Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Những nhận thức đối với chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) trường hợp của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.5 KB, 49 trang )

1
Chương 1. ABài dịch 1: Báo cáo hợp nhất: Bài thuyết minh từ những con
số
1

Giới thiệu chung:
Nói một cách đơn giản, báo cáo hợp nhất là bản báo cáo tất cả những hoạt động mà

doanh nghiệp đã thực hiện trong năm tài chính trước đó. Nhờ việc nhìn lại những hoạt động
mà doanh nghiệp đã làm thì các bên liên quan sẽ có sự tự tin trong việc đưa ra quyết định, có
lợi cho hoạt động nội bộ của tổ chức và quy mô vốn lưu động. Nói ở nghĩa rộng hơn, những
quyết định này có thể góp phần làm thị trường vốn hoạt động hiệu quả hơn vì vậy mà những
quyết định tài chính mang tính chiến lược có thể được vận hành với một cấu trúc tài chính có
tính chuyên môn hoá cao hơn; một cấu trúc được hưởng mức chi phí vốn thấp do đó tối đa
hóa nguồn lợi của các cổ đông và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Hình thức của doanh nghiệp nộp báo cáo có thể khác nhau từ thương nhân cá thể, công
ty hợp danh, doanh nghiệp vừa và nhỏ cho đến những tập đoàn lớn. Cũng có những trường
hợp doanh nghiệp tồn tại để tạo ra lợi nhuận trong khi những tổ chức khác có thể tồn tại để
tạo ra những giá trị xã hội và văn hoá. Cho dù là hình thức về pháp luật hay khách quan của
doanh nghiệp, tất cả đều được yêu cầu phải báo cáo tình trạng và quy mô của họ về vấn đề tài
chính. Hoạt động báo cáo này đã dùng mẫu báo cáo tài chính mà đã được thực hiện vào cuối
năm tài chính và nó phải là những công ty niêm yết lớn (công ty có cổ phiếu được giao dịch
trên sàn giao dịch chứng khoán), có nghĩa vụ pháp lý trong việc công bố những tình trạng đó
như một phần trong báo cáo tài chính thường niên của họ.
Sự chuẩn bị của báo cáo thường niên được làm theo khung khái niệm của báo cáo tài
chính, được phát triển bởi Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), tập hợp tiêu chuẩn kế
toán và điều lệ của công ty một cách toàn diện. Trong lịch sử, thông tin cốt lõi được đề cập
trong báo cáo thường niên có tính chất định lượng, được hỗ trợ bởi một phần, đó là giới hạn
cho các yêu cầu thuyết minh theo quy định của pháp luật và các quy định của kế toán. Những
con số được thể hiện trong báo cáo thường niên phản ánh thông tin tài chính của nội bộ công
ty, được điều chỉnh và công bố ra bên ngoài, được thuyết trình trong báo cáo thường niên của


công ty.
Tuy nhiên, trong hai thập kỷ vừa qua, chất lượng và phạm vi những điều trong báo cáo
đã được tranh cãi rất nhiều và kết quả là, hành động đó đã được thực hiện để khuyến khích
các công ty nắm bắt cơ hội có thể tiếp cận rộng rãi hơn đến với báo cáo hợp nhất, một trong
những sự chuyển tiếp tập trung vào các con số để thuyết trình lại báo cáo. Một ví dụ gần đây
nhất là Báo cáo phi tài chính của EU, chỉ thị về công bố thông tin phi tài chính. Một ví dụ
nữa, mặc dù trong một bối cảnh rất khác, đó là một điều hiển nhiên về những thay đổi gần đây


2
trong báo cáo hợp nhất đối với giáo trình của khóa học ACCA, điều mà bây giờ được nhấn
mạnh vào trách nhiệm rộng lớn hơn của báo cáo hợp nhất. Vì vậy, chương này sẽ đưa ra một
cái nhìn tổng quan về sự thay đổi hình thức của báo cáo thường niên, bắt đầu bằng sự hiểu
biết về bản báo cáo thuyết minh ở nghĩa rộng và sau đó mở rộng, chuyển từ những con số
thành bản thuyết minh nằm trong chức năng của báo cáo hợp nhất. Mục đích là để thông tin
cho cả các học giả và các doanh nghiệp kiến thức và kĩ năng để vận dụng vào thực tế.

2

Sự thay đổi hình thức của báo cáo hợp nhất:
Mục đích duy nhất của việc thay đổi cách thức trong các báo cáo của các công ty bằng

việc thay đổi trong báo cáo thường niên là để cung cấp thông tin hữu ích cho những người sử
dụng. Đáng chú ý là báo cáo thường niên của các công ty có lẽ, ngay cả trong môi trường kỹ
thuật số như ngày nay thì phương tiện quan trọng nhất vẫn là truyền thông. Một nghiên cứu
được thực hiện bởi Học viện kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA 1994), nghiên cứu về nhu
cầu thông tin của những nhóm các bên liên quan và trong báo cáo cuối cùng của họ, cũng
được biết đến là bản báo cáo Jenkins, đã đưa ra những khuyến nghị cho các doanh nhân vì thế
mà họ có thể cải thiện chức năng của bản báo cáo. Những khuyến nghị tập trung nhìn vào
phía trước, những giá trị dài hạn, những biện pháp phi tài chính và sự liên kết tốt hơn trong

những thông tin trong và ngoài doanh nghiệp. Không có gì đáng ngạc nhiên khi sự tập trung
tương tự được thể hiện rõ trong các định nghĩa và tham chiếu đến báo cáo tường thuật những
thập kỷ sau đó.
Theo Cổng thông tin quản trị doanh nghiệp Vương quốc Anh (2017), bản báo cáo tường
thuật mô tả những thông tin phi tài chính được bao gồm trong báo cáo thường niên để cung
cấp một bức tranh rộng lớn và ý nghĩa về tình trạng kinh doanh của công ty, vị thế thị trường,
chiến lược, kết quả và triển vọng trong tương lai. Bản báo cáo này bao gồm cả báo cáo chiến
lược, báo cáo giám đốc, tuyên bố của chủ tịch, báo cáo thù lao của giám đốc và quản trị doanh
nghiệp công khai. Một định nghĩa của PWC cũng nói rằng báo cáo thuyết minh là một dạng
thông tin phi tài chính và cũng tham chiếu đến nhu cầu cho việc báo cáo định hướng tương
lai.
Báo cáo thuyết minh là viết tắt cho các bối cảnh quan trọng và các thông tin phi tài
chính, những gì được đề cập bên cạnh các thông tin tài chính để cung cấp sự hiểu biết rộng rãi
và có ý nghĩa hơn về tình trạng kinh doanh của công ty, vị thế thị trường, chiếc lược, kết quả
và triển vọng trong tương lai. Nó bao gồm các số liệu định lượng cho những lĩnh vực này
(PWC 2017).


3
Do đó, báo cáo thuyết minh là chiếc ô mà dưới đó các doanh nghiệp có thể quản lý việc
truyền đạt những thông tin phi tài chính, điều sẽ đặt ra bối cảnh cho các hoạt động của doanh
nghiệp vì vậy mà các bên liên quan có thể đặt ra các chiến lược hợp lý và đưa ra những quyết
định trong tương lai của doanh nghiệp một cách toàn diện hơn.
Do đó, mục đích của chương này, báo cáo thuyết minh sẽ bao quát những khía cạnh như
thông tin phi tài chính, báo cáo môi trường, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), tính
bền vững và báo cáo hợp nhất. Tất cả đều có một vị trí trong báo cáo hợp nhất suốt hai thập
kỷ gần đây.
Mục đích của báo cáo hợp nhất thông qua hình thức báo cáo thường niên, được công bố
là để cung cấp thông tin hữu ích cho những người sử dụng thông tin (ACCA 2011). Tuy
nhiên, phương tiện này với vai trò truyền thống là một tài liệu mang trách nhiệm kế toán

(Stanton và Stanton 2011) cũng đã mở rộng chức năng của nó cho phương tiện giao tiếp trong
doanh nghiệp (Adams và Harte 1998), một phương tiện có thể giao tiếp với tất các những
nhóm các bên liên quan của một doanh nghiệp. Những bản báo cáo như vậy đã và đang bắt
đầu được công nhận là một công cụ mà thông qua đó, các doanh nghiệp có thể quảng bá tính
chất và những triết lý của doanh nghiệp (Anderson an Imperia 1992), bên cạnh đó còn tạo ra
hình ảnh của doanh nghiệp theo như mong muốn của họ (Neu et al 1998).
Điều thú vị là, báo cáo hợp nhất là kết quả của chức năng kế toán, một chức năng được
quy định chủ yếu bởi luật pháp và chuẩn mực kế toán. Các quy định trong báo cáo thường
niên của doanh nghiệp thường đại diện cho bức tranh lịch sử của một doanh nghiệp, chủ yếu
thông qua việc sử dụng các con số, với sự thuyết minh được giới hạn trong các yêu cầu được
công bố theo luật định và đã bắt đầu có một hình thái rất khác. Một hình thái giống với hình
thức của một tài liệu tiếp thị (Bekey 1990). Hoặc là một tài liệu mà không chỉ bao gồm các
thuyết minh báo cáo tài chính được yêu cầu mà còn tự nguyện công khai những điều không
bắt buộc. Sự đơn giản của thuyết minh tự nguyện phục vụ cho mục đích trình bày thông tin
theo cách mà người dùng hiểu và trong khi có thể là hình thức giao tiếp này không thực hiện
được, đó là cách để truyền đạt thông tin cho các cổ đông bằng môn ngôn ngữ mà họ hiểu
được (Anderson và Epstein). Điều này bao gồm các thuyết minh thân thiện với người dùng,
nghĩa là các báo cáo thường niên được công bố đã phát triển về khối lượng với mục đích phục
vụ như một tài liệu quan hệ công chúng. Một nghiên cứu bởi Campbell et al năm 2006 nhận
thấy rằng độ dài của các báo cáo thường niên đã tăng từ 37 lên 90 trang trong 40 năm gần đây.
Trong khi một số sự gia tăng này có thể là do điều lệ của doanh nghiệp và quy định kế toán
xung quanh những thông tin tài chính thì một số lượng đáng kế là vì sự gia tăng trong báo cáo


4
thuyết minh. Tuy nhiên, khối lượng tăng của thông tin không tự động dẫn đến những quyết
định chắc chắn hữu ích.
Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi ASB (2009) nhận thấy rằng khi báo cáo về vấn
đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), báo cáo thường niên được đưa ra với một sự
cản trở vô hình. Báo cáo tiết lộ rằng nội dung này không nhất thiết phải cung cấp thông tin có

thể sử dụng để đưa những quyết định quan trọng, ví dụ như , quyết định phân bổ tài nguyên.
Khái niệm về sự cản trở và vấn đề quá tải thông tin được hỗ trợ thêm bởi cuộc khảo sát quốc
tế, thực hiện bởi ACCA. Vì vậy mà những người chuẩn bị cho báo cáo thường niên đã được
hỏi suy nghĩ của họ về những thách thức hiện tại và tương lai cho báo cáo thuyết minh.
Những phát hiện tiết lộ rằng những người chuẩn bị cảm thấy các báo cáo không chỉ cảm thấy
tốn kém mà còn rất phức tạp để tạo nên. Vì vậy, sự phức tạp này làm giảm tính minh bạch của
thông tin mà các phần mục thuyết minh được đặt ra để cung cấp. Một nghiên cứu khác công
nhận rằng báo cáo thuyết minh rất cần thiết nếu báo tài chính hoàn toàn phản ánh đầy đủ tình
trạng của các doanh nghiệp ngày nay (AICPA 1994; Beattie et al. 2002; IASB 2009).
Hơn nữa, không chỉ có nội dung của thông tin thay đổi mà còn có sự thay đổi trong
phương thức vận chuyển. Ngày nay, trang web của doanh nghiệp thường là nơi đầu tiên mà
các bên liên quan tìm đến để tìm kiếm thông tin về doanh nghiệp (Campbell and Slack 2008).
Vì vậy, hình thức và phạm vi của báo cáo thường niên đã trải qua một sự thay đổi và đã
được định hình lại liên tục nhằm mục đích có thể cố gắng nắm bắt sự cân bằng hoàn hảo giữa
thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Đây là điều mà các cơ quan như Hiệp hội quan
hệ các Nhà đầu tư (IRS) sẵn sàng trao giải cho những báo cáo thường niên tốt nhất, bao gồm
những tiêu chí xung quanh việc truyền thông hiệu quả, có cái nhìn sâu sắc về mục tiêu của
công ty. Đối với các công ty của Anh, việc tuân thủ Hội đồng báo cáo tài chính (FRC), những
hướng dẫn (IR 2017), như một phần của phát minh ‘rõ ràng và ngắn gọn’ được đưa ra vào
tháng 6 năm 2014.
3

Báo cáo thuyết minh trong thực tế:
Trong bối cảnh việc cải thiện chất lượng ngày càng được coi trọng, đã có một số các

bằng chứng thực tế về tính minh bạch và những quyết định hữu ích trong các báo cáo thường
niên của doanh nghiệp. Các nghiên cứu trong những năm 1980 nhận ra việc các công ty ở
Anh tham gia vào báo cáo thuyết minh đã bị hạn chế phần nào (Gray et al. 1987; Gray 1990;
Guthrie and Parker 1989). Những nghiên cứu này cho thấy những thông tin liên quan đến các
vấn đề xã hội và môi trường bị giới hạn ở những gì được yêu cầu bởi luật định. Nghiên cứu

khác của các công ty chuyên nghiệp như Coopers Lybrand Deloitte và Touche Ross (Harte và
Owen 1991) ủng hộ báo cáo về xã hội và môi trường. Tuy nhiên, một sự tập trung vào năm


5
1990, báo cáo thường niên cho một nhóm các công ty cho thấy rằng báo cáo về môi trường
thiên nhiên đã và đang tăng lên (Harte and Owen 1991), mặc dù với trọng tâm là hình ảnh
công cộng chứ không phải là một tác động hay trách nhiệm giải trình tập trung. Tầm quan
trọng ngày càng tăng của báo cáo có trách nhiệm về các vấn đề môi trường đã được hỗ trợ
thêm trong một nghiên cứu mới nhất của Parker (2005).
Khi báo cáo thuyết minh đã phát triển và đạt được sự nổi bật trong các cuộc tranh luận
của doanh nghiệp, như đã được đề cập ở trên, nó bao gồm một số lĩnh vực như thông tin phi
tài chính, báo cáo về môi trường, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và báo cáo hợp nhất.
Có rất nhiều phiên bản các thành phần cấu tạo nên báo cáo thuyết minh, mỗi phiên bản sẽ phù
hợp với một lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Vì vậy, điều này có nghĩa là đã có sự gia tăng trong
báo cáo của một số lĩnh vực khác. Ví dụ, đã có sự gia tăng trong báo cáo phát triển bền vững
so với hai mươi năm qua (KPMG 2011; Nikol 2008; Owen 2006) và các hoạt động sau những
năm 1990, số lượng các công ty hàng đầu của Anh báo cáo về các vấn đề xã hội và môi
trường đã tăng gấp đôi (KPMG 2011). Báo cáo loại này không đề cập cụ thể đến Vương quốc
Anh, báo cáo toàn diện của Trung tâm chiến lược và dịch vụ đánh giá (CSES, 2011), đã phân
tích việc xuất bản thông tin phi tài chính của 71/80 quốc gia khác nhau. Nội dung phi tài
chính liên quan đến tình bền vững hoặc báo cáo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
(CSR). hầu hết các công ty đã sử dụng Bộ Tiêu chuẩn toàn cầu (GRI) và hầu hết tất cả được
báo cáo về các vấn đề về môi trường, chỉ có một nửa số các công ty tham gia báo cáo về
những tác động kinh tế hoặc quyền con người. Nghiên cứu cũng cho thấy, trong khi luật pháp
không yêu cầu nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đưa ra tương đối ít các thông tin phi tài
chính hơn các công ty lớn. Mặc dù điều này có thể được mong đợi nhưng điều thú vị là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tình nguyện cung cấp bất kỳ những thông tin phi tài chính nào,
đặc biệt là tất cả các công ty xác định rằng việc cung cấp thông tin bổ sung này dẫn đến chi
phí, với các công ty lớn hơn thì phải đối mặt với mức chi phí, các công ty lớn hơn phải đối

phó với một mức chi phí lớn hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiết lộ rằng tất cả các công ty
liên kết này có thể tùy chọn thông tin bổ sung với độ tin cậy và tính minh bạch cao hơn báo
cáo và nhận diện thương hiệu. Tuy nhiên, có rất ít thỏa thuận với ý kiến cho rằng cách này của
báo cáo sẽ dẫn đến tăng doanh thu, tăng hiệu suất. Ngược lại, nghiên cứu của De Klerk et al
(2015), đã xem xét mối liên hệ giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) bởi các
nhóm lớn ở Anh và hiệu suất của họ. Một điều đã được nhận thấy rằng có một mối tương
quan tích cực giữa hai nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho rằng việc tiết lộ thông tin phi tài
chính đang mang lại những thông tin hữu ích, có giá trị cho nhà đầu tư. Vì vậy mà dường như,
mặc dù có thêm chi phí phát sinh của các công ty trong việc đáp ứng các yêu cầu của báo cáo


6
thuyết minh (Chaidal và Jones 2017; ACCA 2010), một số công ty đã và đang nhận thấy được
giá trị của loại báo cáo này.
Tuy nhiên, bản chất silo (là một loại cấu trúc sâu của một website giúp tổ chức nội dung
một cách hợp lý) của báo cáo thuyết minh này đã mở đường cho ý tưởng các khu vực trong
báo cáo thuyết minh không chỉ liên quan đến nhau mà còn không thể tách rời khỏi báo cáo tài
chính (Jenson và Berg 2012). Trường phái tư tưởng này đã chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện
của báo cáo hợp nhất, với mục đích thay đổi tư duy của công ty từ lợi nhuận tài chính ngắn
hạn đến một bức tranh kinh doanh dài hạn, cam kết cho một tương lai bền vững. Vì vậy mà
trọng tâm của báo cáo hợp nhất là quan tâm đến ý tưởng tạo ra giá trị theo thời gian, dựa trên
mô hình kinh doanh 6 thủ đô, nắm bắt thông tin định tính và định lượng để đánh giá việc tạo
ra giá trị. Khung xác định các mức vốn bao gồm: tình hình tài chính, thực trạng sản xuất, trí
tuệ, con người, xã hội và mối quan hệ với tự nhiên. Mặc dù Nam Phi là nơi đầu tiên chính
thức áp dụng báo cáo hợp nhất, cũng có bằng chứng về một số quốc gia khác bao gồm Vương
quốc Anh cũng đang sử dụng báo cáo hợp nhất (De Villiers et al.2014) nhưng là được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện. Các công ty như Glaxo Smith Kline và BT là những ví dụ về công
ty đã thông qua việc thực hiện báo cáo hợp nhất. Các công ty này ủng hộ báo cáo hợp nhất và
nhìn nhận nó như một phương tiện mang giá trị của sự sáng tạo (Deloitte 2015). Mặc dù có
một dự cảm tốt về khả năng hỗ trợ của báo cáo hợp nhất nhưng vẫn có một số sự hoài nghi

xung quanh tính hữu ích của những quyết định trong báo cáo hợp nhất. Ngoài ra, trong một số
lĩnh vực, có một số sự phản kháng đối với khái niệm báo cáo hợp nhất, một khuôn khổ báo
cáo tiềm năng trong tương lai. Đặc biệt, các nhà quản lý quỹ và các nhà phân tích vốn chủ sở
hữu đang báo hiệu sự kém tự tin trong việc áp dụng báo cáo hợp nhất là một khuôn khổ báo
cáo. Có thể có trường hợp với một doanh nghiệp nào đó thì báo cáo hợp nhất không là gì hơn
một sự thích thú (Slack và Tsalavoutas 2017).
4

Những yêu cầu của báo cáo:
Những thay đổi trong yêu cầu báo cáo đã hỗ trợ cho việc đưa các phần tường thuật vào

báo cáo thường niên. Ví dụ, vào tháng 4 năm 2005, Bản tường thuật Hoạt động và Tài chính
(OFR) đã được đưa ra, nhờ đó mà các công ty có thể đưa nội dung tường thuật rõ ràng hơn
vào báo cáo thường niên, những nội dung giải thích cho tình hình tài chính của công ty trước
các triển vọng và rủi ro trong tương lai. Bản tường thuật này nhằm hỗ trợ xác định lượng nội
dung trong báo cáo thường niên và cung cấp nội dung cho tất cả các bên liên quan chứ không
riêng các nhà đầu tư. OFR không phải là một chỉ thị mà thay vào đó, nó cung cấp cho các
giám đốc của công ty tính linh hoạt để chọn các nội dung của họ sao cho lợi thế cạnh tranh
không bị xâm phạm. Điều này dẫn đến các báo cáo thường niên dài hơn nhiều và bị chi phối


7
bởi báo cáo tường thuật không chuẩn hóa (Anderson 2000; Smith và Taffer 2000). Sự gia tăng
về khối lượng này trong các báo cáo thường niên được hỗ trợ thêm bởi nghiên cứu của
Campbell (2006).
Tuy nhiên, không có gì chắc chắn rằng khối lượng tăng thêm này đã đáp ứng các mục
tiêu của OFR. Một nghiên cứu lớn được thực hiện bởi Rutherford (2003) tập trung vào phân
tích việc sử dụng OFR trong thực tế. Các phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng có một sự
phụ thuộc quá mức vào việc sử dụng các công ty tư vấn bên ngoài trong việc chuẩn bị các
phần tường thuật của báo cáo. Ngoài ra, hướng dẫn cho các vấn đề môi trường và chính sách

xã hội bị hạn chế. Điểm cuối cùng, người ta thấy rằng cần phải có sự cân bằng tốt hơn giữa
mức độ khả thi và lượng thông tin theo quy định trong các báo cáo thường niên. Một sự cân
bằng như vậy sẽ cung cấp một bản tường thuật có cấu trúc và có tổ chức hơn, có khả năng cho
phép dữ liệu so sánh tốt hơn và có ý nghĩa hơn cho người dùng của nó. Sau nhiều cuộc tranh
luận và vận động hành lang xung quanh nội dung và mục đích của OFR, vào tháng 3 năm
2005, các giám đốc công ty đã được yêu cầu chuẩn bị OFR. Nội dung của OFR phải bao gồm
tường thuật về các vấn đề môi trường, nhân viên và xã hội như một phần của báo cáo thường
niên, nhưng yêu cầu này chỉ giới hạn cho các công ty niêm yết.
Sự thay đổi mạnh mẽ từ việc cho phép các giám đốc trở nên linh hoạt trong báo cáo
tường thuật của họ sang bắt buộc, có thể đã dẫn sự cân bằng giúp tăng cường sự liên quan và
so sánh cho người dùng. Tuy nhiên, mặt khác, điều này đã tạo ra rủi ro rằng các công ty có thể
sử dụng “báo cáo sáng tạo”. Việc thực hiện loại báo cáo sáng tạo này nhằm tìm ra các lỗ hổng
để các công ty có thể cải thiện vị trí của họ một cách tốt nhất (McBarnet 2006). Tuy nhiên,
vào tháng 11 năm 2005, Chính phủ Anh, như một động thái bãi bỏ quy định, để giảm gánh
nặng chi phí cho các công ty và tạo không gian cho báo cáo tường thuật không chỉ cho các
công ty niêm yết mà còn cho các công ty chưa niêm yết,đã đột ngột rút lại luật OFR. Sau đó
nó đã được thay thế bằng một yêu cầu pháp lý mới cho tất cả trừ một phần nhỏ các công ty ở
Anh và Liên minh châu Âu(EU). Yêu cầu mới là cung cấp một Bản Tổng quan doanh nghiệp,
một lần nữa với các giám đốc có toàn quyền lựa chọn nội dung của họ theo sự tư vấn do ASB
cung cấp, đây là một tình huống không quá khác biệt so với lựa chọn có sẵn trong OFR.
Do đó, hiện tại tất cả các công ty khác ngoài những công ty thuộc loại “nhỏ” theo quy
định của Luật công ty (2006), bắt buộc phải sản xuất, như một phần của báo cáo thường niên
của họ, một đánh giá chiến lược về hoạt động của công ty, dưới dạng một báo cáo chiến lược.
Các công ty được liệt kê có các yêu cầu công bố bổ sung, bao gồm yêu cầu về Báo cáo quản
lý hoặc Đánh giá doanh nghiệp. Ngoài các yêu cầu báo cáo liên quan đến các công ty của Anh
kể từ cuối năm 2013, các công ty niêm yết cũng được yêu cầu đưa thông tin về phát thải khí


8
nhà kính (GHG) trong báo cáo của họ. Những giải thích này không phải chịu một cuộc kiểm

toán và lý do đưa vào là để giải quyết sự ồn ào xung quanh mục đích và chất lượng thông tin
trong các báo cáo thường niên.
Bên cạnh sự thay đổi các yêu cầu pháp lý, nội dung được coi là có liên quan trong các
báo cáo thường niên cũng đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi hướng dẫn từ các cơ quan chuyên
môn, ủy ban, vận động hành lang chính trị, hội đồng và khung khái niệm, tất cả đều tập trung
vào báo cáo tường thuật. Do đó, các báo cáo thường niên bao gồm một hỗn hợp các thông tin
phi tài chính bắt buộc và tự nguyện. Các công ty đã nhận được hướng dẫn về cách họ có thể
báo cáo tác động của họ đối với môi trường, xã hội và nền kinh tế. Nguyên tắc báo cáo phát
triển bền vững của G4 đã được thay thế bằng các tiêu chuẩn báo cáo phát triển bền vững GRI
sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Khung báo cáo tích hợp là một khung khác, được
tạo ra vào năm 2013 bởi Hội đồng báo cáo tích hợp quốc tế (IIRC). Điều này được thiết kế
với mục tiêu thể hiện cách các tổ chức tạo ra giá trị bằng cách tích hợp thông tin tài chính và
phi tài chính, thay vì tập trung vào các tổ chức sau. Hướng dẫn khác để tạo thuận lợi cho các
công ty trong chức năng báo cáo tường thuật của họ bao gồm Hội đồng Chuẩn mực Kế toán
Bền vững (SASB). Hơn nữa, một tổ chức ở Hoa Kỳ chuyên phát triển chuẩn mực kế toán đối
với các vấn đề xã hội và môi trường cũng cung cấp ISO 26000 (tiêu chuẩn quốc tế cho các tổ
chức), một tiêu chuẩn tự nguyện về CSR.
Nhu cầu thay đổi về cách thức và những gì được báo cáo bởi các công ty cũng đã bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi việc sử dụng ngày càng nhiều của các trang web công ty. Trang web đã
trở thành một phương tiện phổ biến thông qua đó các công ty giao tiếp. Một yếu tố khác ảnh
hưởng đến chức năng báo cáo tài chính là các vụ bê bối định kỳ của công ty đã xảy ra trong
những năm qua. Một số trong số này là đặc thù quốc gia, trong khi cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 đã gây ra tác động toàn cầu. Những vụ bê bối của công ty như vậy đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của và thu hút sự chú ý đến chất lượng báo cáo tài chính (Clarke và
Dean 2007; Donoher et al. 2007). Do đó, báo cáo tường thuật có thể được coi là một cách để
thu hẹp khoảng cách nhu cầu thông tin và là phương tiện để đưa ra giải pháp cho các vấn đề
như vấn đề đại lý, phương pháp đo lường tác động đến định giá doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích
của nhà đầu tư, đó là loại về các vấn đề đã đóng góp cho nhiều tập đoàn làm tiêu đề trong tin
tức cho tất cả các lý do sai. Bằng cách bổ sung cho phong cách báo cáo kế toán tài chính
truyền thống bao gồm đánh giá chiến lược, báo cáo quản trị, đánh giá rủi ro, tường thuật để

giải thích vị trí của công ty về CSR, môi trường, v.v., báo cáo tường thuật cho phép tạo ra sự
minh bạch hơn trong báo cáo thường niên. Theo Yeoh (2010), tính minh bạch này sẽ cho phép
thị trường đánh giá và đánh giá hiệu quả công ty tốt hơn. Hơn nữa, việc bao gồm một phạm vi


9
rộng lớn hơn của thông tin bắt buộc và tự nguyện dẫn đến tính minh bạch đang trở nên phổ
biến.Anh, đặc biệt, đã chấp nhận ý tưởng giải quyết các lợi ích của một nhóm các bên liên
quan rộng hơn. Không chỉ để giải quyết vấn đề quản trị kém cung cấp các vụ bê bối tài chính
mà còn để đảm bảo thị trường Anh vẫn cạnh tranh khi đối mặt với sự dịch chuyển vốn và
được coi là một thị trường an toàn và minh bạch mở cửa cho kinh doanh.
Ở cấp độ toàn cầu, báo cáo tường thuật là hiển nhiên nhưng một số quốc gia đang tiến
triển với tốc độ nhanh hơn những người khác. Một cuộc khảo sát được thực hiện bởi ACCA
hợp tác với Deloitte tiết lộ rằng những người chuẩn bị báo cáo tài chính trên toàn cầu đã công
nhận quy định gia tăng xung quanh báo cáo tường thuật vì vừa tốn kém vừa mất thời gian và
việc thưa kiện rất có lợi cho sự gia tăng tùy ý và ít quy định hơn. Hơn 88% những người được
khảo sát cảm thấy rằng đối tượng quan trọng nhất cho các báo cáo thường niên là cổ đông,
trong trường hợp đó có ý kiến cho rằng “có thể các báo cáo tường thuật trong tương lai sẽ phụ
thuộc vào việc giải quyết tình trạng khó khăn của người chuẩn bị trong khi cố gắng đáp ứng
các nhu cầu khác nhau của người dùng chính, tức là các cổ đông và cơ quan quản lý (ACCA
2010, trang 8).
Nghiên cứu của Giáo sư Tomo Suzuki Shozaburo (2012) đã tạo nên một cuộc tranh luận
về báo cáo tường thuật dựa trên niềm tin của mình rằng mục đích của kế toán đã vượt xa nhu
cầu báo cáo để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Nghiên cứu của ông tiết lộ rằng Chuẩn
mực IFRS không giải quyết các vấn đề như môi trường, nhân quyền hoặc các bên liên quan
trên thị trường tài chính. Báo cáo của ông đã dẫn đến việc chính phủ Ấn Độ bày tỏ sự dè dặt
mạnh mẽ về sự hội tụ của các chuẩn mực kế toán với IFRS và là nguyên nhân để ông tiếp tục
đóng góp để giúp tạo ra các tiêu chuẩn phù hợp với các quốc gia và ngành kinh doanh cụ thể.
Mặc dù vấn đề hội tụ toàn cầu về chuẩn mực kế toán là một vấn đề riêng biệt, công việc của
Giáo sư Tomo Suzuki Shozaburo đã giúp tạo ra một vị trí cho báo cáo tường thuật trong kỷ

nguyên kinh tế chính trị và kinh tế toàn cầu. Theo nghiên cứu sâu hơn của ACCA, lần tìm
kiếm quan điểm này của một loạt các bên liên quan như Anh, Hoa Kỳ và Canada về giá trị
thông tin trong các báo cáo thường niên, đã cho thấy 50% số người được hỏi vẫn xem các báo
cáo này là chính hoặc là nguồn thông tin.
Một nghiên cứu trong số các phát hiện khác cũng báo cáo rằng có 59% cảm thấy việc
đưa vào dữ liệu về xã hội và môi trường thông qua một báo cáo tích hợp sẽ bổ sung thêm giá
trị (ACCA 2011, trang 4). Rõ ràng là các công ty đã và đang phải tuân theo các quy định bắt
buộc và hướng dẫn tự nguyện để hỗ trợ họ chuyển từ báo cáo thường niên truyền thống sang
một báo cáo phản ánh tốt hơn nhu cầu của khán giả toàn cầu ngày nay.
5

Các sự kiện gần đây:


10
1.1.1. Hướng dẫn về Báo cáo phi tài chính của Liên minh châu Âu (EU):
Một ví dụ gần đây về sự gia tăng áp lực đối với báo cáo của công ty ngừng sử dụng các
báo cáo truyền thống thông qua Ủy ban châu Âu (EC) về các hướng dẫn không ràng buộc việc
tiết lộ thông tin phi tài chính của các công ty. Điều này phù hợp với tất cả các sáng kiến khác
để hỗ trợ các công ty cung cấp thông tin về: nhân viên, nhân quyền, chống tham nhũng, hối
lộ, đa dạng phòng họp và thông tin về môi trường và xã hội. Với mục đích là mức thông tin
này sẽ giải quyết một nhóm các bên liên quan rộng hơn một cách nhất quán và có thể so sánh
được. Các hướng dẫn được nêu trong Hướng dẫn NFR của EU (Hướng dẫn 2014/95 / EU), về
việc thuyết minh thông tin phi tài chính và đa dạng; có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm
2017.
Điều đáng chú ý trong chỉ thị là sự nhấn mạnh vào những gì cần được đưa vào báo cáo
thường niên được quy định như một “bản mô tả” (Symons và Epsom 2017). Một lần nữa,
gánh nặng thuyết minh lại thuộc về các công ty có quy mô lớn nhưng lần này là ở cả khu vực
công và tư nhân; một lần nữa cho phép áp dụng tính linh hoạt vào những gì được đưa vào báo
cáo để phù hợp với công ty và nhu cầu của khán giả. Điều đáng chú ý là tính linh hoạt này có

thể là một trở ngại để đạt được mục tiêu bao trùm của các công ty cung cấp thông tin so sánh.
Điều này càng được củng cố bởi thực tế là các công ty có quyền lựa chọn áp dụng các khuôn
khổ quốc gia, châu Âu hoặc quốc tế.
Như đã đề cập trước đây về việc giới thiệu Hướng dẫn mới nhất của EU không bị cách
ly với hướng dẫn và luật pháp đã có. Kể từ khi được giới thiệu, Hướng dẫn của EU đã tạo nên
một số thay đổi. Cụ thể, FRC từ làm việc theo hướng dẫn được ban hành cho các công ty sau
khi đưa ra yêu cầu ban đầu về yêu cầu đối với một số công ty để đưa ra báo cáo chiến lược,
đang được xem xét lại. Sau khi giới thiệu hướng dẫn mới của EU, có hiệu lực kể từ ngày 1
tháng 1 năm 2017, FRC đang sửa đổi hướng dẫn hiện hành về báo cáo chiến lược, để đảm bảo
rằng hướng dẫn mới của EU được áp dụng. Theo FRC’s Clear & Concise, trọng tâm của
hướng dẫn sẽ tiếp tục khuyến khích các công ty cải tiến và báo cáo về cách họ tác động đến
xã hội. Nó nhằm mục đích giải quyết các tác động ảnh hưởng đến mức độ bền vững của
chúng như là một mối quan tâm trong tương lai. Các sửa đổi của hướng dẫn là để đảm bảo sự
gắn kết của thông tin tài chính và phi tài chính trong báo cáo chiến lược và hàng năm, mục
tiêu là nâng cao chất lượng và tính minh bạch trong báo cáo thường niên. Ý tưởng về một
mức độ gắn kết là cần thiết giữa thông tin phi tài chính và tài chính, để đạt được điều này,
trình bày một trường hợp mạnh mẽ để báo cáo tường thuật.
Ngoài việc sửa đổi hướng dẫn về báo cáo chiến lược vào tài khoản đối với hướng dẫn
mới của EU, FRC cũng đang đề xuất thay đổi báo cáo chiến lược để phù hợp hơn với Luật


11
Công ty 2006 (Deloitte 2017a). Luật pháp ban đầu yêu cầu các giám đốc thúc đẩy sự thành
công của công ty, điều này hiện đã được mở rộng để bao gồm cả cách các công ty làm điều
này. Do đó, FRC sẽ, giống như các công ty, thông qua tường thuật của họ trong báo cáo chiến
lược, để chứng minh nhiệm vụ này được thực hiện như thế nào. Có áp lực đối với các công ty
để xem xét tiền gửi rộng hơn, liên kết các hoạt động với danh tiếng và giá trị thương hiệu của
công ty. Do đó, Chính phủ và Bộ Chiến lược Kinh doanh - Năng lượng - Công nghiệp (BEIS)
đang hỗ trợ FRC và đã tổ chức tham vấn. Tuy nhiên, kể từ khi tham khảo ý kiến, đã có thông
báo rằng những thay đổi về lập pháp liên quan đến báo cáo vê Luật có thể sẽ diễn ra và dự

kiến vào tháng 3 năm 2018 (FRC 2017). Theo đó, mọi sửa đổi do FRC đề xuất đối với hướng
dẫn hiện hành về các báo cáo chiến lược, sẽ đợi cho đến khi những thay đổi về lập pháp được
công bố. Hy vọng rằng những nỗ lực của các tổ chức khác nhau (FRC, EU, Chính phủ Anh,
ASB, BEIS), nhấn mạnh sự cần thiết của một báo cáo chiến lược gắn kết sẽ dẫn đến việc các
công ty có cái nhìn rộng hơn về trách nhiệm và đối tượng của họ.
Các sáng kiến rõ ràng và súc tích của FRC tập trung vào việc cung cấp báo cáo minh
bạch. Nó đã được nhận thức và tham gia vào việc thực hiện, tham vấn và vận động hành lang
của nhiều sáng kiến muốn mở rộng báo cáo thường niên đã vượt ra ngoài con số ban đầu. Tuy
nhiên, điều này thúc giục chính phủ xem xét việc tiếp cận tham gia các sáng kiến tiềm năng.
Điều này thể hiện rõ trong phản hồi gần đây của FRC đối với tham vấn về Báo cáo Năng
lượng & Carbon được sắp xếp hợp lý (FRC 2018). Không chỉ rõ ràng là nhu cầu về một loại
báo cáo tường thuật hơn đang gia tăng mà theo FRC, cần phải tập trung vào việc ai và làm thế
nào để báo cáo bổ sung này có thể được gửi.
Các hướng dẫn từ EU và ASB đã chi phối phần lớn các báo cáo thực tế của Anh trong
nỗ lực giải quyết các nhu cầu về tính minh bạch cao hơn, mà người ta tin rằng, đã và sẽ đạt
được thông qua các phần tường thuật của các báo cáo thường niên.
1.1.2. Brexit (Anh rời Liên minh châu Âu):
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2016, Anh tổ chức cuộc trưng cầu dân ý và đạt được một con
số khổng lồ: 72,2% cử tri, lên tới 33,6 triệu người đi bỏ phiếu. Tỷ lệ cử tri chỉ thấp hơn 0,1%
so với cuộc tổng tuyển cử năm 1992 (Henderson 2016). Kể từ cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý,
Điều 50 đã được viện dẫn và quốc hội Anh cho đến ngày 29 tháng 3 năm 2019 đã kết thúc các
cuộc đàm phán để Anh rời khỏi EU.
Trong khi các bảo đảm được chính phủ đưa ra rằng sự gián đoạn đối với các doanh
nghiệp sẽ được đưa về tối thiểu, thì cần phải xem xét rằng trên tinh thần giữ lại báo cáo chất
lượng của công ty, các công ty cần truyền đạt bước ngoặt này trong các cuộc đàm phán Brexit
sẽ tác động đến chiến lược tương lai của họ như thế nào và do đó, sự không chắc chắn được


12
giải quyết và rủi ro sẽ được xem xét và thuyết minh trong báo cáo. Truyền thông có khả năng

được trình bày trong các phần tường thuật của báo cáo thường niên của công ty và quan trọng
hơn là các bên liên quan rất mong đợi nó. Tháng 7 năm 2016, FRC đã đưa ra một lời nhắc nhở
cho các công ty về hiệu ứng này, đặc biệt là việc đưa vào tường thuật dưới tiêu đề: Mô hình
kinh doanh, rủi ro nguyên tắc và sự không chắc chắn và tuyên bố khả thi. Hơn nữa, sự không
chắc chắn về tác động của Brexit đối với các chuẩn mực kế toán và do đó, báo cáo về hiệu
suất tài chính vẫn còn. Do đó, tường thuật có thể là một cơ hội rõ ràng để đảm bảo rằng các
bên liên quan nhận thức được các sự kiện như vậy có thể ảnh hưởng đến chiến lược của công
ty. Đối với các công ty, việc đơn giản là họ nói rằng “tôi không biết” trong báo cáo của mình
sẽ có thể không còn đủ tốt nữa.
6

KẾT LUẬN:
Báo cáo doanh nghiệp trong báo cáo thường niên của các doanh nghiệp đã được chú ý

rất nhiều trong vài thập kỷ qua. Điều này được thúc đẩy do sự kết hợp giữa các scandals được
lặp lại của công ty và sự xuất hiện của một đối tượng khán giả toàn cầu rộng lớn khi các báo
cáo thường niên của công ty được quan tâm đến. Để đáp lại, các cơ quan quản lý điều lệ đã
phản hồi bằng cách thông qua các đóng góp xây dựng các chuẩn mực kế toán và các chỉ thị
của EU hoặc các công ty luật. Những phản hồi này tác động rõ ràng tới sự thay đổi cấu trúc và
phạm vi trong báo cáo thường niên của các doanh nghiệp, các khoản mục tài chính hiện đã
được giải quyết gọn gàng ở phía sau báo cáo và các phần tường thuật được đưa lên mặt trước.
Ngoài ra, phương thức cung cấp thông tin đang phát triển dựa trên năng lực kỹ thuật số. Trong
tương lai, các báo cáo tường thuật chuyên đề có thể có chỗ đứng trong một không gian kỹ
thuật số trung tâm.
Nội dung báo cáo được nhấn mạnh để tạo nên sự liên quan và giúp ích hơn trong việc
đưa ra quyết định của người đọc. Điều thú vị là, những thay đổi cho đến nay đã làm tăng
lượng thông tin được cung cấp cho các bên liên quan và chính các công ty niêm yết lớn đang
phải chịu áp lực thay đổi thói quen báo cáo. Điều này làm dấy lên câu hỏi về tầm quan trọng
trong các báo cáo của những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là một khu vực chưa được giải
quyết toàn diện, bởi vì hơn 99% doanh nghiệp ở Anh là doanh nghiệp vừa hoặc nhỏ, sử dụng

0-249 người ( theo liên đoàn các doanh nghiệp nhỏ năm 2017) và do đó, không có sự bắt buộc
phải tuân thủ các yêu cầu báo cáo tường thuật gần đây cho các doanh nghiệp này. Rõ ràng
thông qua hàng loạt các sáng kiến, kể cả bắt buộc hay là tự nguyện, luôn có một sự thèm
muốn giữa các nhà đầu tư và các bên có liên quan tới thông tin về các vấn đề môi trường, CSr
(trách nhiệm xã hội của công ty) và tính bền vững. Chắc chắn đây không phải là vấn đề cụ thể
chỉ dành cho các công ty niêm yết lớn? Chính vì thế, xuất hiện một sự bất bình đẳng bẩm


13
sinh, để đảm bảo tính minh bạch thì các PLCs của Anh buộc phải tuân theo các chỉ thị báo cáo
tường thuật nhưng các công ty nhỏ hơn thì không.
Trong khi đó, khi xem xét kỹ trường hợp báo cáo doanh nghiệp của các công ty ở Anh,
vì chịu ảnh hưởng từ các chỉ thị của EU, mà phần tường thuật và báo cáo tài chính kết hợp
trong báo cáo thường niên được đưa ra cân bằng hơn cho các nhóm cổ đông. Những vấn đề
xoay quanh báo cáo thường niên dường như luôn có một cách giải quyết nào đó, điển hình
như nó có thể tự điều chỉnh lại với các khao khát về chính trị để phù hợp với mục tiêu quốc
gia nào đó. Do đó, có thể Vương quốc Anh sẽ có cơ hội thay đổi báo cáo của công ty để phản
ánh lợi ích quốc gia, từ bỏ các chỉ thị hiện có postBrexit, chỉ để tạo ra luật hay hướng dẫn cụ
thể của chính mình? Hay là Vương quốc Anh vẫn sẽ giữ lại các hướng dẫn và ảnh hưởng của
EC / EU? Dù bằng cách nào, thì các cuộc tranh luận về báo cáo tường thuật vẫn có thể sẽ
không có hồi kết.

Chương 2. Bài dịch 2: Những nhận thức đối với chuẩn mực báo cáo tài
chính quốc tế (IFRS): Trường hợp của Việt Nam
Nhận thức của kế toán viên Việt Nam về ưu điểm, nhược điểm, chi phí tiềm
năng và thách thức của việc áp dụng IFRS tại Việt Nam sẽ đóng vai trò chính
trong việc thích ứng với chuẩn mực kế toán quốc tế. Mới đây, Bộ Tài chính Việt
Nam đã công bố ý định sửa đổi các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) hiện hành
để phù hợp với IFRS hiện tại. Bộ Tài chính chưa xác định rằng liệu có nên áp
dụng đầy đủ IFRS, hội tụ hoặc giữ VAS như hiện tại hay không. Nghiên cứu này

xem xét các nhận thức, mối quan tâm về các lo ngại và kỳ vọng của cộng đồng kế
toán Việt Nam, hỗ trợ những người thiết lập bộ chuẩn mực kế toán Việt Nam trong
việc ban hành các quyết định kế toán thuận lợi liên quan đến hoạt động kế toán.
Tổng cộng 3.000 câu hỏi đã được gửi tới 3.000 Kế toán viên công chứng, Giám
đốc tài chính / Kế toán trưởng và các học giả kế toán tại Việt Nam trong năm
2012. Nghiên cứu cho thấy các chuyên gia kế toán Việt Nam rất lạc quan về lợi
ích tiềm năng từ việc áp dụng IFRS, cho thấy chi phí và thách thức dự kiến khi
thực hiện IFRS và đề xuất hỗ trợ mạnh mẽ cho việc chuyển dần từ VAS sang IFRS,
mặc dù mức độ hỗ trợ là khác nhau giữa ba nhóm kế toán khác nhau.


14
7

Giới thiệu:
Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS) là chuẩn mực kế toán được sử dụng rộng

rãi nhất trên toàn thế giới và được ban hành bởi Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB).
Khoảng 120 quốc gia cho phép hay yêu cầu sử dụng IFRS cho các công ty niêm yết trong
nước, bao gồm các nền kinh tế trọng điểm như Úc, Canada và các quốc gia thành viên của
Liên minh Châu Âu ( IASB 2013). Trước sự phát triển này, trong vòng hai thập kỷ qua thì
IFRS đang hướng tới trở thành một bộ chuẩn mực kế toán toàn cầu duy nhất, tập trung vào
tính hài hòa và hội tụ. Có khá ít các nghiên cứu đã cố gắng đưa ra giả thuyết và đo lường động
lực để quyết định áp dụng IFRS của các nền kinh tế đang chuyển đổi, nền kinh tế mới nổi hay
các nền kinh tế ít được biết đến như Việt Nam. Ví dụ, các nghiên cứu gần đây của Hiệp hội
Kế toán viên công chứng Việt Nam (VACPA) và Liên đoàn kế toán châu Á và Thái Bình
Dương (CAPA) đã kêu gọi nghiên cứu thêm về lĩnh vực này và đặc biệt cho Việt Nam
(VACPA & CAPA 2012). Sự thiếu hụt dữ liệu thường là lý do cho khoảng cách nghiên cứu
(Meek & Thomas 2004) và các tác giả đã tìm cách giải quyết khoảng trống này thông qua
việc khảo sát các kế toán viên chuyên nghiệp tại Việt Nam và báo cáo lại nhận thức của họ về

vấn đề áp dụng IFRS tại Việt Nam.
Việt Nam là một trường hợp điển hình về sự chấp thuận của IFRS đối với các nền kinh
tế mới nổi và chuyển tiếp. Khi so sánh Việt Nam với các nước đang phát triển khác, ta có thể
thấy cách biệt về kinh tế ngày càng lớn. Việt Nam đã mất nhiều thập kỷ để phát triển và tụt
hậu so với các nước láng giềng do hậu quả của Chiến tranh Việt Nam (1945-1975). Và gần
đây, Việt Nam đang tìm cách tham gia ngày càng tích cực và thành công trong nền kinh tế
toàn cầu. Với mức tăng trưởng GDP trung bình hàng năm đáng nể là 7,2% trong thập kỷ đầu
tiên của thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc áp dụng các cải
cách theo định hướng thị trường (World Bank 2010).
Nghiên cứu về nhận thức của các nhóm chuyên gia kế toán khác nhau đối với IFRS
mang tính kịp thời và quan trọng đối với ngành công nghiệp, chính phủ và kế toán Việt Nam
cũng như cộng đồng kế toán học thuật. Bằng cách thu hẹp sự khác biệt giữa Chuẩn mực kế
toán Việt Nam (VAS) và IFRS, các doanh nghiệp Việt Nam có thể trình bày báo cáo tài chính
bắt buộc VAS (cũng như IFRS) với các nhà đầu tư tiềm năng trên cơ sở không thua kém các
đối thủ nước ngoài. Điều này sẽ cải thiện mức độ so sánh và tăng cường sự tin tưởng của các
nhà đầu tư.
Khi hội tụ vào IFRS, danh tiếng của Việt Nam trên thị trường quốc tế có thể được
nâng cao nhờ tuân thủ các quy tắc quốc tế và trở thành một đối tác thương mại toàn cầu đáng
tin cậy. Có thể thấy nghề kế toán và cộng đồng học thuật tại Việt Nam cũng được hưởng lợi từ


15
việc chuyển đổi VAS sang IFRS. Với sự tăng trưởng của việc chấp nhận IFRS tại Việt Nam,
các hiệp hội chuyên nghiệp và các công ty kế toán lớn đã bắt đầu tích hợp IFRS vào các ấn
phẩm, chứng nhận và chương trình thử nghiệm của họ. Chương trình giảng dạy và sách giáo
khoa kế toán của các trường đại học tại Việt Nam hiện đã áp dụng một phần giới hạn về IFRS.
Do đó, dự án nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao nhận thức về những lợi thế, bất lợi và
thách thức của việc ứng dụng IFRS cho cộng đồng kế toán tại Việt Nam.
Nghiên cứu này đồng thời sẽ đánh giá các lý do được đưa ra nhằm mục đích hỗ trợ
hay phản đối việc chuyển từ VAS sang IFRS bằng cách xem xét quan điểm của ba nhóm kế

toán viên khác nhau tại Việt Nam. Những phát hiện của dự án này sẽ cung cấp thông tin hữu
ích và kịp thời cho Ban chuẩn mực kế toán Việt Nam mới thành lập nhằm hỗ trợ họ đưa ra các
quyết định ảnh hưởng đến hoạt động kế toán, từ đó sẽ hỗ trợ sự phát triển kinh tế và xã hội ở
Việt Nam.
Bằng chứng được cung cấp bởi nghiên cứu này có thể sẽ được các quốc gia hoặc công
ty khác cân nhắc khi áp dụng IFRS. Nó cũng có thể có lợi cho Ủy ban Chuẩn mực Kế toán
Quốc tế (IASB), các nhà quản lý, hiệp hội kế toán chuyên nghiệp và các công ty kế toán công
trong nỗ lực thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trên toàn thế giới.
Bài viết này được dựa trên các bài báo được viết bởi Pandaram (2002) và Rezaee,
Smith và Szendi (2010). Cả hai bài báo đều đưa ra các báo cáo dựa trên nhận thức của các học
giả và các học viên tại các thị trường vốn được thiết lập tốt (Úc và Hoa Kỳ). Nghiên cứu này
sẽ bổ sung cho các tài liệu hiện có theo những cách sau. Thứ nhất, nghiên cứu này là một
trong số ít, có thể nói là nghiên cứu toàn diện đầu tiên kiểm tra nhận thức của kế toán viên
Việt Nam về việc áp dụng IFRS. Thứ hai, các báo cáo khảo sát được sử dụng trong nghiên
cứu này khác với các báo cáo được khảo sát trong các nghiên cứu trước đây cho phù hợp với
bối cảnh của các nền kinh tế chuyển đổi mới nổi.
Tác giả đồng thời đưa ra 2 vấn đề sau đây:
RQ1: Nhận thức của kế toán viên Việt Nam về việc áp dụng IFRS là gì?
RQ2: Các nhóm kế toán khác nhau có quan điểm khác nhau về việc áp dụng
IFRS không?
Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu dựa trên lợi ích, chi phí và thách thức khi thực
hiện IFRS tại một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Phân tích các câu trả lời khảo sát
cho thấy các chuyên gia kế toán Việt Nam rất lạc quan về lợi ích tiềm năng của IFRS, song
các chi phí và thách thức trong giai đoạn chuyển tiếp là vô cùng đáng kể. Những lợi ích từ
việc áp dụng IFRS trong nghiên cứu này có nhiều điểm tương đồng trong các tài liệu khác
như Jermakowicz 2004; Joshi et al. 2008. Hơn nữa, các kết quả khảo sát cho thấy việc chuyển


16
đổi từ VAS sang IFRS dần dần nhận được nhiều sự hỗ trợ mạnh mẽ, mặc dù mức độ hỗ trợ là

khác nhau trong ba nhóm kế toán khác nhau. Phát hiện này hỗ trợ cho các kết quả trong
Pandaram (2002) nhưng mâu thuẫn với kết quả trong Rezaee et al. (2010).
Phần còn lại của bài báo được trình bày như sau. Phần 2 cung cấp cái nhìn tổng quan
ngắn gọn về mô hình kế toán Việt Nam và hành trình áp dụng IFRS của nó, tiếp theo là so
sánh giữa các chuẩn mực kế toán của Việt Nam và IFRS. Nội dung đánh giá tài liệu được
cung cấp trong phần 3 và phần 4 mô tả các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong
nghiên cứu này. Phần 5 trình bày và thảo luận những nghiên cứu được tìm thấy. Những hạn
chế và ý nghĩa cho các nghiên cứu trong tương lai được trình bày trong phần kết luận của bài
viết này.
8

Tổng quan về việc tuân thủ IFRS tại Việt Nam:
Mô hình kế toán Việt Nam thường được phân loại theo phong cách Châu Âu (Narayan

& Godden 2000). Mô hình kế toán này được quy định chặt chẽ bởi chính quyền và cơ quan
nhà nước. Cấp bậc cao nhất là Luật Kế toán được ban hành bởi Quốc hội và các cấp bậc thấp
nhất là các thông tư do Bộ Tài chính ban hành. Hệ thống kế toán Việt Nam dựa trên quy tắc
quy định nghiêm khắc và kém linh hoạt hơn so với các nguyên tắc kế toán khác như IFRS. Ví
dụ: biểu đồ tài khoản và tất cả các mục trong bảng cân đối và báo cáo thu nhập mang tính bắt
buộc và được xác định trước trong quy định kế toán có liên quan. Ngược lại, IFRS không có
hướng dẫn cụ thể như vậy, do đó, chúng linh hoạt hơn và cho phép thực hiện các đánh giá
chuyên nghiệp.
Để tạo điều kiện cho một chính sách mở cửa và chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang định hướng thị trường, Việt Nam đã thực hiện những cải cách quan trọng đối với
các hoạt động kế toán từ năm 1986 (Bui 2011). Trong thập kỷ qua, đã có nhiều hoạt động
trong các hệ thống lập pháp kế toán Việt Nam với những nỗ lực từ chính phủ Việt Nam nhằm
cải cách thẩm quyền kế toán quốc gia và do đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế của quốc gia với
hy vọng thu hút đầu tư nước ngoài (Phuong & Richard 2011). Trong bối cảnh hội tụ kế toán
quốc tế đối với IFRS, cải cách kế toán Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới.



Năm 2001, Bộ Tài chính đã công bố bốn Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đầu tiên.



Năm 2002 có thêm sáu tiêu chuẩn.



Năm 2003, Luật Kế toán được ban hành, thiết lập khung pháp lý Chuẩn mực kế toán Việt
Nam cho khu vực công và tư nhân.


17


Năm 2003, Bộ Tài chính cũng cam kết với Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) (đã tham
gia năm 1998), để đạt được 90% hội tụ với các chuẩn mực kế toán quốc tế năm 2005
(VNexpress 2003).



Năm 2011, Bộ Tài chính tuyên bố ý định sửa đổi các chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện
hành để phù hợp với IFRS hiện tại. Ủy ban chuẩn mực kế toán Việt Nam (VASB) và một
nhóm dự án gồm 44 thành viên cũng đã được thành lập (Bộ Tài chính 2011). Cho đến nay,
Bộ Tài chính vẫn chưa xác định nên áp dụng đầy đủ IFRS, hội tụ hay giữ VAS (Nguyen,
Hooper & Sinclair 2012).




Năm 2013, Bộ Tài chính đã đề xuất sáu chuẩn mực kế toán mới cho thị trường vốn và sửa
đổi đối với tám chuẩn mực kế toán hiện hành.
Tính đến thời điểm viết bài này, Việt Nam chỉ yêu cầu IFRS đối với các ngân hàng quốc

doanh và các ngân hàng thương mại. Tất cả các công ty Việt Nam khác, được liệt kê hoặc
không niêm yết, phải báo cáo theo VAS. Các công ty con của các công ty nước ngoài phải
tuân theo các quy tắc giống như tất cả các công ty trong nước (nghĩa là tuân thủ VAS là bắt
buộc).
9

Tổng quan tài liệu:
Trong hai thập kỷ qua, một lượng đáng kể các tài liệu đã được xuất bản về chủ đề hài

hòa hóa IFRS, sự hội tụ và tính khả thi của một bộ chuẩn mực kế toán được chấp nhận toàn
cầu. Với mục đích của bài viết này, chúng tôi nhấn mạnh các tài liệu gần đây đề cập đến cả
các đặc điểm mong muốn và không mong muốn của sự hội tụ IFRS cũng như các thách thức
tiềm năng của quá trình hội tụ IFRS trơn tru.
2.1.1. Ưu điểm và lợi ích của IFRS:
Những người ủng hộ IFRS cho rằng IFRS sở hữu nhiều lợi thế so với chuẩn mực kế
toán trong nước của từng quốc gia. Một số nghiên cứu báo cáo những cải thiện về chất lượng
kế toán sau khi áp dụng IFRS tự nguyện (Barth, Landsman & Lang 2008) cũng như áp dụng
IFRS bắt buộc (Daske et al. 2008). Ví dụ, Barth et al. (2008) cung cấp bằng chứng từ 21 quốc
gia cho thấy các công ty áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế thường có thu nhập ít hơn, ghi
nhận tổn thất kịp thời hơn và mức độ phù hợp về giá trị của số tiền kế toán hơn các quốc gia
khác.
Các nhà nghiên cứu trước đây đã cung cấp nhiều lý do cho chất lượng kế toán cao hơn
trong báo cáo tài chính theo IFRS;


18



Ban đầu chúng được thiết kế cho các thị trường vốn phát triển và do đó, phù hợp hơn với
các nhà đầu tư (Ball 2006),



Họ giảm các phương pháp kế toán thay thế, dẫn đến quản lý thu nhập thấp hơn (Jeanjean
& Stolowy 2008),



Họ yêu cầu các quy tắc đo lường và công nhận chất lượng cao hơn (De Franco, Kothari &
Verdi 2010) phản ánh tốt hơn vị thế kinh tế cơ bản của một công ty, do đó, minh bạch hơn
GAAP địa phương (Ding et al. 2007),



Họ yêu cầu mức độ công bố cao hơn, do đó giảm thiểu sự bất cân xứng thông tin giữa các
công ty và các cổ đông của họ (Healy & Palepu 2001).
Bên cạnh lập luận về chất lượng báo cáo tài chính cao hơn, những người ủng hộ IFRS

cũng cho rằng báo cáo IFRS làm tăng khả năng so sánh giữa các công ty giữa các thị trường
và quốc gia (DeFond et al. 2010), do đó, tạo thuận lợi cho đầu tư xuyên biên giới (Lee &
Fargher 2010) và hội nhập vốn thị trường (Saudagaran 2008). Trước những tác động của IFRS
trên thị trường vốn, những người quảng bá IFRS thường cho rằng các công ty có thể tiếp cận
thị trường vốn quốc tế dễ dàng hơn (Christensen, Hail & Leuz 2011), đặc biệt là những công
ty có mức độ quốc tế hóa cao như giao dịch hoặc huy động vốn ở thị trường nước ngoài
(Daske et al. 2009).
Ngoài ra, cũng có những lợi thế vô hình mà các công ty áp dụng có thể có thể hưởng lợi

từ khi họ thực hiện chính sách công bố bổ sung theo IFRS (Florou & Pope 2012). Ví dụ, công
ty có thể dễ dàng tiếp cận thị trường vốn hơn (Soderstrom & Sun 2007), tính giá cao hơn cho
các sản phẩm (Ray 2010) và thu hút nhiều nhân viên có kinh nghiệm hơn (Naoum, Sykianakis
& Tzovas 2011) nhờ danh tiếng minh bạch hơn đối thủ cạnh tranh của họ (Fox et al. 2013).
Trong cùng một cuộc tranh luận, các nhà nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng những
người áp dụng IFRS nghiêm trọng đã trải qua sự sụt giảm đáng kể về chi phí vốn và cải thiện
đáng kể thanh khoản thị trường của họ so với những người áp dụng nhãn mác (Daske et al.
2009). Theo đó, người ta dự đoán rằng các tác động liên quan đến IFRS đối với những người
áp dụng lần đầu tiên có thể sẽ lớn hơn ở các quốc gia có các tổ chức chất lượng cao hơn và
các quốc gia có mức độ phân kỳ cao hơn giữa GAAP và IFRS trong nước (Ding et al. 2007).
2.1.2. Nhược điểm và chi phí của IFRS:
Có một số lý do tại sao lợi ích dự kiến của IFRS có thể không đạt được như sau:


19


Giảm các lựa chọn thay thế kế toán có thể dẫn đến một đại diện ít trung thực và trung
thành hơn của các công ty kinh tế cơ bản (Barth, Landsman & Lang 2008).



Do tính chất dựa trên nguyên tắc của IFRS (Hong 2008), phán đoán chuyên môn có thể
tạo ra cơ hội cho quản lý thu nhập (Jeanjean & Stolowy 2008).



Các cơ chế thực thi yếu của các quốc gia áp dụng có thể làm giảm chất lượng báo cáo tài
chính, ngay cả khi các chuẩn mực kế toán chất lượng cao được thực hiện (Brown & Tarca
2007).

Hơn nữa, hiệu ứng thị trường vốn của IFRS rõ rệt hơn ở các quốc gia có chế độ thực thi

chặt chẽ hơn và do đó, triển khai IFRS tốt hơn (Hail & Leuz 2006). Wang & Yu (2009) và
Leuz (2006) cho thấy hiệu ứng thị trường vốn cũng rõ ràng khi các báo cáo khuyến khích
mạnh mẽ hơn và do đó, báo cáo tài chính chất lượng cao hơn là hiển nhiên. Sự khác biệt cao
hơn giữa IFRS và GAAP địa phương, và do đó, sự thay đổi lớn hơn của các quy tắc kế toán
trong nước (Byard, Li & Yu 2011; Daske et al. 2008) cũng là những yếu tố liên quan.
Về hiệu ứng thị trường vốn, một số học giả cho rằng việc giới thiệu báo cáo IFRS có thể
cải thiện thanh khoản thị trường chứng khoán (Narayan & Zheng 2010) và giảm chi phí vốn
(Li 2010) mặc dù một số người khác cho rằng điều này có thể không phải luôn luôn như vậy
(Armstrong et al. 2010; Hail & Leuz 2009; Lambert, Leuz & Verrecchia 2008).
Ngoài những bất lợi tiềm tàng, một số học giả cũng bày tỏ lo ngại về chi phí chuyển đổi
sang IFRS. Smith (2009) chỉ ra rằng chi phí chuyển đổi có thể khác nhau giữa các công ty và
một số có thể phổ biến cho tất cả các công ty trên nhiều quốc gia. Ví dụ, theo báo cáo về việc
triển khai IFRS của EU và Chỉ thị giá trị hợp lý (ICAEW 2007), mười chi phí chuyển đổi phổ
biến (như trong Hình 1) sang IFRS bao gồm;
(1) Nhóm dự án IFRS, (2) thay đổi phần mềm và hệ thống, (3) chi phí kiểm toán bên
ngoài bổ sung, (4) tư vấn kỹ thuật bên ngoài, (5) đào tạo nhân viên, (6) đào tạo nhân viên
khác (như nhân viên CNTT, nội bộ kiểm toán và quản lý), (7) liên lạc với bên thứ ba, (8) tư
vấn về thuế, (9) chi phí dữ liệu bên ngoài bổ sung, (10) chi phí phát sinh từ các thay đổi như
đàm phán lại các giao ước nợ.
Các khảo sát của các công ty kế toán (Larson & Street 2004; PWC 2011) đã tiết lộ rằng
hầu hết các công ty thuê thêm nhân viên hoặc sử dụng các nhà thầu phụ cho các nhóm dự án
IFRS, do đó, chi phí thực sự của tài nguyên có thể cao hơn con số báo cáo. Các kết quả khảo
sát trong ICAEW (2007) cũng nhận thấy rằng, tùy thuộc vào quy mô của công ty, xếp hạng


20
chi phí lập báo cáo tài chính IFRS đầu tiên và chi phí định kỳ khác nhau tùy thuộc vào quy
mô của công ty và các chi phí này có thể đại diện lên tới 24% tổng doanh thu.

Mặc dù một số chi phí thực hiện IFRS là rõ ràng, chẳng hạn như những chi phí được
thảo luận trong ICAEW (2007); Fox et al. (2013) lập luận rằng các chi phí khác ít hữu hình
hơn và cung cấp các ví dụ về các chi phí vô hình này xảy ra khi:


Tiết lộ tạo ra mối quan tâm với các nhà đầu tư về khả năng hoặc danh tiếng của các công
ty báo cáo.



Tiết lộ thông tin cung cấp cho các công ty khác với lợi thế cạnh tranh.
Tóm lại, các lập luận chính ủng hộ việc áp dụng IFRS tập trung vào các tác động đối

với vốn và nhà đầu tư; và các lý lẽ ít thuận lợi hơn nhấn mạnh đến các chi phí xảy ra trong và
sau giai đoạn chuyển tiếp. Mặc dù bằng chứng về hậu quả kinh tế của việc triển khai IFRS
trong tài liệu là hỗn hợp và không có kết luận, có nhu cầu ngày càng tăng đối với IFRS và có
khả năng là một bộ chuẩn mực kế toán toàn cầu duy nhất.
2.1.3. Những thách thức khi triển khai IFRS:
Việc chuyển sang một hệ thống báo cáo mới (như IFRS) mang lại nhiều thách thức cho
các bên liên quan khác nhau như các cơ quan quản lý, người kê khai, kiểm toán viên và khách
hàng khi tham gia vào quá trình chuyển đổi này. Cụ thể, đối với các cơ quan quản lý thì việc
xác định mức độ GAAP quốc gia sẽ tương tự hoặc phức tạp hơn so với IFRS (Heidhues &
Patel 2008) thật sự là một khó khăn đáng kể. Với những học viên, điều này bắt buộc họ phải
phát triển hoặc có được một phân tích chuyên sâu về những thay đổi trong phần cứng, phần
mềm và quy trình báo cáo; và những gì bổ sung cho khối lượng công việc chuyển tiếp đến các
hoạt động hàng ngày thông thường (AICPA 2011). Ngoài ra, việc quản lý nhận thức cộng
đồng xung quanh ở các công ty áp dụng (như PWC 2011) về những thay đổi trong báo cáo tài
chính cũng là một thách thức khác. Từ góc độ của kiểm toán viên, họ cần lập kế hoạch thật tốt
để đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của họ có các kỹ năng cần thiết tại thời điểm khách hàng
của họ bắt đầu quá trình chuyển đổi nhưng không quá sớm để kiến thức bị lỗi thời hoặc bị

lãng quên do ít sử dụng (Deloitte 2008).
Hơn nữa, Jermakowicz (2004) đã liệt kê một số thách thức chính trong quá trình áp
dụng IFRS bao gồm:


Bản chất phức tạp của một số tiêu chuẩn của IFRS (ví dụ: thử nghiệm giảm giá trị tài sản
trong IAS 36)


21


Thiếu các văn bản hướng dẫn về báo cáo IFRS đầu tiên (ví dụ: IFRS 1)



Sự phát triển yếu kém của thị trường vốn



Việc chấp hành pháp luật và các quy định chưa ổn định.
Tokar (2005) đã nói thêm rằng đối với một quốc gia có ngôn ngữ chính thức khác ngoài

tiếng Anh, việc dịch IFRS kịp thời sang ngôn ngữ quốc gia đó là một trở ngại không hề nhỏ
trong giai đoạn chuyển tiếp. Nhiệm vụ triển khai IFRS còn phức tạp hơn nữa bởi thực tế là
IFRS đang tiếp tục phát triển (Fox et al. 2013). Và thách thức này gây khó khăn hơn cho việc
chuyển đổi một cách suôn sẻ sang trạng thái tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực của IFRS (Joshi
et al. 2008).
Một số tác giả cũng bày tỏ mối quan tâm của họ về cách IFRS sẽ được dạy cho sinh
viên và cách các chuyên gia sẽ cập nhật các tiêu chuẩn mới (Heidhues & Patel 2008; Wong

2004). Giáo dục cho cả các nguồn lực chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp cũng trở thành
một rào cản quan trọng để làm cho IFRS hội tụ với các chuẩn mực kế toán ở các quốc gia
khác nhau có thể xảy ra.
2.1.4. Giả thuyết nghiên cứu:
Mục tiêu chính của nghiên cứu lần này là xác định nhận thức của các chuyên gia kế toán
ở các nước đang phát triển về IFRS bằng cách kiểm tra ba nhóm kế toán viên Việt Nam về lợi
ích, chi phí và thách thức khi thực hiện IFRS tại đây. Rút ra từ mục tiêu nghiên cứu chính và
các câu hỏi nghiên cứu, các giả thuyết tương ứng được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1 - Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu

Giả thuyết

RQ1: Nhận thức của kế toán viên Việt H1: Kế toán viên Việt Nam rất lạc quan về
Nam về IFRS là gì?
những lợi ích tiềm năng từ việc áp dụng IFRS.

H2: Kế toán người Việt dự đoán chi phí và thách
thức đáng kể trong quá trình chuyển đổi IFRS.


22

RQ2: Các nhóm kế toán khác nhau có H3: Các học viên và học giả có quan điểm khác
quan điểm khác nhau về IFRS không?
nhau về IFRS.

10

PHƯƠNG PHÁP LUẬN:

Công cụ khảo sát được phát triển sau khi xem xét các tài liệu gần đây về các lĩnh vực có

liên quan (Joshi et al. 2008; Naoum et al. 2011; Foo 2008; Jermakowicz 2004). Bảng câu hỏi
đã được thử nghiệm trước bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt với 30 đối tượng cùng một mục
tiêu (10 từ mỗi nhóm kế toán). Nghiên cứu này đã được thực hiện cho cả quá trình dịch ngược
và viết lại bổ sung. Quá trình này bao gồm một nhóm các dịch giả, các học viên và các học
giả có chuyên môn trong lĩnh vực kế toán. Dịch ngược cung cấp kết quả tối ưu và đã được tìm
thấy là một trong những phương pháp dịch phổ biến nhất khi thực hiện nghiên cứu đa văn hóa
(Harkness et al. 2010).
Mẫu dưới đây bao gồm 3.000 chuyên gia kế toán người Việt Nam có kiến thức hoặc đã
làm quen với các chuẩn mực kế toán. Mẫu được phân loại thành ba nhóm khác nhau (1.000
người tham gia cho mỗi nhóm). Nhóm đầu tiên, kiểm toán viên, vì họ áp dụng rộng rãi các
chuẩn mực kế toán để cung cấp dịch vụ tư vấn và đảm bảo cho khách hàng của họ. Nhóm thứ
hai, kế toán viên, được chọn vì họ là trưởng phòng kế toán, chịu trách nhiệm xem xét hoặc lập
báo cáo tài chính của các công ty hoặc công ty mà họ làm việc. Các học giả kế toán được
chọn là nhóm người tham gia khảo sát cuối cùng vì họ có kiến thức và nhận thức rõ về tầm
quan trọng của nghiên cứu. Một cuộc khảo sát câu hỏi cũng đã được thực hiện trong khoảng
thời gian từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2012. Kích thước mẫu và câu trả lời của mỗi nhóm kế
toán được minh họa trong Bảng 2.
Bảng 2: Cỡ mẫu và tỷ lệ phản hồi trên mỗi nhóm kế toán
NHÓM
TOÁN

KẾ BẢNG CÂU HỎI

Được
gửi

Nhóm 1:
toán viên


Kế 1000

TỶ LỆ

Có phản Không thể Có thể sử Tỷ
lệ Tỷ lệ sử
hồi
sử dụng
dụng
phản hồi dụng được

274

130

144

27%

14%


23

Nhóm 2: Kiểm 1000
toán viên

372


102

270

37%

27%

Nhóm 3: Học 1000
giả

247

106

141

25%

14%

Tổng

893

338

555

30%


19%

3000

Một vài câu hỏi đã được đặt ra vào ngày chia cắt niên độ. Các câu trả lời sớm cũng
được so sánh với các câu trả lời sau cùng của cùng một nhóm kế toán cho mỗi câu hỏi của
bảng câu hỏi ở mức ý nghĩa là 5% cho thống kê mà sử dụng Gói thống kê cho Khoa học xã
hội (SPSS). Sự khác biệt giữa các phản ứng này là không đáng kể. Do đó, thật hợp lý khi kết
luận rằng lỗi do sai lệch không phản hồi là không đáng kể.
Với độ dài của khảo sát (7 trang) và phạm vi của dự án nghiên cứu (152 câu hỏi trong 8
phần), tỷ lệ trả lời có thể sử dụng chung là 19% so với tỷ lệ trả lời của các khảo sát học thuật
tương tự khác. Ví dụ, Graham et al (2005) cho rằng tỷ lệ trả lời chung của các câu hỏi dài như
vậy sẽ dao động từ 8 đến 10%. Đề xuất này phù hợp với kết quả của Foo (2008).
Các câu hỏi được thiết kế bằng thang đo 5 điểm Likert, để có thể dễ dàng xác định kiến
thức và nhận thức về IFRS của mỗi cá nhân. Bảng câu hỏi được tự quản lý vì thiết kế này
được coi là thích hợp hơn cho một số lượng lớn các câu trả lời cho phép đưa ra kết luận với
độ tin cậy cao hơn và cho phép so sánh giữa các nhóm. Creswell và Clark (2011) đã kết luận
rằng loại bảng này là một phương pháp thích hợp để phân tích một khối lượng lớn dữ liệu
hoặc số lượng người.
11

KẾT QUẢ:
Các phân tích những dữ liệu được thu thập và phát hiện của nghiên cứu này được trình

bày trong hai phần sau. Phần 5.1 giới thiệu phân tích mô tả để minh họa hồ sơ nhân khẩu học
của người trả lời và cách họ trả lời trong bảng câu hỏi. Mục 5.2 báo cáo hai thử nghiệm thống
kê không tham số trên bộ dữ liệu, thử nghiệm Kruskal Wallis H (KW) và thử nghiệm Mann
Whitney U (MW).
2.1.5. Phân tích mô tả:

Hồ sơ nhân khẩu học của người trả lời được trình bày trong Bảng 3. Nền tảng giáo dục,
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc và vị trí hiện tại cho thấy rằng họ sẽ có quan điểm


24
tập thể về các vấn đề liên quan đến việc áp dụng và triển khai IFRS tại Việt Nam. Phần lớn số
người được hỏi (60%) là các chuyên gia có ít nhất 10 năm kinh nghiệm làm việc. Ngoài ra,
64% số người được hỏi thuộc nhóm tuổi 31-50, cho thấy họ có khả năng tham gia tích cực và
nhận thức rõ về những phát triển hiện tại trong kế toán (xem Bảng 3).
Bảng 3 - Hồ sơ nhân khẩu học (N = 555)
Đặc điểm của người trả lời

Độ tuổi

21-30

31-40

41-50

51-60

Trên 60

Chứng chỉ

Bằng nghề

Cử nhân



25

Thạc sĩ

Tiến sĩ

Chứng chỉ hành nghề

Không

VACPA

VAA

ACCA

CPA AUS

Khác

Từ 2 trở lên

Vai trò

Kiểm toán viên


×