảm (HADS-D). Điểm số từ 0 đến 21 cho mỗi phần. Trong đó thang
đo HADS-A được phát triển như một thước đo ngắn gọn từ các triệu chứng của lo
âu tổng quát. Mục đích của HADS-A là sàng lọc những triệu chứng lâm sàng của lo
âu trên NB. Thang đo HADS- A gồm 7 câu hỏi, mỗi câu được tính theo thang điểm


12

Likert từ 0 đến 3 tương ứng với mức độ xuất hiện tăng dần của các triệu chứng lo
lắng. Tổng điểm cho bộ câu hỏi từ 0-21 điểm, được chia thành các mức: 0 điểm không lo lắng, từ 1 đến 7 điểm: lo âu nhẹ, từ 8 – 14 điểm: lo âu vừa, từ trên 15
điểm: mức độ lo âu nặng [12]. HADS-A đã được chứng minh được tính giá trị và
tính ổn định trong nhiều nghiên cứu [28],[29]. HADS-A cũng đã được dịch sang
tiếng Việt và cũng được kiểm tra tính giá trị, tính ổn định phù hợp để đo lường sự lo
âu của NB trước PT và đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu tại Việt Nam [12],
[30]. Đặc biệt hơn, bộ công cụ này đã được tác giả Nguyễn Hoàng Long sử dụng
đánh giá sự lo âu của NB trước PT ổ bụng tại 3 BV lớn ở Hà Nội, trong đó có BV
hữu nghị Việt Đức vào năm 2010 [31]. Do vậy, trong nghiên cứu này, nhóm nghiên
cứu sử dụng HADS-A để xác định sự lo âu của NB trước PT dạ dày.
1.2.


Phẫu thuật dạ dày
Phẫu thuật dạ dày là một phương pháp điều trị ngoại khoa, được chỉ định vì

một số lý do lâm sàng bao gồm các bệnh lý về dạ dày hoặc lành tính hoặc ác tính.
PT dạ dày bao gồm cắt dạ dày một phần hoặc cắt toàn bộ dạ dày [32]. PT cắt dạ dày
một phần đã được Pean thực hiện lần đầu tiên vào ngày 9-4-1879 để điều trị cho NB
ung thư môn vị. Người bệnh đã chết vào ngày thứ 5 sau mổ. Sau đó Rydygier thực
hiện lại và ngày 16-11-1880 và Billroth thực hiện vào ngày 29-1-1881 với kết quả
tốt [33]. Ca PT cắt bỏ dạ dày cho NB loét dạ dày tá tràng thành công đầu tiên được
thực hiện bởi Ludwik Rydygier, vào năm 1881 [34]. Có hai loại PT dạ dày chính:
-

Cắt dạ dày một phần là cắt bỏ một phần của dạ dày. Nửa dưới thường được loại bỏ.
Cắt dạ dày hoàn toàn là loại bỏ toàn bộ dạ dày.
1.3.1. Chỉ định Phẫu thuật dạ dày
Theo Weledji. E.P [32], PT dạ dày thường được chỉ định trong các trường hợp sau:

- Chảy máu dạ dày
- Viêm loét dạ dày nặng
- Thủng dạ dày
- Polyp, hoặc tăng trưởng bên trong dạ dày của bạn
- Ung thư dạ dày


13

- Điều trị béo phì.
1.3.2. Phương pháp phẫu thuật dạ dày
Có 2 phương pháp:


- Phẫu thuật mở: PTV dạch da, cơ và mô để tiếp cận vào dạ dày và tiến hành PT.
Phương pháp này dễ thực hiện, vết mổ lớn. NB sẽ phải trải nghiệm đau và sự liền
vết thương kéo

- Phẫu thuật nội soi: Là PT xâm lấn tối thiểu bằng công cụ PT chuyên dụng, Nó liên
quan đến vết mổ nhỏ, ít đau đớn hơn và cho phép thời gian phục hồi nhanh hơn.
1.3.

Tâm lý và tình trạng lo âu trước phẫu thuật của người bệnh

1.4.1. Trạng thái tâm lý chung người bệnh
Khi mắc bệnh dù nặng hay nhẹ đều làm thay đổi tâm lý NB, bệnh tật càng
nặng càng càng kéo dài thì sự biến đổi tâm lý càng trầm trọng. NB khi nằm viện đều
lo âu về bệnh của mình và mong chờ sự giúp đỡ của thầy thuốc cũng như mong
muốn bệnh được mau lành, ít tốn kém về thời gian và kinh tế, NB thường có cảm
giác mặc cảm, có lỗi với người thân trong gia đình, lo sợ ảnh hưởng đến công việc
và tương lai. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng bất lực, suy sụp về tinh
thần, nặng hơn nữa NB sẽ bị trầm cảm. Những biến đổi về bệnh tật và những biến
đổi về tâm lý NB có sự tác động qua lại với nhau [35]
1.4.2. Đặc điểm tâm lý của người bệnh trước phẫu thuật dạ dày
Người bệnh trước PT dạ dày cũng mang tâm lý của một NB trước mỗi ca PT
nói chung, thường đối mặt với lo âu và căng thẳng. Họ phải thích nghi hoặc đối phó
với tình huống này để lấy lại quyền kiểm soát cảm xúc của cá nhân [36]. Đối mặt
trước ca mổ, NB hoặc là quá lo sợ (sợ đau, sợ biến chứng, sợ chết…), hoặc là không
tin tưởng vào bác sĩ, vào chẩn đoán, vào kết quả PT… Cũng có người phủ nhận tình
trạng bệnh tật, che giấu triệu chứng, không thích mổ; cũng có NB quá lạc quan, cho
rằng sau mổ là mình khỏi bệnh hoàn toàn…PT không phải là sự kết thúc điều trị,
mà chỉ là tạo nền tảng cho một điều trị mới tiếp theo [37].



14

Sự biến đổi tâm lý của NB phụ thuộc rất nhiều vào các giai đoạn PT. Trước PT,
NB hay lo âu về chỗ nằm trước và sau mổ; quan tâm đến những lời bàn tán về trình độ
của bác sĩ PT chính, về cách mổ và những điều khác liên quan đến cuộc mổ [1].
1.4.3. Lo âu trước phẫu thuật
Lo âu trước PT ảnh hưởng đến NB ở cả hai mặt thể chất và mức độ tâm lý.
Về mặt tâm lý, nó có thể thay đổi cách suy nghĩ, cảm nhận và hành động cá nhân.
Về thể chất, lo âu làm tăng giải phóng epinephrine vào tuần hoàn gây co thắt mạch
máu, tăng nhịp tim và lực co bóp, dẫn đến tăng huyết áp và nhiệt độ, nóng bừng và
đổ mồ hôi. Nó cũng gây ra không có khả năng tập trung hoặc khó khăn trong việc
thực hiện nhiệm vụ. Lo âu trước PT đã được tìm thấy là các yếu tố nguy cơ của kết
quả xấu sau PT cũng như tỉ lệ bệnh tật và tử vong [31]. Theo Kagan và Bar-Tal
(2006) [38] khẳng định rằng sự lo âu trước PT tương quan thuận với nỗi đau, buồn
nôn, mệt mỏi và khó chịu, nhu cầu nghỉ ngơi tại giường, rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi,
thiếu vận động, chất lượng cuộc sống giảm, thời gian lưu trú, tình cảm phục hồi và
liều lượng thuốc trong quá trình gây mê.
1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng lo âu của người bệnh trước phẫu
thuật
Theo Seifu Nigussie [1], có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý
NB, như đặc điểm các giai đoạn phát triển và những dấu hiệu đặc trưng của bệnh,
đặc điểm nhân cách, các yếu tố nhiễm trùng, nhiễm độc, các yếu tố môi trường:
người chăm sóc lúc nằm viện, chẩn đoán bệnh, số ngày nằm viện, bệnh kèm theo,
số lần PT trước, phương pháp PT, sự hỗ trợ từ bạn bè/gia đình, sự hỗ trợ từ NVYT,
nhận thức về bệnh của NB.
1.8.1.1.

Yếu tố nhân khẩu học


Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có sự liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu
học với điểm số lo âu của NB trước PT, phụ nữ có điểm số lo âu trước PT cao hơn
nam giới [39],[40]. Điểm lo âu trước PT tăng theo trình độ giáo dục và giảm dần
theo tuổi [1],[41]. Mức độ lo âu cao hơn đáng kể ở người độc thân, ly dị [1],[42].


15

Những người làm nghề nội trợ có điểm lo âu cao hơn những người đang làm việc và
những người nghỉ hưu [43]
1.8.1.2.

Yếu tố bệnh tật

Theo nghiên cứu của Henok Mulugeta đã chỉ ra rằng NB có tiền sử trải
nghiệm PT trước đây ít lo âu hơn so với NB lần đầu tiên PT [44]. Theo HernandezPalazon J và cộng sự, thời gian chờ trước PT > 2 ngày là yếu tố nguy cơ đáng kể với
chứng lo âu trước PT [24].
Theo Ali, Achmet và cộng sự, phương pháp PT (mổ nội soi hay mổ mở)
cũng là một trong những yếu tố tác động đến sự lo âu của NB trước PT [45].
1.8.1.3.

Yếu tố hỗ trợ của người thân

Khi nằm viện, NB thường có tâm lý mặc cảm lo âu cho người thân trong gia
đình, sợ bệnh tật sẽ làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình, sợ bản thân sẽ là
gánh nặng cho gia đình, sợ không được người thân quan tâm [35].
Theo Seifu Nigussie, đã chỉ ra lý do phổ biến nhất của sự lo âu là nỗi sợ
không nhận được đủ sự quan tâm từ những người chăm sóc [1]. Theo Nguyễn Tấn
Việt, tăng cường sự hỗ trợ từ gia đình sẽ làm giảm đáng kể tình trạng lo âu của NB
trước PT [30]

1.8.1.4.

Yếu tố hỗ trợ của nhân viên y tế

Giữa NB và NVYT là mối quan hệ giữa con người với con người, giữa nhân
cách với nhân cách. Điều trị NB một cách toàn diện, nghĩa là người thầy thuốc đồng
thời với quá trình tích cực cứu chữa bệnh tật, phải hết lòng chăm lo, nâng đỡ tâm lý,
tinh thần cho NB, giúp cho người khắc phục các yếu tố gây stress, tránh những gánh
nặng tâm lý trong khám, chữa bệnh cũng như trong quá trình hồi phục sức khỏe
[37]. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng NB được NVYT hướng dẫn giáo dục
trước PT đã giúp họ giảm đáng kể lo âu trước PT [46].
1.8.1.5.

Yếu tố hiểu biết về bệnh của người bệnh

Theo nghiên cứu của Vandana BN và cộng sự tại Ấn Độ chỉ ra rằng những
NB được thông báo rõ về quy trình PT trước đó có sự lo âu trước PT ít hơn đáng kể


16

so với những người không biết [47], điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Seifu Nigussie và cộng sự [1].
1.4.5. Các vấn đề lo âu của người bệnh trước phẫu thuật
Theo kết quả của các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra NB trước phẫu thuật
thường lo âu về các vấn đề sau:

- Không tỉnh sau gây mê/PT [1],[48],[49]
- Tử vong do gây mê [49], [44]
- Đau sau PT [41], [48]

- Ảnh hưởng xấu từ sai sót trong PT [1]
- Phẫu thuật có khả năng bị hoãn lại [1], [41]
- Sai lầm do PT [1]
- Phẫu thuật không thành công [44]
- Tử vong do PT [1]
- Môi trường bệnh viện không thoải mái [12]
- Thời gian chờ đợi phẫu thuật lâu [30]
- Không có khả năng trả viện phí [1]
- Không có thu nhập vì nằm viện [30]
1.4.

Thực trạng chăm sóc người bệnh trước phẫu thuật dạ dày tại bệnh viện
Hữu nghị Việt Đức
Chăm sóc tâm lý NB trước PT là cần thiết đối với sự an toàn, phục hồi sức

khỏe của NB, trong đó vai trò ĐD quan trọng [50]. Theo Liddle.C (2012), chuẩn bị
tâm lý NB tốt, đặc biệt là tư vấn, giáo dục sức khỏe trước PT có thể làm giảm sự lo
âu một cách hiệu quả ở những NB trước PT tim [51].
Hàng năm, tại BV Hữu nghị Việt Đức có rất nhiều NB điều trị PT dạ dày.
Theo thống kê của BV, trong năm 2019, tại BVHN Việt Đức có hơn 6000 ca PT tiêu
hóa, trong đó PT dạ dày có khoảng 650 ca (chiếm 11%), [13].
Công tác chăm sóc NB trước PT nói chung và trước PT dạ dày nói riêng tại
BV HN Việt Đức là một trong những công việc phổ biến của người ĐD, được thực


17

hiện thường quy hàng ngày. Sau khi NB được hội chẩn có chỉ định PT, NB sẽ được
bác sỹ điều trị giải thích về ca phẫu thuật, bao gồm các chỉ định điều trị, phương
pháp phẫu thuật dự kiến, những rủi ro có thể xảy ra. Sau đó ĐD sẽ thực hiện công

việc chuẩn bị mổ cho NB vào ngày trước mổ theo quy trình chuẩn bị NB trước mổ
đã được bệnh viện xây dựng (phụ lục 1), bao gồm:
Chăm sóc tinh thần; Chăm sóc dinh dưỡng; Vệ sinh cá nhân; Thực hiện
thuốc và các chỉ định điều trị khác cho NB.
Nhìn chung, theo thông tư số 07/2011/TT-BYT (Hướng dẫn công tác ĐD về
chăm sóc NB trong bệnh viện) [52], các ĐD đã thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc
người bệnh có chỉ định PT, thủ thuật. Tuy nhiên, trong thực tế, công tác chăm sóc
tinh thần NB còn chưa được chú trọng nhiều, ĐD chưa thực sự tìm hiểu tâm lý,
đánh giá được sự lo lắng, các yếu tố liên quan đến sự lo âu của NB khi phải đối diện
với ca mổ có nhiều nguy cơ rủi ro. Để công tác chăm sóc NB trước PT thực sự được
toàn diện đạt hiệu quả cao cần phải có những nghiên cứu về vấn đề này, BV cần ban
hành những hướng dẫn, quy định cụ thể trong việc đánh giá mức độ lo âu cũng như
việc tìm hiểu tâm lý của NB trước PT để đảm bảo sự an toàn, nâng cao chất lượng
chăm sóc và điều trị hướng đến sự hài lòng NB.
1.5.

Tình hình nghiên cứu về sự lo âu của người bệnh trước phẫu thuật dạ
dày

1.6.1. Trên thế giới
Tìm kiếm tài liệu trên internet, Cochrane, PubMed, Google scholar với các từ
khóa tìm kiếm như: Anxiety, anxiety before surgery, anxiety before stomach surgery,
preoperative care. Chúng tôi đã tìm được nhiều nghiên cứu từ Anh, Hà Lan, Ba Lan,
Thổ Nhĩ Kỳ, Bồ Đào Nha, Pakistan, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia…
Kết quả cho thấy đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về sự lo âu của NB trước
PT. Tình trạng lo âu trước PT của NB đa số ở mức độ trung bình và có sự khác nhau
về các yếu tố liên quan đến lo âu trước PT ở các nghiên cứu. Theo một nghiên cứu
tại Ethiopia (2014) đã chỉ ra rằng 70,3% NB lo âu đáng kể trước PT (điểm lo âu
>44, theo thang điểm state-trait anxiety inventory (STAI)), các yếu tố liên quan đến



18

sự lo âu là độc thân hoặc li hôn, thời gian PT và thu nhập. Yếu tố liên quan đến việc
làm giảm lo âu trước PT của NB là sự cung cấp thông tin liên quan đến cuộc PT của
người chăm sóc sức khỏe [1]
Cũng theo thang điểm STAI, tại nghiên cứu của Asiye Gul và cộng sự [53],
điểm trung bình tình trạng lo âu trước PT của NB là 44,74±11,91 và có mối liên
quan giữa lo âu trước PT với tổng liều gây mê. Theo kết quả một nghiên cứu tại Bồ
Đào Nha, điểm trung bình tình trạng lo âu trước PT là 3,47±3,71 (theo thang điểm
Anxiety, Depression and Stress Scale-21 (DASS-21)) và có sự khác biệt giữa tâm lý
trước PT và chẩn đoán lâm sàng [54]. Tại Trung Quốc, 47,4% NB có triệu chứng lo
âu vừa hoặc nặng khi đợi PT [55]. Theo kết quả nghiên cứu của Sadati và cộng sự
[56] cho thấy sự quan tâm của ĐD đối với NB làm giảm sự lo âu trước PT và biến
chứng sau PT của NB. Theo kết quả nghiên cứu của Rosiek và cộng sự [57] cho
thấy không chỉ các yếu tố bên trong cá nhân (đau, bệnh tật và sự chịu đựng) mà còn
những yếu tố bên ngoài (gây mê, PT và biến chứng sau PT) là những nguyên nhân
của lo âu trước PT. Phụ nữ thường lo âu nhiều hơn nam giới. Một nghiên cứu khác
tại Pakistan cho thấy 62% NB có lo âu trước PT và có liên quan với nữ giới, tuổi
trẻ, trình độ học vấn và đã có PT trước đó [39].
Có sự khác nhau về các vấn đề lo âu trước PT của NB ở các nghiên cứu.
Theo Ebirim & Tobin (2010) [41], 90% NB có lo âu trước PT, vấn đề lo âu chiếm
đa số là tiến trình PT bị hoãn lại. Theo Mitchell (2011) [58], 82,4% NB lo âu trước
PT, với sự chờ đợi, gây mê và giảm đau là những lo âu phổ biến, đồng thời sự khác
biệt về giới tính cũng liên quan đến sự lo âu trước PT. Một nghiên cứu khác tại
Malaysia cho thấy 78,8% NB lo âu trước PT vùng bụng, trong đó 47,5% ở mức độ
lo âu cao. Nghiên cứu cũng đưa ra những thông tin quan trọng mà NB cần có để
giảm lo âu là chi tiết cuộc PT, chi tiết về chăm sóc ĐD và thông tin về gây mê [59].
Theo Mavridou (2013) [60], 80% NB lo âu trước PT, những vấn đề lo âu chính của
NB là đau sau PT (84%), không tỉnh sau PT (64,8%), nôn và buồn nôn (60,2%).

Một nghiên cứu với 500 NB trước PT tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy 62% NB lo âu trước


19

PT ở mức độ vừa, có liên quan đến các đặc điểm nhân khẩu xã hội học của NB và
sự hỗ trợ của xã hội [61].
1.6.2. Tại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Hoàng Long [31] đã sử dụng bộ câu hỏi Hospital Anxiety
Depression Scale-Anxiety (HADS-A) để đánh giá sự lo âu trước PT ổ bụng và cho
thấy điểm trung bình lo âu trước PT là 6,9±3,4, trong đó có 55,8% NB lo âu ở mức
độ nhẹ, 41,5% NB lo âu ở mức độ trung bình và hơn. Nghiên cứu cũng sử dụng bộ
công cụ Multi-Dimensional Support Scale (MDSS) để đánh giá sự hỗ trợ xã hội và
cho kết quả giá trị trung bình chung của sự hỗ trợ xã hội là 13,8±3,2, trong đó sự hỗ
trợ từ gia đình là 8,39±2,9, từ NVYT là 5,4±2,2. Sử dụng bộ câu hỏi Hospital
Anxiety Depression Scale-Anxiety (HADS-A) để đánh giá sự lo âu của NB trước
PT vùng bụng tại Phú Thọ cho thấy NB lo âu ở mức độ trung bình (8,22±3,82), có
mối liên quan giữa nhận thức về bệnh của NB, sự hỗ trợ của NVYT với sự lo âu
trước PT của NB [12]. Theo tác giả Thái Hoàng Để và cộng sự lo âu trước PT
chiếm tỉ lệ 83,43% tại An Giang [62]. Một nghiên cứu khác tại Thái Nguyên cho
thấy giá trị trung bình lo âu trước PT vùng bụng là 51,65±8,28 và có mối liên quan
với thời gian chờ PT [11]. Gần đây nhất Bộ công cụ HAD-A và MDSS cũng được
tác giả Nguyễn Tấn Việt (2018) sử dụng nghiên cứu trên 96 NB trước PT tiết niệu tại
BV Y dược TP. Hồ Chí Minh để xác định mức độ lo âu và các yếu tố liên quan đến lo
âu trước PT và các vấn đề hỗ trợ từ xã hội. Kết quả đã chỉ ra mức độ lo âu của NB là
16,7%. Mối quan tâm từ gia đình trung bình là 13,2 ± 3,2 điểm, điểm hỗ trợ từ NVYT
trung bình là 9,4 ± 2,7. Các yếu tố cho thấy để giảm tình trạng lo âu là cung cấp đầy đủ
thông tin và tăng cường sự hỗ trợ từ gia đình [30].
Như vậy hiện tại đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về sự lo âu
trước PT nhưng nghiên cứu về tình trạng lo âu của NB trước PT dạ dày còn hạn chế.

Các nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra các mối liên quan đến tình trạng lo âu như nhận
thức về bệnh, sự hỗ trợ của NVYT.
1.6.

Học thuyết sự thoải mái của Katharine Kolcaba và sự ứng dụng trong
nghiên cứu

1.7.1. Học thuyết sự thoải mái của Katharine Kolcaba


20

Học thuyết thoải mái là một Học thuyết điều dưỡng được phát triển lần đầu
tiên vào những năm 1990 bởi Katharine Kolcaba. Học thuyết thoải mái là Học
thuyết tập trung cho thực hành y tế, giáo dục và nghiên cứu. Học thuyết của
Kolcaba có khả năng đặt sự thoải mái một lần nữa lên hàng đầu trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe [63].
Kolcaba mô tả sự thoải mái như tồn tại dưới 3 hình thức: nhẹ nhõm, dễ dàng
và siêu việt. Ngoài ra, Kolcaba đã mô tả 4 bối cảnh trong đó sự thoải mái của người
bệnh có thể xảy ra: thể chất, tâm thần, môi trường và văn hóa xã hội [64] .

- Nếu nhu cầu thoải mái cụ thể của bệnh nhân được đáp ứng, ví dụ, giảm đau sau
phẫu thuật bằng cách sử dụng thuốc giảm đau theo quy định, cá nhân trải nghiệm sự
thoải mái theo nghĩa nhẹ nhõm.

- Nếu bệnh nhân ở trạng thái thoải mái, người bệnh cảm thấy thoải mái theo nghĩa dễ
chịu, ví dụ, người ta có thể cảm thấy như thế nào sau khi gặp vấn đề gây lo lắng.

- Cuối cùng, siêu việt được mô tả là trạng thái thoải mái trong đó bệnh nhân có thể
vượt lên trên các thách thức của họ.

Kolcaba đã đưa ra các khái niệm:

- Nhu cầu Chăm sóc Sức khỏe (health care needs) là những nhu cầu được xác định
bởi bệnh nhân/gia đình trong một môi trường thực hành cụ thể. Kolcaba xác định
nhu cầu chăm sóc sức khỏe là những nhu cầu cho sự thoải mái, phát sinh từ những
tình huống chăm sóc sức khỏe mà điều này không có ở hệ thống chăm sóc sức khỏe
truyền thống. Những nhu cầu này bao gồm nhu cầu về thể chất, tinh thần, môi
trường và xã hội tạo nên sự theo dõi xuyên suốt và có thể báo cáo bằng lời hoặc
không bằng lời, những nhu cầu này liên quan đến những chỉ số sinh lý bệnh, nhu
cầu giáo dục, hỗ trợ; nhu cầu về tư vấn và can thiệp tài chính [65]

- Can thiệp thoải mái là các hành động điều dưỡng được thiết kế để giải quyết các
nhu cầu thoải mái cụ thể của người bệnh, bao gồm các can thiệp về sinh lý, xã hội,
văn hóa, tài chính, tâm lý, tinh thần, môi trường và thể chất [66].

- Các biến can thiệp là những yếu tố có khả năng tác động đến sự nhận thức của con
người về sự thoải mái, bao gồm: tuổi, trạng thái cảm xúc, tiên lượng, tình hình tài
chính, mức độ hỗ trợ [65].

- Đo lường sự thoải mái (comfort measures)


21

- Đo lường sự thoải mái được xác định qua những can thiệp điều dưỡng được
xây dựng theo những nhu cầu thoải mái cụ thể của người nhận, bao gồm sinh lý,
xã hội, tài chính, tâm lý, tinh thần, môi trường và can thiệp về thể chất [65]
Thoải mái (comfort) là một kết quả mong muốn trong chăm sóc điều dưỡng,
theo thuyết thoải mái. Học thuyết về sự thoải mái coi NB là cá nhân, gia đình, tổ
chức hoặc cộng đồng cần chăm sóc sức khỏe. Môi trường là bất kỳ khía cạnh nào

của NB, gia đình hoặc môi trường xung quanh (có thể được điều dưỡng hoặc người
thân) để tăng cường sự thoải mái. Sức khỏe được coi là hoạt động tối ưu ở NB [67]
Trong mô hình, điều dưỡng được mô tả là quá trình đánh giá nhu cầu thoải
mái của NB, xây dựng và triển khai các kế hoạch chăm sóc điều dưỡng phù hợp và
đánh giá sự thoải mái của NB sau khi các kế hoạch chăm sóc được thực hiện. Điều
dưỡng bao gồm đánh giá có chủ ý về nhu cầu thoải mái, thiết kế các biện pháp thoải
mái để giải quyết các nhu cầu đó và đánh giá lại mức độ thoải mái sau khi thực hiện
các biện pháp. Đánh giá có thể là khách quan, chẳng hạn như quan sát chữa lành vết
thương, hoặc chủ quan, chẳng hạn như hỏi NB xem có thoải mái không [67].
1.7.2. Phát triển học thuyết
Kolcaba đã tiến hành phân tích khái niệm về sự thoải mái khi kiểm tra tài
liệu từ một số ngành bao gồm điều dưỡng, y học, tâm lý học, tâm thần học. Đầu
tiên, ba loại thoải mái (nhẹ nhõm, dễ chịu, siêu việt) và bốn bối cảnh trải nghiệm
toàn diện của con người trong các khía cạnh khác nhau của bối cảnh trị liệu đã được
giới thiệu [64]. Một cấu trúc phân loại đã được phát triển để hướng dẫn đánh giá, đo
lường và đánh giá sự thoải mái của NB [68]. Thoải mái như quá trình và sản phẩm
hợp nhất trong nghệ thuật điều dưỡng toàn diện [69].
1.7.3. Ứng dụng học thuyết trong nghiên cứu
NB trước gây mê và PT thường đối mặt với lo âu và căng thẳng. Họ phải
thích nghi hoặc đối phó với tình huống này để lấy lại quyền kiểm soát cảm xúc [36].
Mặt khác, căng thẳng như vậy có thể vượt quá khả năng chịu đựng của NB và có
thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phục hồi sau PT [4],[70].
Xác định tình trạng lo âu và giúp giảm lo âu trước PT để NB được thoải mái
là nhiệm vụ của ĐD nhằm giúp NB có những phản ứng tích cực trước ca PT. Bên
cạnh việc xác định tình trạng lo âu của NB, người ĐD cần tìm những yếu tố nào ảnh


22

hưởng đến sự lo âu đó và có kế hoạch chăm sóc cụ thể cho NB. Ứng dụng mô hình

lý thuyết về sự thoải mái của Kocalba trong nghiên cứu, nhóm nghiên cứu xác định
nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NB trong trường hợp này là nhu cầu giảm lo lắng,
căng thẳng trước PT; can thiệp ĐD là sự hỗ trợ của ĐD; biến số can thiệp là các yếu
tố tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, số ngày nằm viện, số lần PT trước, phương
pháp PT và sự nhận thức về bệnh của NB.
1.7.4. Khung lý thuyết nghiên cứu các yếu tố liên quan đến lo âu ở người bệnh
trước phẫu thuật dạ dày
LO ÂU CỦA NGƯỜI BỆNH TRƯỚC
PHẪU THUẬT DẠ DÀY
Đặc điểm
người bệnh
-

Tuổi
Giới
Khu vực sinh sống
Trình độ giáo dục
Sự hỗ trợ từ người
Tình trạng hôn nhân
thân và NVYT
Tôn giáo
Nghề nghiệp
Tình trạng kinh tế
BHYT
Số người thân chăm
Số lần phẫu thuật
sóc

Sự hiểu biết
về bệnh tật


Đặc điểm bệnh tật

bệnh mãn tính
kèm theo

Thời gian chờ

Phương pháp

Có chẩn đoán

phẫu thuật

phẫu thuậtt

ung thư


23

Sơ đồ 1.2: Các yếu tố liên quan đến lo âu NB trước PT dạ dày

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Tại 3 khoa có NB phẫu thuật dạ dày theo chương trình (PT cấp cứu tiêu hóa,
PT tiêu hóa, Ung bướu), bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3/2020 đến tháng 7/2021. Trong đó:

- Thời gian viết đề cương nghiên cứu từ tháng 03/2020 đến tháng 06/2020
- Thời gian lấy số liệu từ tháng 9/2020 đến tháng 12/2020.
- Thời gian xử lý số liệu và viết báo cáo từ tháng 1/2021 đến tháng 4/2021
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là NB điều trị nội trú tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
thỏa mãn tiêu chuẩn nghiên cứu.
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:

- Người bệnh từ 18 tuổi trở lên có chỉ định PT dạ dày theo chương trình.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ:

- NB không biết đọc và viết
- NB có bệnh tâm thần kèm theo.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu:
Mô tả cắt ngang
2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu


24

2.3.2.1. Cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng:
Cỡ mẫu được xác định dựa trên công thức tính cỡ mẫu cho việc ước lượng
một tỷ lệ trong quần thể:
Trong đó:
- n: cỡ mẫu tối thiểu cần thiết;
- α: mức ý nghĩa thống kê


(Chọn α = 0,05 ứng với độ tin cậy 95%, ta có Z(1 – α/2) = 1,96);
- p: tỷ lệ lo âu trước phẫu thuật của một nghiên cứu tương tự.
- d: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tham số mẫu và tham số quần thể
(d=0,07 với mong muốn độ chính xác là 93%).
Theo kết quả nghiên cứu của Thái Hoàng Để và cộng sự [62], tỷ lệ này là 83%
(p=0,83). Thay vào công thức trên, n= 110. Sau khi làm tròn và thêm 10% tỷ lệ bỏ
nhóm nghiên cứu dự kiến lấy cỡ mẫu là 121 NB có chỉ định PT dạ dày theo chương
trình.
2.3.2.2. Phương pháp chọn mẫu
Tổng số người bệnh PT cắt dạ dày trung bình một quý từ 100 -120 NB. Vì
thời gian nghiên cứu có hạn nên nhóm nghiên cứu thực hiện chọn NB theo hình
thức chọn mẫu thuận tiện, trong thời gian nghiên cứu chọn những NB đủ tiêu chuẩn
tham gia nghiên cứu cho đến khi đủ cỡ mẫu là 121 NB.
2.4. Công cụ nghiên cứu
2.4.1. Cấu trúc bộ công cụ
Bộ câu công cụ gồm 5 phần (phụ lục 1)

- Phần A: Bao gồm đặc điểm nhân khẩu học và thông tin về bệnh gồm 18 câu (từ câu
A1 đến A18).

- Phần B: Thang đo HADS-A, gồm 7 câu (từ câu B1 đến câu B7) Đánh giá mức độ lo
âu của NB trước PT dạ dày.

- Phần C: Đánh giá các vấn đề lo âu của NB, 1 câu hỏi có 12 ý là 12 vấn đề lo âu của
NB chờ PT.

- Phần D: Thang đo hỗ trợ đa chiều (MDSS), từ câu D1 đến D11 đánh giá sự hỗ trợ từ
gia đình và xã hội.


- Phần E: Bộ câu hỏi nhận thức về bệnh tật ngắn gọn (BIPQ), từ câu E1 đến E9


25

đánh giá sự nhận thức về bệnh của NB.
2.4.2. Tính giá trị và độ tin cậy của bộ công cụ

- Mức độ lo âu được đo lường bằng bộ câu hỏi Hospital Anxiety Depression Scale –
Anxiety (HADS-A). HADS-A được phát triển bởi Zigmond và Snaith (1983) [27].
Bộ câu hỏi HADS-A đã được dịch sang tiếng Việt và được sử dụng trong nhiều
nghiên cứu tại Việt Nam [12], [31], [30] để đánh giá lo âu trước PT của NB. Tại
nghiên cứu của Đỗ Cao cường, chỉ số giá trị nội dung của HADS-A là 1, Cronbach
alpha là 0,81 [12].

- Thang đo hỗ trợ đa chiều (MDSS) được phát triển bởi Winefield.H và cộng sự [71]
đã được dịch sang tiếng Việt và đã được kiểm tra về tính giá trị cũng như độ tin cậy
của thang đo. Trong nghiên cứu của Đỗ Cao Cường, chỉ số Cronbach alpha cả bộ
câu hỏi (11 câu) là 0,9, của 6 câu đánh giá sự hỗ trợ từ bạn bè và gia đình là 0,85,
của 5 câu đánh giá sự hỗ trợ của NVYT là 0,81 [12]. Trong nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Hoàng Long thực hiện tại BV hữu nghị Việt Đức năm 2010 các chỉ số này
là 0,74; 0,80 và 0,79 [31].

- Bộ câu hỏi nhận thức về bệnh tật ngắn gọn BIPQ được phát triển bởi Broadbent và
cộng sự (2006) [72]. Bộ câu hỏi đã được dịch sang tiếng Việt và đã được tác giả Đỗ
Cao Cường sử dụng nghiên cứu trên NB trước PT ổ bụng. Bộ câu hỏi cho thấy được
độ tin cậy tốt, sự tương quan 0,81 với mức ý nghĩa 0,01 [12].

- Trong nghiên cứu này, đã sử dụng bộ công cụ nghiên cứu được thiết lập bao gồm 3
thang đo trên cùng đặc điểm nhân khẩu học, thông tin về bệnh và vấn đề lo âu của

NB trước PT dạ dày, phần này được xây dựng dựa trên các nghiên cứu đã được
công bố về yếu tố nguy cơ của lo âu trước PT.
2.4.3. Biến số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá
2.4.3.1. Biến số nghiên cứu

- Biến số phụ thuộc: Điểm lo âu trước PT dạ dày
- Các biến đôc lập: Biến độc lập được chia làm 4 nhóm:
• Đặc điểm người bệnh (Tuổi, giới, ngày nhập viện, khu vực sinh sống, tôn

giáo, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, tình trạng kinh


×