Tải bản đầy đủ (.docx) (143 trang)

GIÁO dục PHÒNG CHỐNG nạn tảo hôn CHO vị THÀNH NIÊN dân tộc THIỂU số TRÊN địa bàn HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH sơn LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.16 KB, 143 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

NGUYỄN ĐĂNG THÀNH

GIÁO DỤC PHÒNG CHỐNG NẠN
TẢO HÔN CHO VỊ THÀNH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2019
2


3


4


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

NGUYỄN ĐĂNG THÀNH

GIÁO DỤC PHÒNG CHỐNG NẠN
TẢO HÔN CHO VỊ THÀNH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN


HUYỆN QUỲNH NHAI, TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Trung Dũng

HÀ NỘI - 2019
5


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Sơn La, ngày 28 tháng 5 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Đăng Thành


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến: TS. Mai Trung Dũng,
người đã tận tình hướng dẫn và trực tiếp giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện,
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy, cô trường Đại học sư phạm Hà Nội;
quý thầy, cô trong hội đồng khoa học đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ, lãnh đạo các sở,
ban ngành tỉnh Sơn La, các đồng chí cán bộ, lãnh đạo huyện Quỳnh Nhai đã
tạo điều kiện cho tôi được tìm hiểu số liệu và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu
quý báu để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Xin được được gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cung cấp và chia sẻ những tư
liệu cần thiết trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tuy đã rất cố gắng, song luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong các thầy cô, đồng nghiệp tận tình góp ý, chỉ bảo để luận văn
được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn!
Sơn La, ngày 28 tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Đăng Thành

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


VTN
DTTS
NTH

:
:

Vị thành niên
Dân tộc thiểu số
Nạn tảo hôn



MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vị thành niên là người trong độ tuổi 10 - 19, là giai đoạn chuyển tiếp
từ trẻ em thành người trưởng thành, là nhóm đối tượng có sự thay đổi nhiều
về thể chất, tinh thần. VTN cũng là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất.
Sự thiếu hiểu biết về chăm sóc sức khỏe sinh sản của VTN như về tâm lý,
sinh lý tuổi vị thành niên, tình bạn, tình yêu, hôn nhân gia đình, về các biện
pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh nhiễm khuẩn
đường sinh sản cũng như vấn đề kết hôn sớm, hoạt động tình dục sớm,
không an toàn chính là nguy cơ đối với sức khỏe ở lứa tuổi VTN, đặc biệt
đối với các VTN nữ.
Nạn tảo hôn có xu hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, nhất
là tại các tỉnh miền núi, vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
thậm chí cả khu vực đô thị [1]. Tảo hôn không chỉ vi phạm pháp luật mà còn
gây ra hậu quả rất lớn đối với cá nhân, gia đình và xã hội; làm gia tăng nhanh
số lượng và giảm chất lượng dân số, trực tiếp ảnh hưởng đến việc chăm sóc,
giáo dục trẻ em. Tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm sinh lý, sức
khỏe sinh sản của người phụ nữ, nhất là trẻ em gái. Bởi các em chưa đủ tuổi
trưởng thành, cơ thể phát triển chưa hoàn thiện, việc quan hệ tình dục sớm,
mang thai, sinh đẻ, nuôi con sớm làm chậm quá trình phát triển thể chất tự
nhiên của con người, dẫn tới thoái hóa và các di chứng bệnh tật, làm suy kiệt
sức khỏe của bố, mẹ và con.
Cả xã hội rất bức xúc về NTH. Theo một số tài liệu nước ngoài cũng như
ở Việt Nam cho thấy, trong khoảng từ vài thập kỉ cuối thế kỉ XX, vấn đề này

được các nhà tâm lí học cùng nhà trường, các bậc phụ huynh, các nhà giáo rất
quan tâm. Đây không chỉ là một vấn đề xã hội, vấn đề tâm lí học, mà là còn một
vấn đề của pháp luật. Trên các trang mạng, cả tiếng Việt và tiếng Anh đều công

10


bố nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này bao gồm: hiện trạng, vi phạm lứa
tuổi, nguyên nhân, giải pháp phòng chống NTH và đã bàn luận về bản chất của
NTH.
Thống kê của cuộc điều tra 53 DTTS năm 2015, vùng trung du miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ tảo hôn cao hơn so với các vùng khác.
Trong độ tuổi từ 10- 17 tuổi, bình quân cứ 10 em trai thì có 1 em có vợ; cứ 5
em gái thì 1 em có chồng. Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao nhất trong cả nước
như: Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng,
Bắc Kạn, Kon Tum, Gia Lai. Trong đó, tỉnh Lai Châu có tỷ lệ tảo hôn cao
nhất, tới 18,6% [dẫn theo 20]. Riêng tỉnh Sơn La, từ năm 2015 đến nay, toàn
tỉnh có gần 500 cặp tảo hôn, 2 cặp kết hôn cận huyết thống [dẫn theo 12], đặc
biệt ở huyện Vân Hồ có tỷ lệ tảo hôn lên đến 68% (tính riêng năm 2015, Vân
Hồ có 100 cặp tảo hôn và 47 cặp tảo hôn trong 6 tháng đầu năm 2016).
Vấn nạn này là rào cản đối với việc hoàn thành các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ Việt Nam đã cam kết như: giảm nghèo đói, phổ cập giáo dục,
tăng cường bình đẳng giới, cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Tảo hôn sẽ
làm tăng sự phát triển dân số tự nhiên, làm tăng độ dày giữa các thế hệ, có
ảnh hưởng đến chất lượng và nòi giống của thế hệ trẻ mai sau đồng thời còn
ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người tảo hôn. Không những thế, tảo hôn
còn ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước về kinh tế cũng như chất lượng
cuộc sống của con người. Đó là những tác hại khó lường trước được, vì thế
tập tục tảo hôn là một thực tế khách quan, một hiện tượng xã hội cần được
nghiên cứu một cách nghiêm túc để tìm ra đúng nguyên nhân và đề ra những

biện pháp ngăn ngừa có tính hiệu quả tiến tới ngăn chặn hiện tượng tảo hôn,
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, góp phần vào sự phát
triển nền văn hóa của đất nước, có thể hội nhập với nền văn hóa thế giới trong
thời đại mới.

11


Huyện Quỳnh Nhai là huyện miền núi của tỉnh Sơn La với đa số là
người DTTS đang sinh sống. Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở đây
vẫn còn xảy ra, công tác giáo dục, tuyên truyền về NTH cho VTN dân tộc
thiểu số chưa được chú trọng, đội ngũ cộng tác viên dân số tham gia công tác
này chưa được huấn luyện một cách chuyên nghiệp và bài bản. Trong thời
gian qua cũng đã có một số nghiên cứu về NTH nhưng chưa nhiều. Vấn đề
đặt ra cho nghiên cứu này là: VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh
Nhai, tỉnh Sơn La hiểu biết về NTH như thế nào? Nguyên nhân gây nên tình
trạng trên? Vì sao công tác phòng chống NTH của cho VTN dân tộc thiểu số
trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La hiện nay chưa đạt hiệu quả cao?
Liệu có thể tìm được một cách tiếp cận hợp lý góp phần tìm lối thoát cho vấn
NTH nói chung, VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh
Sơn La nói riêng?
Xuất phát từ những căn cứ trên, chúng tôi chọn vấn đề “giáo dục
phòng, chống nạn tảo hôn cho vị thành niên dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng tảo hôn của VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La. Đề xuất các biện pháp giáo dục phòng chống
NTH cho VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La,
góp phần giảm thiểu tình trạng tảo hôn, đảm bảo việc thực hiện quyền của trẻ
VTN ở khu vực này.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Các hoạt động giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

12


Hoạt động giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số trên
địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La với sự tham gia của cộng đồng.
4. Vấn đề nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, một số vấn đề sau đây được đưa ra để xem xét:
- VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La
hiểu biết về NTH như thế nào? Nguyên nhân gây nên tình trạng trên?
- Vì sao công tác phòng chống NTH của cho VTN dân tộc thiểu số trên
địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La hiện nay chưa đạt hiệu quả cao? Liệu
có thể tìm được một cách tiếp cận hợp lý góp phần tìm lối thoát cho vấn NTH
nói chung, VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La
nói riêng?
5. Giả thuyết khoa học
VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La
thiếu hiểu biết về NTH. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý, giáo
dục, tiếp cận thông tin chưa tốt.
Nếu các biện pháp giáo dục tập trung vào nhận thức của VTN và cộng
đồng người DTTS, khai thác được các ảnh hưởng của truyền thống văn hoá từ
cộng đồng, cung cấp thông tin, tài liệu, sản phẩm tuyên truyền về hôn nhân và
ngăn ngừa tảo hôn cho họ. Đồng thời tăng cường quản lý, kiểm tra, phát hiện
sớm các trường hợp có nguy cơ tảo hôn thì sẽ ảnh hướng tích cực đến kết quả
giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La hiện nay.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Phân tích, khái quát hóa cơ sở lý luận về giáo dục phòng chống
NTH cho VTN dân tộc thiểu số.
6.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục phòng chống NTH cho
VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.

13


6.3. Đề xuất các biện pháp giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân
tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
6.4. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi các biện pháp đã đề xuất.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài giải quyết 04 nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra ở mục 6.
- Về đối tượng khảo sát: Đề tài tiến hành khảo sát 300 người bao gồm:
60 cán bộ chính quyền các cấp, ban ngành, đoàn thể; 40 người dân trong cộng
đồng dân cư; 200 VTN dân tộc thiểu số huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Về địa bàn khảo sát: Đề tài nghiên cứu tại các xã: Cà Nàng, Chiềng
Khay, Chiềng Khoang, Mường Giàng, Mường Sại, Pá-Ma-Pha-Khinh, Nậm
Ét trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Về phạm vi về thời gian: Từ 2018 – 2019.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp tiếp cận
Trong đề tài này, tác giả tiếp cận dựa trên các quan điểm sau:
- Tiếp cận dựa vào cộng đồng
- Tiếp cận vì con người
- Tiếp cận hệ thống – cấu trúc
- Tiếp cận quan điểm thực tiễn
8.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
8.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Phân tích, tổng hợp; phân loại, hệ thống hoá các tài liệu trong nước và
ngoài nước có liên quan đến vấn đề giáo dục phòng chống NTH cho VTN nói
chung, VTN dân tộc thiểu số nói riêng.
8.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra bảng hỏi:
Sử dụng bảng hỏi đối với cán bộ chính quyền các cấp, ban ngành, đoàn
thể; người dân trong cộng đồng dân cư; VTN dân tộc thiểu số để khảo sát

14


thực trạng giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số huyện
Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Nhằm thu thập, bổ sung và làm rõ hơn những thông tin mang tính chất
định tính về thực trạng giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số
huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp chuyên gia:
Tiến hành lấy ý kiến một số chuyên gia thuộc lĩnh vực giáo dục và phát
triển cộng đồng thông qua một số hình thức: phiếu hỏi, phỏng vấn trực tiếp,...
để tham vấn họ về những vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục phòng chống
NTH cho VTN dân tộc thiểu số.
- Phương pháp quan sát:
Nhằm thu thập các thông tin cần thiết để đánh giá thực trạng công tác
giáo dụcphòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Nhằm tổng kết kinh nghiệm qua thực tiễn, rút ra bài học về công tác
giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La qua các năm để so sánh và rút ra các bài học kinh

nghiệm về giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số ở khu vực
này.
8.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng toán thống kê để xử lý và phân tích số liệu, thông tin thu được.
9. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân
tộc thiểu số.
Chương 2: Thực trạng giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc
thiểu số huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.

15


Chương 3: Biện pháp giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu
số huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

Chương 1

16


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÒNG CHỐNG
NẠN TẢO HÔN CHO VỊ THÀNH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Nhận thức các quyền cơ bản của con người đối với phụ nữ trẻ là bước
đầu tiên trong mọi cách tiếp cận để vượt qua hôn nhân và hậu quả của nó.

Quyền của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình là một trong những quyền con
người đầu tiên liên quan đến tình trạng phụ nữ được công nhận theo luật quốc tế.
Ủy ban Liên hợp quốc về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, theo dõi các
quốc gia, các hành động liên quan đến Công ước về quyền trẻ em, công nhận
hôn nhân sớm là một truyền thống có hại. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu luật pháp
chống lại hôn nhân trẻ em ở một số khu vực (CRLP1999). Mặc dù nhiều quốc
gia đã thiết lập luật cấm kết hôn trước 18 tuổi, những điều này pháp luật
thường không được thực thi. Hội nghị Thế giới về Phụ nữ lần thứ tư của Liên
hợp quốc tại Bắc Kinh năm 1995 đã mang lại tầm nhìn rõ hơn cho các vấn đề
liên quan đến quyền của phụ nữ trên toàn thế giới, bao gồm cả hôn nhân sớm
của các cô gái vị thành niên. Nền tảng hành động dành cho cô gái của Hội
nghị thế giới lần thứ tư về phụ nữ đã đưa ra một số hành động cần thực hiện,
bao gồm việc tạo ra các chính sách và chương trình để hỗ trợ gia đình trong
vai trò hỗ trợ, giáo dục và nuôi dưỡng, đặc biệt nhấn mạnh vào việc xóa bỏ
phân biệt đối xử trong gia đình đối với cô gái - trẻ con (FWCW 2001). Tuy
nhiên, ngay cả các hội nghị mang tính bước ngoặt cũng không đủ: công việc
lâu dài cũng cần thiết để duy trì các nỗ lực vận động cho quyền của thanh
thiếu niên và biến việc vận động thành các chương trình hiệu quả, (LeFevre,
2004).
Một số công cụ quyền quốc tế và khu vực quan trọng liên quan đến hôn
nhân trẻ em như: Công ước về quyền trẻ em; Tuyên ngôn quốc tế về quyền
con người (1948); Công ước về sự đồng ý kết hôn, tuổi tối thiểu để kết hôn và
17


đăng ký hôn nhân (1964); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
của phụ nữ (1979); Công ước bổ sung của Liên hợp quốc về xóa bỏ chế độ nô
lệ, buôn bán nô lệ, và thể chế và thực tiễn tương tự như chế độ nô lệ (1956);
Kế hoạch hành động để loại bỏ các tập quán truyền thống có hại ảnh hưởng
đến sức khỏe của phụ nữ và trẻ em; Hiến chương châu Phi về quyền con

người và con người; Hiến chương châu Phi về quyền và phúc lợi của trẻ
em (1990)
UNIFPA (2006) trích dẫn ba thỏa thuận quốc tế quan trọng cung cấp
các tiêu chuẩn bổ sung trong việc thực hiện các quyền và sức khỏe sinh sản.
Đó là Dân số và Phát triển Hội nghị Quốc tế năm 1994; Hội nghị Thế giới về
Phụ nữ lần thứ tư năm 1995; và Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp
quốc (UNGASS) năm 2001 và 2006 về HIV/AIDS. Những mốc này thúc đẩy
quyền con người, bình đẳng giới và trao quyền là rất quan trọng đối với sự
phát triển và hạnh phúc của phụ nữ, trẻ em gái và phụ nữ trẻ.
Những công cụ nói trên có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ
quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng.
Ở Việt Nam cũng đã diễn ra một số hội thảo quốc gia, quốc tế bàn về
việc giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết với các chủ đề như:
“Thực trạng và giải pháp giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống
trong đồng bào dân tộc thiểu số” do Ủy ban Dân tộc phối hợp cùng Trung
tâm phát triển truyền thông và sức khỏe tổ chức ngày 2-7/2013, tại Hà Nội.
Hội thảo cũng đã nghe một số tham luận của các đại biểu như tham luận về
tảo hôn và hôn nhận cận huyết thống dưới góc nhìn bình đăng giới của Vụ
Dân tộc thiểu số; tham luận về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các
cộng đồng dân cư trong truyền thông; tham luận về tảo hôn và hôn nhận cận
huyết thống từ tiếp cận đói nghèo và một số tham luận của các đại biểu từ các
tỉnh miền núi như Hòa Bình, Lai Châu, Hà Giang, Kon Tum. Hầu hết các

18


tham luận này đều nêu lên thực trạng của việc tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống đang diễn ra tại một số địa bàn có DTTS sinh sống tại địa phương mình
và nêu ra những khó khăn, thách thức và giải pháp tháo gỡ; “Tình trạng tảo
hôn ở Việt Nam” do Ủy ban Dân tộc phối hợp với Bộ Lao động Thương binh

và Xã hội, Bộ Y tế và Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (gồm các tổ chức:
UNFPA, UNICEF, UN Women) tổ chức ngày 25/10/2016, tại Hà Nội.
Một số nhà khoa học, nhà báo cũng có những bài viết khoa học liên
quan đến vấn đề tảo hôn và giáo dục phòng chốngNTH như: Nguyễn Thị Vân
Anh với công trình: “Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trên địa bàn
các tỉnh miền núi phía Bắc – thực trạng và một số giải pháp, kiến nghị” [1].
Ngô Thị Quỳnh Hoa với công trình: “Giáo dục phòng chống NTH vùng đồng
bào dân tộc ít người huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên”[10]. Bình Minh với
công trình:“Báo động nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vùng
DTTS”[14]. Sơn Nam với công trình:“Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn
nhân cận huyết thống trong vùng DTTS” [16]. Hồng Luận với công
trình:“Giải pháp giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống” [12]. Như
Quỳnh với công trình:“Bình đẳng giới của đồng bào DTTS còn nhiều khoảng
cách”[20].
Các tác giả chủ yếu đề cập các vấn đề liên quan đến khái niệm tảo hôn,
tảo hôn cận huyết, hậu quả, nguyên nhân, các giải pháp phòng chống NTH,...
nhưng nhìn chung chưa có tác giả nào tiếp cận dưới góc độ của giáo dục dựa
vào cộng đồng để nghiên cứu giáo dục phòng chống NTH cho VTN dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La.
Trong nghiên cứu này, tác giả kế thừa những kết quả nghiên cứu nói trên
và đưa ra một hướng tiếp cận nhằm khắc phục những bất cập trong giáo dục
phòng chống NTH cho VTN dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Quỳnh Nhai,
tỉnh Sơn La hiện nay.
1.2. Khái niệm công cụ

19


1.2.1. Vị thành niên
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “VTN là chưa đủ tuổi được pháp luật công

nhận là công dân” [28, tr.1814]
Theo Tổ chức Y tế thế giới: VTN là những người trong độ tuổi từ 10
đến 19 tuổi.
Theo Nguyễn Văn Cư và cộng sự (2008): “VTN là những người ở độ
tuổi từ 10 đến 19 tuổi – là thời kì chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng
thành với những đặc trưng phát triển nhanh về thể chất, tâm sinh lí thể hiện ở
sự tăng trưởng thể lực và trí tuệ” [5, tr.248].
Trong cuốn giáo trình Giáo dục dân số - sức khoẻ sinh sản – Sách dành
cho sinh viên khoa Tâm lí Giáo dục trong các trường Đại học Sư phạm, tác
giả Trần Quốc Thành và cộng sự (2008) định nghĩa: “Tuổi VTN là một giai
đoạn phát triển đặc biệt và mạnh mẽ trong đời của mỗi con người. Đây chính
là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn và đặc đặc trưng bởi sự
phát triển mạnh mẽ cả về thể chất lẫn tinh thần, tình cảm và khả năng hoà
nhập cộng đồng”[21, tr206]. Nhóm tác giả cũng cho rằng: tuổi VTN được
hiểu là giai đoạn từ 10 đến 19 tuổi và nằm trong khoảng thời gian từ lúc dậy
thì đến tuổi trưởng thành [21, tr206].
Trên cơ sở các quan niệm trên, trong luận văn này, chúng tôi quan niệm:
VTN là giai đoạn từ 10 đến 19 tuổi, là giai đoạn phát triển đặc biệt và
mạnh mẽ trong cuộc đời của mỗi con người. Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp
từ trẻ con thành người lớn và đặc đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ cả về thể
chất lẫn tinh thần, tình cảm và khả năng hoà nhập cộng đồng xã hội.
1.2.2. Dân tộc thiểu số
Theo từ Đại từ điển tiếng Việt “DTTS hay dân tộc ít người là dân tộc
có số dân ít cư trú trong cộng đồng quốc gia nhiều dân tộc (có một dân tộc đa

20


số) sống ở vùng hẻo lánh, ngoại vi, vùng ít phát triển về kinh tế - xã hội” [28,
tr.520].

DTTS là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến hiện nay trên thế
giới. Các học giả phương tây quan niệm rằng, đây là một thuật ngữ chuyên
ngành dân tộc học dùng để chỉ những dân tộc có dân số ít [22].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “dân tộc thiểu số” được sử dụng khá phổ biến
trong đời sống xã hội nói chung, trong các văn bản của Đảng, Nhà nước,
Đoàn thể xã hội nói riêng.
Theo nghị định số 5/2011/NĐ – CP ban hành ngày 14/1/2011 về công
tác dân tộc định nghĩa:“DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân
tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”[17].
Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc [6], với khoảng 97.180.605 người
[29]. Trong đó, dân tộc kinh chiếm 86,2% dân số, các dân tộc còn lại chiếm
13,8% dân số. Như vậy, căn cứ vào Nghị định trên, thì dân tộc kinh được hiểu
là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn lại như Thái, Tày, Nùng, Mông, Dao,
Kherme, Chăm, ... được hiểu là DTTS.
Như vậy, DTTS là khái niệm dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít,
chiếm tỉ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc
gia đa dân tộc.
1.2.3. Nạn tảo hôn


Khái niệm

Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:“Tảo hôn là trường hợp
kết hôn trong đó cô dâu và chú rể hoặc một trong hai người là trẻ em hoặc là
người chưa đến tuổi kết hôn”[4].
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Tảo hôn là lấy chồng, lấy vợ quá sớm,
khi chưa đủ tuổi pháp luật cho phép” [28, tr1494].

21



Khoản 4, Điều 8 Luật Hôn Nhân và Gia đình cũng quy định: “Tảo
hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo quy định của pháp luật"[13]. Cũng theo Luật Hôn nhân và Gia
đình thì điều kiện để được kết hôn: “đối với nam là từ đủ 20 trở lên, nữ từ
đủ 18 tuổi trở lên”[13]. Như vậy, về mặt pháp luật, việc kết hôn trước tuổi
theo quy định (tức là nam chưa đủ 20 tuổi và nữ chưa đủ 18 tuổi) gọi là tảo
hôn và bị luật pháp cấm. Nếu kết hôn trong trường hợp mà một bên hoặc cả
hai bên chưa đủ tuổi kết hôn thì cả hai bên đều vi phạm pháp luật hôn nhân
và gia đình.
Trên cơ sở các quan niệm trên, trong luận văn này, chúng tôi quan
niệm: Tảo hôn là trường hợp lấy vợ, lấy chồng khi một trong hai người (cô
dâu hoặc chú rể) hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của
pháp luật.
Nói cách khác, tảo hôn là một cuộc hôn nhân được thực hiện dưới 18
tuổi đối với nữ và dưới 20 tuổi đối với nam, trước khi cô gái và chàng trai sẵn
sàng về mặt thể chất, sinh lý và tâm lý để gánh vác trách nhiệm kết hôn và
sinh con.
Trong đời sống nói chung, pháp luật nói riêng, ta còn bắt gặp khái niệm
tổ chức tảo hôn.
Tổ chức tảo hôn là việc tổ chức cưới vợ, cưới chồng khi một trong hai
trường hợp (cô dâu hoặc chú rể) hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo
quy định của pháp luật. Hành vi này đã bị pháp luật Việt Nam ngăn cấm: “Tổ
chức tảo hôn là việc tổ chức cho những người chưa đủ tuổi kết hôn theo quy
định của pháp luật hôn nhân và gia đình lấy vợ, lấy chồng. Người tổ chức tảo
hôn biết rõ hoặc có căn cứ để biết rõ là cả hai người hoặc một trong hai
người mà mình tổ chức lễ cưới là chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định. Trong
trường hợp, người tổ chức thực sự không biết việc đó hoặc bị nhầm lẫn về độ
tuổi, thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này”[25].


22


Như vậy, tảo hôn và tổ chức tảo hôn đều là hành vi được pháp luật Việt
Nam quy định cụ thể và bị pháp luật cấm.


Hậu quả của tảo hôn

Hậu quả của NTH đã được trình bày trong đề án “Giảm thiểu tình
trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong đồng bào DTTS” của Uỷ Ban Dân
tộc [26]:
- Ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh: Việc kết hôn sớm, mang
thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên khi cơ thể người mẹ chưa phát
triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết, kinh nghiệm và chưa sẵn sàng về mặt tâm
sinh lý để mang thai và sinh con đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự
phát triển bình thường của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đây là một trong nguyên
nhân làm tăng gấp 2 lần tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể thiếu
cân và thấp còi; tăng tỷ lệ tử vong ở nhóm trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi
(tỷ lệ này ở nhóm trẻ em dân tộc thiểu số cao gấp 3 lần so với nhóm trẻ em
dân tộc Kinh); tăng tỷ lệ tử vong của bà mẹ liên quan đến thai sản (ở các
huyện nghèo vùng dân tộc miền núi tỷ lệ này cao gấp 5 lần so với mức bình
quân quốc gia và gấp 4 lần ở một số nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số so với
nhóm phụ nữ dân tộc Kinh);
- Ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi và
chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực cản đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của vùng dân
tộc thiểu số. Tảo hôn và đặc biệt là hôn nhân cận huyết thống còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi và chất lượng nguồn

nhân lực vùng dân tộc thiểu số. Những trẻ em được sinh ra từ các cặp vợ
chồng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống có tỷ lệ mắc các bệnh dị tật bẩm
sinh, chậm phát triển, suy dinh dưỡng, tử vong sơ sinh cao hơn so với những
trẻ em bình thường khác. Những đứa trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng hôn nhân

23


cận huyết thống thì có tới 25% khả năng bị bệnh và 50% mang gen bệnh tan
máu bẩm sinh di truyền Thalassemia. Việt Nam được xếp vào khu vực có
nguy cơ cao với trên 5 triệu người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh, hơn
20.000 bệnh nhân cần được điều trị và mỗi năm có khoảng 2.000 trẻ sinh ra
đã bị bệnh. Ở nước ta, tỷ lệ mang gen bệnh cao tập trung chủ yếu ở vùng khó
khăn, vùng dân tộc thiểu số, vùng có tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống
cao. Thalassemia, hiện tại chưa có phương pháp điều trị khỏi bệnh, người
bệnh cần phải điều trị suốt cả cuộc đời với chi phí rất tốn kém, khoảng tối
thiểu 3 tỷ đồng cho một bệnh nhân nặng được điều trị đến 30 tuổi và nó trở
thành gánh nặng cho gia đình và xã hội, để lại những hậu quả rất nặng nề cho
thế hệ tương lai.
- Rơi vào vòng luẩn quẩn: Đói nghèo - thất học - tảo hôn, kết hôn cận
huyết. Thực tế cho thấy, các tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao, đồng thời tình trạng
tảo hôn, hôn nhân cận huyết cũng gia tăng; tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nghèo đói, thất học và suy giảm
chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoàn thành các mục tiêu
thiên niên kỷ và thực hiện công bằng trong phát triển và tiến bộ xã hội của đất
nước nói chung, giữa miền núi và miền xuôi nói riêng.
Từ những hậu quả trên, chúng ta thấy cần phối hợp các lực lượng cộng
đồng (xã, phường, xóm, bản) trong việc giáo dục phòng chống NTH cho vị
thành niên nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu tình trạng tảo hôn trong đồng bào
DTTS, góp phần bảo vệ giống nòi, nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân

lực vùng DTTS.


Nguyên nhân dẫn đến tảo hôn
Nhiều tác giả coi sự đói nghèo là nguyên nhân số một, rồi đến nhận thức của

người dân, công tác tuyên truyền còn bất cập,...Có tác giả chú ý nhiều hơn đến
nguyên nhân do ảnh hưởng của những quan niệm, thành kiến, phong tục tập quán

24


lạc hậu. Trong một nghiên cứu gần đây, tác giả Nguyễn Văn Mạnh trong công
trình nghiên cứu “Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống của các dân tộc thiểu số
tỉnh Thừa Thiên Huế” đã đúc kết thành 4 nguyên nhân sau: (1) Do ảnh hưởng
nặng nề từ những quan niệm, tập tục lạc hậu; (2) Kinh tế khó khăn, thiếu công ăn
việc làm; (3) Do tình trạng lơi lỏng của pháp luật, các chế tài xử phạt vi phạm hôn
nhân chưa đủ mạnh; (4) Sự phối hợp ngăn ngừa nạn tảo hôn giữa các cấp uỷ đảng,
chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể chưa chặt chẽ và chưa thường
xuyên [15]. Hoặc trong bài viết “Chung tay chống lại nạn tảo hôn, hôn nhân
cận huyết thống” của tác giả Hà Thu cũng đã đúc kết thành 4 nguyên nhân
sau: (1) do xuất phát từ cách suy nghĩ, thói quen của đồng bào vùng DTTS;
(2) do phong tục còn nhiều lạc hậu, trình độ dân trí của đồng bào các DTTS
lại chưa cao; (3) do môi trường sống; (4) vì con đã lỡ mang thai nên không còn
cách nào khác là buộc phải tổ chức đám cưới [24].
Theo Bà Nguyễn Thị Tư, Vụ trưởng Vụ DTTS, Uỷ Ban Dân tộc cho
biết: “Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn, trong đó phải kể
đến các yếu tố như: điều kiện tự nhiên – xã hội nhiều bất lợi; trình độ nhận
thức, dân trí và hiểu biết pháp luật của đại đa số đồng bào còn nhiều hạn
chế; công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật tới người dân ở địa

phương còn yếu kém; tập quan lạc hậu còn tồn tại và ăn sâu, bám rễ lâu đời
ở một số dân tộc thiểu số; đời sống kinh tế - xã hội khó khăn, nghèo
đói,...”[dẫn theo 14]. Trong đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn
nhân cận huyết trong đồng bào DTTS” của Uỷ Ban Dân tộcđã đúc kết thành 6
nguyên nhân sau: (1) Do ảnh hưởng của những quan niệm, thành kiến, phong
tục tập quán lạc hậu; (2) Do những bất cập, hạn chế trong các quy định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các quy định pháp luật liên quan; (3)
Do tác động, ảnh hưởng của những mặt trái của cơ chế thị trường; (4) Do
trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân còn hạn chế; (5) Công tác

25


×