Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tiểu luận giao tiếp trong kinh doanh văn hóa trong giao tiếp kinh doanh một số đặc trưng tiêu biểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.92 KB, 21 trang )

Tổng quan về văn hóa giao tiếp trong kinh doanh:
1.1. Giao tiếp là gì?
1.1.1. Khái niệm giao tiếp
- Giao tiếp là quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe
nhằm đạt mục đích nào đó. Giao tiếp là sự truyền đạt điều muốn nói từ người này sang
người khác để đối tượng có thể hiểu những thông điệp truyền đi.
- Để thực hiện giao tiếp, con người sử dụng ngơn ngữ lời nói, chữ viết, các dấu
hiệu phi ngôn ngữ nét mặt, cử chỉ, trang phục… nhằm tạo dựng các mối quan hệ trong
đời sống, kinh doanh, quản trị…
1.1.2. Chức năng của giao tiếp
- Giao tiếp giữ chức năng thu nhận và trao đổi thông tin về kinh doanh diễn ra
trên thương trường.
- Giao tiếp còn giữ chức năng giao lưu tình cảm, tư tưởng, văn hoá … để phát
triển nhân cách con người cho hồn chỉnh, tâm hồn, tình cảm ngày càng phong phú.
1.1.3. Loại hình giao tiếp cơ bản
- Giao tiếp giữa các cá nhân với nhau (interpersonal communication): Đây là loại
giao tiếp thường diễn ra giữa hai cá nhân với nhau, có thể là giao tiếp ngôn ngữ
(verbal) hoặc phi ngôn ngữ (non-verbal) trong nhiều tình huống, hoàn cảnh khác nhau.
Loại giao tiếp này giúp con người hiểu được một cách chính xác và sâu sắc hơn đối
tượng giao tiếp với mình, có thể ảnh hưởng, giúp đỡ lẫn nhau.
- Giao tiếp trong nhóm nhỏ (small group communication): Là quá trình tương tác
(interaction) xảy ra giữa nhiều người, tác động lẫn nhau nhằm chia sẻ thông tin, ý
tưởng, giải quyết vấn đề, đạt được những mục tiêu chung đã được xác định trước một
cách trực tiếp hay gián tiếp. Nhóm nhỏ cũng có thể được hiểu là một gia đình cùng trò
chuyện trong một bữa ăn, hoặc một cuộc họp giữa vài ba cá nhân trong một tổ chức,
một công ty…
- Giao tiếp nơi công cộng hoặc nói trước đám đông (public communication or
public speaking): Với loại giao tiếp này, người nói (diễn giả) gửi những thông điệp
nhất định đến với khán, thính giả của mình nhằm chia sẻ thông tin, giáo dục, thuyết
phục...


1


- Giao tiếp thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (mass
communication): Đây là loại giao tiếp diễn ra gián tiếp khi có một lượng ít người,
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, gửi những thông điệp đến một số
lượng lớn những người mà mình không biết mặt. Và thường thì khán thính giả sử dụng
phương tiện truyền thông cho những mục đích riêng, không có sự đồng nhất, chẳng
hạn: có người cần cập nhật thông tin, có người cần giải trí...
1.2. Giao tiếp kinh doanh là gì?
1.2.1. Khái niệm giao tiếp trong kinh doanh
-Giao tiếp trong kinh doanh là quá trình và hoạt động thiết lập, chuyển tải, duy trì
và phát triển mối quan hệ giữa người với người trong kinh doanh. Giao tiếp đóng vai
trò quan trọng trong kinh doanh và nhiều khi mang tính quyết định trong thành công
của một thương vụ lớn. Không đơn thuần chỉ là nói cho hay, giao tiếp còn bao gồm rất
nhiều khía cạnh từ ngoại hình, phong thái đến cách xử sự trong nhiều tình huống và
nhiều đối tượng khác nhau.
1.2.2. Các hoạt động giao tiếp chủ yếu trong kinh doanh
Các ấn bản của công ty
Các ấn bảng của công ty, cơ quan ngôn luận của công ty được lưu hành trong nội
bộ nhân viên hay được lưu hành ra bên ngoài đến hệ thống phân phối và khách hàng
của công ty.
Phim ảnh
Phim ảnh là phương tiện giao tế chỉ được sử dụng hạn chế tại một số tổ chức
công ty lớn vì chi phí sản xuất cao. Các phim này có thể cung cấp cho các đối tượng
các thông tin về dịch vụ, giải trí hay các thông tin cơ bản về ngành sản xuất. Mặc dù
nhà tài trợ phim có thể nhận được những lợi ích thương mại ít ỏi từ bộ phim mà công
ty đã hỗ trợ, tuy nhiên các lợi ích gián tiếp dưới dạng vị thế của công ty trong suy nghĩ
của các đối tượng khá đáng kể.
Các sự kiện đặc biệt

Các tổ chức tài trợ thường vạch ra kế hoạch và tổ chức các sự kiện đặc biệt để
thu hút sự chú ý của quảng đại quần chúng. Các sự kiện không cần thiết phải có liên
quan trực tiếp với nghành kinh doanh của tổ chức tài trợ nếu các sự kiện này thu hút
được những người tham gia đại diện cho các đối tượng mà công ty mong muốn.
1.2.3. Vai trò của giao tiếp trong kinh doanh
2


- Để đàm phán, thảo luận, bàn bạc, đi đến ký kết các hợp đồng kinh tế, để thực
hiện quá trình mua bán… giao tiếp giúp truyền đạt các chỉ thị, mệnh lệnh… hay nói
một cách khác là để thực hiện chức năng giao tiếp cơ bản của quản trị.Trên thương
trường giao tiếp giúp con người tìm hiểu, tiếp nhận các thông tin, từ đó đề ra những
quyết định chính xác và kịp thời cho hoạt động kinh doanh.
- Ngày nay giao tiếp trong kinh doanh càng có tầm quan trọng đặc biệt do môi
trường kinh doanh đang có những biến đổi lớn, tổ chức, đối tác, phong cách và nội
dung quản lý…cũng đã thay đổi nhiều đòi hỏi các nhà quản trị kinh doanh cần phải
xác lập các chuẩn mực về úng xử để phù hợp với hoàn cảnh trong và ngoài nước.
1.2.4. Một số nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp trong kinh doanh
1. Lắng nghe
 Mọi người thường có ấn tượng không tốt với những ai chỉ biết giải quyết các lời
phàn nàn mà không thực sự lắng nghe những gì họ nói.
 Khi bạn thực sự lắng nghe khách hàng, một cảm giác thoải mái, dễ chịu sẽ xuất
hiện trong lòng mỗi khách hàng- bởi vì sự lắng nghe chân thành là khá hiếm hoi, thậm
chí ngay cả khi bạn ở nhà và ở giữa những người thân.
 Lắng nghe tạo cho khách thấy bạn tôn trọng, đánh giá cao họ và quan tâm đến
họ.
2. Nhớ tên khách hàng
 Việc xưng hô bằng tên riêng trong cuộc nói chuyện với khách hàng sẽ cho thấy
bạn nhìn nhận họ với tư cách một cá nhân nói riêng chứ không phải đối tượng khách
hàng chung chung, qua đó thể hiện sự tôn trọng của bạn với khách hàng.

 Hãy dùng tên riêng của họ khi bạn nói lời chào hỏi, cảm ơn, tạm biệt.. để làm
cho bầu không khí trở nên nhẹ nhàng, thân thiện hơn.
 Tuy nhiên, bạn đừng sử dụng tên riêng của khách hàng một cách quá thường
xuyên bởi vì nó có thể khiến khách hàng khó chịu, hãy sử dụng vào lúc đầu và lúc kết
thúc cuộc hội thoại.
3. Nụ cười từ trái tim của bạn.
 Duy trì dịch vụ khách hàng với nụ cười trên khuôn mặt dường như là cái gì đó
hơi rập khuôn. Tuy nhiên nếu bạn muốn khách hàng yêu thích dịch vụ của bạn, hãy
thực hiện nó với một nụ cười chân thật.
3


 Một nụ cười chân thật sẽ khiến khách hàng cảm thấy họ được chào đón, an tâm
hơn và để lại trong lòng khách hàng một cảm giác nồng ấm.
 Nụ cười có tác dụng to lớn như vậy, nhưng cười phải đúng lúc.
4. Hãy cho khách hàng biết, họ là người quan trọng
 Họ biết rằng công ty bạn có rất nhiều khách hàng khác nhau nhưng họ chỉ thực
sự yêu quí nó nếu bạn khiến họ cảm thấy mình thực sự quan trọng với bạn.
 Hỏi khách hàng về những lời khuyên Khách hàng nào cũng có sẵn những ý kiến
cá nhân về cung cách làm việc của bạn và công ty bạn, và nếu họ được hỏi vào thời
điểm thích hợp theo những cách thích hợp, đồng thời họ cảm thấy rằng bạn thực sự
quan tâm đến câu trả lời, khách hàng sẽ đưa cho bạn lời khuyên đó.
 Không nên tỏ ra sẵn sàng tranh luận, cướp lời, khẳng định hơn thiệt với khách
hàng khi xảy ra những điều phàn nàn của khách. Việc cần thiết, và là nhiệm vụ của bạn
là phải lắng nghe, cảm ơn và tìm cách khắc phục thiếu sót ngay sau đó nếu có thể.
 Coi trọng ý kiến của khách hàng, đừng bao giờ nói họ lầm lẫn.
 Hãy để cho họ nói thoả thích những cái mà họ muốn nói.
5. Tôn trọng khách hàng
 “Tôi có thể giúp gì cho ông?” chứ không phải “ông muốn gì”.
 Luôn cười nói thật tâm chứ không đón khách bằng thái độ lạnh nhạt.

 Giải đáp đầy đủ thắc mắc, khiếu nại của họ chứ không phải làm lơ.
 Hãy luôn luôn phải giữ thể diện cho khách hàng.
 Không phân biệt đối xử với khách hàng.
6. Quan tâm thực sự đến khách hàng.
 Em/cháu…có thể giúp gì cho anh/chú…? Bạn muốn mang lại niềm vui cho
khách hàng, chứ không phải bạn cho khách hàng một cái gì đó“
 Việc này đi nguợc lại chính sách của chúng tôi”. Khách hàng không muốn giao
dịch với những người quan liêu, cứng nhắc, nên người phục vụ cần nhã nhặn tìm
hướng giải quyết linh hoạt trong chừng mực có thể. Hãy nhớ: “đừng để khách hàng
thất vọng”.
 Đó không phải là công việc của tôi. Trong trường hợp này, nên nói: “Tôi biết
người có thể giúp ông/bà giải quyết vấn đề này. Tôi sẽ giới thiệu ông/bà với người đó”.

4


 “Tôi chỉ làm việc ở đây thôi” Câu nói rập khuôn này tôi thường được nghe ở
hầu hết các nhân viên phục vụ bàn sau khi món ăn đem ra không đúng yêu cầu. Bằng
vài từ tồi tệ này, một nhân viên đã cho biết nõi đó không có lòng nhiệt tình, hăng hái,
quan tâm tới khách và nhân viên không sẵn lòng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
 81% khách hàng từ bỏ nếu họ cảm thấy rằng đối phương không có thiện chí
giúp đỡ hoặc không chú ý đến nhu cầu của khách hàng. Ví dụ: Khách hàng muốn mua
một chiếc xe tiêu tốn ít nhiên liệu và có kích cỡ nhỏ để tiện đi trong thành phố vốn đã
rất chật chội, nhưng suốt buổi họ toàn được nghe người bán hàng “thao thao bất tuyệt”
về những thế mạnh của chiếc xe cồng kềnh.
7. Giúp đỡ khách hàng nhiệt tình.
 Hãy để tôi giúp bạn một tay. Dù chỉ là giúp đỡ khách mang hàng ra xe hay đơn
giản là mở cửa giúp người đang mang hàng nặng trên tay thì một thông điệp rõ ràng đó
là bạn sẵn sàng giúp đỡ họ và ấn tượng này sẽ hằn sâu vào tâm trí khách hàng. Và tất
nhiên, nó sẽ khiến họ quay trở lại với bạn vào lần sau.

 Thông tin cho khách các dịch vụ khác mà khách quan tâm nếu bạn có thể.
8. Kiên định quan điểm
 Không nên gió chiều nào che chiều ấy mà cần phải học cách nói lời của chính
mình.
 Nhưng cũng không được phản bác quan điểm của người khác mà đề xuất các
phương án giải quyết hợp lý.
9. Đừng thích tranh biện
 Cần bình tĩnh nói, tránh biến cuộc nói chuyện thành cuộc thi hùng biện.
10. Hiểu rõ thông điệp của người nói
 Hãy nhớ rằng những gì người khác nói và những gì chúng ta nghe có thể hoàn
toàn khác nhau! mọi sự chắt lọc, giả định, phê phán cũng như tin tưởng mang màu sắc
cá nhân của chúng ta có thể sẽ bóp méo những gì chúng ta nghe được.
 Bạn nên gợi lại hoặc tổng hợp lại những gì người khác nói để chắc chắn mình
đang hiểu được vấn đề. Hãy nhắc lại những gì bạn cho rằng mình đang nghe được và
hỏi ‘Tôi có hiểu đúng bạn không nhỉ?’ Nếu bạn thấy mình bị động chạm bởi những gì
người khác vừa nói thì hãy nói như vậy, sau đó hãy hỏi thêm để hiểu rõ vấn đề: ” Có
thể tôi không hiểu đúng ý bạn và đã cảm thấy bị xúc phạm bởi điều bạn vừa nói. Tôi
cho rằng những gì bạn vừa nói có nghĩa là XXX; có đúng ý bạn là như vậy không?”
5


11. Khuyên người khác
 Đừng đưa ra lời khuyên trừ phi người ta hỏi bạn. Điều này có thể sẽ rất khó
thực hiện, nhất là khi chúng ta thấy rõ rằng ý tưởng của mình sẽ có lợi cho người đó.
 Thay vì nói ”Bạn nên làm thế này”, bạn nên sử dụng một số cách nói khác thể
hiện rõ sự tôn trọng của mình, ví dụ như ”một cách khá khả thi là..” hoặc ” có một
cách đã giúp tôi trong trường hợp tương tự như thế này là X. Nếu bạn nghĩ nó sẽ giúp
ích được cho bạn thì tôi rất vui lòng chia sẻ với bạn điều đó”.
13. Hãy cố hiểu người khác
 Bạn hãy tìm ra một điểm tương đồng thay vì chỉ chăm chăm vào sự khác biệt

giữa bạn và người khác.
 Điều gì có thể khiến cả hai người cùng thích thú (ví dụ như việc gỡ rối một vấn
đề nào đó)? Một cách để bắt đầu khám phá ra điểm tương đồng chính là việc chia sẻ
các dự định thầm kín của mình- ví dụ như bạn có thể nói: “Dự định của tôi khi chia sẻ
với bạn về điều này chính là để giúp bạn thành công trong dự án này”

6


Chương 2. Đặc trưng về văn hóa giao tiếp trong kinh doanh tại Việt Nam
2.1. Một số đặc trưng cơ bản
2.1.1. Thái độ giao tiếp
Xét về thái độ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là
vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè.
Như đã nói, người Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi
trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính
cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp,
và do vậy rất thích giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra quan hệ: “Dao năng liếc thì sắc, người
năng chào thì quen”. Sự giao tiếp củng cố tình thân : “Áo năng may năng mới, người
năng tới năng thân”. Năng lực giao tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng
đầu để đánh giá con người: “Vàng thì thử lửa, thử than – Chuông kêu thử tiếng, người
ngoan thử lời”.
Đó là nguyên nhân dẫn đến người Việt trọng giao tiếp, đây cũng được xem là tiêu
chuẩn đầu tiên để đánh giá con người. (Thích giao tiếp thăm viếng nhau không phải do
nhu cầu công việc mà là để thắt chặt thêm mối quan hệ, với khách thì rất tôn trọng,
hiếu khách, luôn dành những thứ tốt nhất).
Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai đặc điểm:
Từ góc độ của chủ thể giao tiếp thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Đã
thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần chăng nữa, lúc rảnh rỗi họ
vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng không còn là nhu cầu công việc (như ở phương Tây)

mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ.
Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến
nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu cũng cố gắng tiếp
đón chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, đồ ăn ngon
nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không bằng đói bữa. Tính hiếu
khách này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa
xôi.
Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc tính hầu như ngược
lại là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại
đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau (thích giao tiếp và rụt rè) này bắt nguồn từ
hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Khi đang ở
7


trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt
Nam sẽ tỏ ra xởi lởi, thích giao tiếp. Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người lạ,
nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng
như trái ngược nhau ấy ko hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi
trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho cách
ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
2.1.2. Quan hệ giao tiếp
Xét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn
người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử:”Yêu nhau yêu cả đường
đi/ ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”; “Yêu nhau cau sáu bổ ba/ghét nhau cau sáu bổ
ra làm mười”; “Yêu nhau chín bỏ làm mười”; “Yêu nhau củ ấu cũng tròn/ghét nhau
quả bồ hòn cũng méo”; “Yêu nhau mọi việc chẳng nề/một trăm chỗ lệch cũng kê cho
bằng”…
Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng
vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng
vẫn thiên về tình hơn: Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình. Người Việt Nam luôn

coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời. Ai nhớ mình một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo
ban một chút cũng phải tôn làm thầy – khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ,
thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý, thầy phù thủy…
Người việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá đó là một đặc trưng
trong văn hóa giao tiếp của người Việt Nam.
Có thể do bị ảnh hưởng bởi tính cộng đồng, nên người Việt Nam luôn thấy mình
cần có trách nhiệm quan tâm đến người khác, và để thể hiện sự quan tâm đó thì họ cần
biết rõ hoàn cảnh. Đó là lí do vì sao mà bạn phải thường xuyên trả lời những câu hỏi
có liên quan đến quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, công việc, gia đình, bố
mẹ…..Ngoài ra, do lối sống tình cảm, nên trong kỹ năng giao tiếp ứng xử, người Việt
Nam luôn có cách xưng hô riêng cho cá thể khác nhau cho phù hợp.
2.1.3. Đối tượng giao tiếp
Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ còn
hay mất, đã có vợ/ chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề
người Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người nước

8


ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi
nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Tính hay quan sát khiến người Việt Nam có được một kho kinh nghiệm xem
tướng hết sức phong phú : chỉ cần nhìn vào cái mặt, cái mũi, cái miệng, con mắt,... là
đã biết được tính cách của con người. Chẳng hạn, riêng về xem người qua con mắt đã
có các kinh nghiệm : “Đàn bà con mắt lá dăm- Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”;
“Người khôn con mắt đen sì, Người dại con mắt nửa chì nửa thau”, “Con lợn mắt trắng
thì nuôi - Những người mắt trắng đánh hoài đuổi đi”, “Những người ti hí mắt lươn Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người”;”Trên trời Phạm Nhan, Thế gian một
mắt”…
Biết tính cách, biết người là để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp : “Tùy mặt
gửi lời, tùy người gửi của”; “Chọn mặt gửi vàng”. Trong trường hợp không được lựa

chọn thì người Việt Nam sử dụng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt : “Ở bầu thì
tròn , ở ống thì dài” ; “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến
người khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối sống trọng
tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên nếu không có đủ
thông tin thì không thể lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp được. Biết tính cách, biết
người để lựa chọn từ xưng hô cho phù hợp: Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy
người gửi của. Khi không được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích
ứng một cách linh hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với
ma mặc áo giấy.
2.1.4. Chủ thể giao tiếp
Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc
điểm là trọng danh dự: “Tốt danh hơn lành áo’; “Đói cho sạch, rách cho thơm”; “Trâu
chết để da, người ta chết để tiếng”. Danh dự gắn với năng lực giao tiếp: Lời hay nói ra
để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng.
Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện: “Ở đời
muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”; “Đem chuông đi đấm
nước người, không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh”; ‘Một quan tiền công không bằng
một đồng tiền thưởng”. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng qua tục lệ ngôi thứ
nơi đình ttrung và tục chia phần. Do danh dự (sỹ diện), các cụ già vẫn có thể to tiếng
9


nhau vì miếng ăn: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Lối sống trọng danh
dự dẫn đến cơ chế tạo tin đồn, tạo nên dư luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của
cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã.
2.1.5. Cách thức giao tiếp
Cũng chính vì sự tế nhị nên người Việt Nam là luôn chọn cách vòng vo khi trình
bày hay giải thích một vấn đề chính nào đó, nhằm làm hạn chế mâu thuẫn. Lối giao
tiếp có văn hóa, ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình, lối sống tư duy

trong các mối quan hệ. Chính sự tế nhị trong giao tiếp đã tạo nên sự đắn đo cân nhắc
khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu quyết đoán, nhưng đồng thời giữ
được sự hòa thuận không mất lòng.
Tính tế nhị khiến cho người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam
quốc”, không bao giờ mở đầu tực tiếp, đi thẳng vào đề như người phương Tây. Truyền
thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng
vườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng trầu là đầu câu chuyện.
Với thời gian, chức năng “mở đầu câu chuyện” này của “miếng trầu” được thay thế
bởi chén trà, điều thuốc lá…
Để biết người đối ngoại với mình có còn cha mẹ hay không, người Việt Nam
thường hỏi : “Các cụ nhà ta vẫn mạnh giỏi cả chứ?”. Để biết người phụ nữ đang nói
chuyện với mình có chồng hay không, người Việt Nam ý tứ sẽ hỏi : “Chị về muộn thế
liệu anh nhà( ông xã) có phàn nàn không?”. Còn đây là lời tỏ tình rất vòng vo của ngời
con trai Nam Bộ - nơi mà người Việt có tiếng là bộc trực hơn cả : “Chiếc thuyền giăng
câu, Đậu ngang cồn cát, Đậu sát mé nhà, Anh biết em có một mẹ già, Muốn vô phụng
dưỡng, biết là đặng không?” ( Ca dao).
Lối giao tiếp "vòng vo tam quốc" kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao
tiếp tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi - "chào" đi liền với "hỏi" : "Bác đi đâu
đấy?", "Cụ đang làm gì đấy ?"... Ban đầu, hỏi là để có thông tin, dần dần trở thành một
thói quen, người ta hỏi mà không cần nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với những câu
"trả lời" kiểu : "Tôi đi đằng này một cái" hoặc trả lời bằng cách hỏi lại : Cụ đang làm
gì đấy? Đáp:”Vâng! Bác đi đâu đấy?”.
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy
trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng:
“Ăn có nhai, nói có nghĩ”; “Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói”; “Biết thì
10


thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”; “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho
người dại nửa mừng nửa lo”… Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt

Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán, nhưng đồng thời giữ được sự hòa thuận,
không làm mất lòng ai.
Người Việt Nam rất hay cười, nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao
tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả lúc ít chờ đợi nhất.
Tâm lý ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn: Một sự nhịn
là chín sự lành; Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa có đời nào khê…
2.1.6. Nghi thức và lời nói
Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô: trong khi các ngôn ngữ
phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt còn sử dụng
một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô, và những danh từ thân
tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hô này có các đặc
điểm:
Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi mọi người trong cộng
đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống này không có những từ
xưng hô chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp
cụ thể: chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hô có kkhi thể hiện được
hai quan hệ khác nhau: chú-con, ông-con, bác-em, anh-tôi… Lối gọi nhau bằng tên
con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kỹ kưỡng: người Việt Nam xưng và hô theo nguyên
tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn
kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng xưng là em và cùng gọi nhau
là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên
riêng khi chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng tên của những người bề
trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt Nam trước
đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai phải hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động
đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình cảm
và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho
mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin

11


lỗi khác nhau: “Con xin chú” (cảm ơn khi nhận quà), “Chị chu đáo quá”(cảm ơn khi
được quan tâm), “Bác bày vẽ quá” (cảm ơn khi được đón tiếp), “Quý hóa quá” (cảm
ơn khi khách đến thăm), “Anh quá khen” (cảm ơn khi được khen),”Cháu được như
hôm nay là nhờ cô đấy” (cảm ơn khi được giúp đỡ)…
Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt
Nam phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi
đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như
chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối…
2.2. Sự khác nhau giữa văn hóa giao tiếp trong kinh doanh tại 3 miền Bắc, Trung
Nam
2.2.1. Văn Hóa Giao Tiếp Kinh Doanh Miền Bắc:
Do thói quen văn hóa – lịch sử, Người miền Bắc mang đậm cốt cách của kẻ sĩ vì
thế họ ưa sự tế nhị, ý tứ với cách nói vòng vo tam quốc, không đi thẳng trực tiếp vào
vấn đề luôn để tránh những lời nói hớ, tránh sự thật mất lòng hay để lảng tránh một
vấn đề tế nhị, không thích. Thái độ giao tiếp thường bảo thủ, không dễ dàng chấp nhận
cái mới. Họ thường coi trọng những cái cũ, gắn bó với những lối sống từ xưa vì thế mà
trong giao tiếp họ rất quan tâm đến bề ngoài, đến lời nói. Ví dụ như, người Bắc sẽ
xưng hô và nói năng lịch sự trịnh trọng, luôn giữ ý tứ, luôn chú ý về ngôn từ nhưng họ
rất mạnh mẽ tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình đến cùng. Họ sẽ hỏi tuổi tác để
họ biết cách xưng hô sao cho phải phép với vai vế. Dù có hơn một tuổi vẫn là anh.
Cũng từ nếp sống tiết kiệm dè dặt mà người Bắc luôn yêu cầu chất lượng dịch vụ cao
hơn. Nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đình Đầu lý giải các câu chuyện trên rằng bởi
Hà Nội là một đô thị mang tính hướng nội, nép mình nhờ sự bảo vệ của sông Hồng. Ở
đây môi trường là yếu tố quyết định, anh có thể tài giỏi, nhưng cái anh có thể là thay
đổi bản thân thích ứng với môi trường, chứ anh không thể nào thay đổi được môi
trường
2.2.2. Văn Hóa Giao Tiếp Kinh Doanh Miền Trung:

Khắc hẳn với Người Miền Bắc, Người Miền trung những con người của vùng
đất khắc nghiệt đầy nắng, mưa và gió, vốn tính chịu thường chịu khó cũng làm nên
những nét rất riêng trong cách suy nghĩ, văn hóa cũng như giao tiếp kinh doanh so với
các vùng khác trong cả nước. Với điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên họ chỉ còn
cách và tìm cách hoà với thiên nhiên, nương theo thiên nhiên để làm lợi cho mình..
12


Môi trường như thế đã tác động đến cách ứng xử của họ, thích nghi đến thụ động và
chịu đựng, chú trọng gìn giữ sự cân bằng đó. Họ rất xem trọng danh dự, ưa sự hòa
thuận nên luôn nhường nhịn trong giao tiếp. Cách cư xư của họ cũng mang đậm nét
truyền thống như là kính trọng người lớn tuổi và những người có địa vị xã hội cao.
Người miền Trung sẽ khiêm tốn trong cách xưng hô xong họ lại rất nhiệt tình và chân
thành, lối nói giản dị bộc bạch không khoa trương mà thẳng thắn. Họ còn được nhiều
người đánh giá là coi trọng tình nghĩa và những mối làm ăn thân thiết lâu năm. Một
điểm vô cùng thú vị ở miền Trung đó chính là chất giọng, ngôn từ mang tính vùng
miền khá nhiều. Vì thế đối với một vài đối tác sẽ cảm thấy khó nghe, khó hiểu .
2.2.3. Văn Hóa Giao Tiếp Kinh Doanh Miền Nam
Một nhà văn hóa đã từng khái quát rằng Người Bắc “bảo thủ” , ngại thay đổi,
thường làm theo truyền thống và thói quen, còn người miền Nam năng động mà vẫn
ung dung thư thái, chân phương mà cởi mở, bộc trực mà dễ chịu. Người Sài Gòn luôn
có tinh thần học hỏi, nhanh nhạy và năng động trong kinh doanh . “Chịu chơi” theo
kiểu dám làm dám chịu, không bao giờ chịu bó tay là đặc tính của cư dân Sài Gòn, từ
những con người bình dị đến giới trí thức. Tính cách ngay thẳng, làm dịch vụ mua bán
lớn nhỏ sòng phẳng đã tạo ra một ưu điểm mà rất nhiều đối tác cảm thấy vô cùng tin
tưởng đối với các doanh nghiệp tại miền Nam. Sống đơn giản chân thật, không khéo
léo và cầu kì, không thâm thúy nhưng cũng không có nghĩa là nhật nhẽo và hời hợt.
Tính cách cởi mở chan hòa dễ kết thân dễ hòa đồng tạo ra bầu không khí luôn sôi nổi
vui tươi và dễ nói chuyện hơn, dễ thu hút khách hàng hơn. Nếu giọng Bắc chắc khỏe,
rành mạch thì với giọng ngọt ngào của người miền Nam dường như có sức lôi cuốn

người khác hơn, dễ thuyết phục đối tác hơn. Họ cũng không quá câu nệ từng câu nói
như miền Bắc vì thế mà ngành dịch vụ trong này rất phát triển và không có tính khắt
khe như miền Bắc. Một điều dễ nhận thấy nhất đó là sự niềm nở nhiệt tình của dân
miền Nam mà không lẫn đi đâu được và có thể được coi là xếp hạng nhất trong 3
miền. Ở đâu trên nước Việt Nam mà người dân không hiếu khách, nhưng ở Sài Gòn,
phong cách ấy thể hiện đậm nét ở vài khía cạnh nào đó. Chính những nét khác biệt
trong cách ứng xử đó mà người miền Nam có được những nghệ thuật chiêu đãi khách
hàng đối tác. Những hợp đồng kí trên bàn nhậu nhiều hơn, họ luôn tạo cho khách hàng
cảm thấy mình được lợi nhiều hơn.

13


Mỗi vùng đất đều có những điều thú vị, mỗi nét, mỗi đặc trưng riêng kể cả trong
văn hóa giao tiếp. Nếu miền Nam nổi bật với Sài gòn đáng yêu với những con người
hiếu khách, lanh lẹ, bộc trực thì miền bắc với nền văn hóa khép kín nhưng đến một lần
là không dễ quên hay miền Trung nhọc nhằn sương gió với những con người siên
năng, cần cù, cẩn thận, ghét sự dối trá, cẩu thả. Mỗi miền tuy có sự khác nhau song
vẫn có những nét chung để tạo nên một nền văn hóa giao tiếp đậm chất Á Đông.

14


Chương 3. Những lưu ý và những kĩ năng cần thiết trong giao tiếp kinh doanh
tại Việt Nam
3.1. Những lưu ý giao tiếp trong kinh doanh tại Việt Nam
Không có bất kì một thang đánh giá chuẩn nào cho hoạt động giao tiếp trong
kinh doanh, đặc biệt với 1 đất nước có một nền văn hóa hàng nghìn năm văn hiến thì
văn hóa giao tiếp trong kinh doanh càng bị ảnh hưởng sâu đậm. Với nền văn hóa gốc
nông nghiệp điển hình mang đầy đủ các đặc trưng của văn hóa phương đông, Việt

Nam cũng có những lưu ý mà những ai mới tiếp xúc để trao đổi, đàm phán cần phải
lưu ý.
– Quà tặng
Tặng quà ngày nay được xem là một nét văn hóa trong giới kinh doanh hiện đại.
Nó là cả một nghệ thuật giao tiếp quan trọng trong kinh doanh, buộc những người
trong cuộc phải có những hiểu biết nhất định nếu muốn hợp tác kinh doanh thành công
với các đối tác đến từ các nền văn hóa khác nhau. VÌ vậy, tặng quà là một biểu hiện
văn hóa cực kỳ phổ biến ở Việt Nam. Một khung hình, một bức tranh, một chai rượu,
đặc sản địa phương hay chính những món quà lưu niệm có in logo công ty là những
món quà khá phổ biến sau khi kết thúc cuộc gặp gỡ. Đặc biệt, vàp dịp lễ hay Tết, đừng
quên tặng quà và thiệp chúc mừng cho đối tác và các mối quan hệ của bạn! Trong kinh
doanh, tặng quà không hẳn chỉ là những vấn đề tuân theo những quy ước của phép lịch
sự. Nó chính là nghệ thuật giao tiếp thương mại góp phần thúc đẩy kinh doanh thành
công. Chỉ một món quà nhưng sự thiện chí, sự gần gũi được kéo lại rất nhiều, công
việc sẽ càng trở nên thuận lợi hơn.
– “Hợp đồng kí kết trên bàn nhậu”
Các bữa ăn chính sau mỗi lần gặp gỡ, trao đổi, đàm phán là một phần tất yếu để
các hợp đồng, các thỏa thuận đi đến hồi kết, đạt được một kết quả cụ thể. Nhiều cuộc
kí kết còn trực tiếp diễn ra tại các nhà hàng mà không cần phải là qua công ty trước.
Các bữa ăn với khách hàng, đối tác giúp phát triển quan hệ và làm cho khách hàng, đối
tác cảm thấy mình được tôn trọng và cảm thấy ‘nở mặt nở mày’. Cách ăn uống của
người Việt trong bữa tiệc cũng khác. Khi ăn tất cả mọi người sẽ ngồi thành bàn tròn,
dùng đũa và rất khi ăn tiệc đứng. Ăn sẽ kèm với uống rượu hoặc bia. Nếu bạn hì hụi
uống một mình hay từ chối thửng thừng được coi là bất lịch sự. Thói quen của mọi
người là chỉ uống sau khi đã cụng ly! Cầm ly tay phải, tay trái nâng cao một cách hào
15


sảng, cùng hô ‘Trăm phần trăm’. Hô càng to thì càng thể hiện sự nhiệt tình, thân thiết
đối với nhau. Một điểm đáng phải lưu ý hiện nay là nếu bạn biết hát thì càng tốt, chuẩn

bị vài bài ‘tủ’ vì sau bữa ăn thường sẽ là giao lưu bằng karaoke. Một điều tạm gọi là
thú vị, đó là đàn ông Việt Nam rất hay phì phèo hút thuốc trong bữa ăn. Bởi họ khoái
vừa ăn vừa lai rai tán gẫu. Vì vậy, tiến trình đàm phán sẽ dài, không có một quá trình,
cách thức kí hợp đồng cụ thể nhất định.
Một ví dụ cho các hợp đình được kí kết trên bàn nhậu như sau: Anh Thắng hiện
đang làm việc ở một công ty xây dựng và thiết kế nội thất ở TPHCM. Công việc của
anh trước đây là thiết kế bản vẽ theo yêu cầu của khách hàng. Tháng trước công ty
thăng chức cho anh lên làm trưởng phòng. Bên cạnh công việc chuyên môn, anh còn
phải chăm sóc khách hàng cũng như tìm hiểu yêu cầu của khách để sửa thiết kế cho
phù hợp. Vì vậy anh cần phải gặp trực tiếp khách hàng nhiều hơn, cần mở rộng quan
hệ nhiều hơn. Anh cho rằng đa phần các buổi đàm phán đều diễn ra trên bàn nhậu,
trong các cuộc gặp mặt tại nhà hàng. Những cuộc gặp mặt này tạo ra được những kết
quả tốt đẹp như mình mong muốn, đôi lúc còn có thêm được nhiều hợp đồng hơn, mở
rộng được mối quan hệ hơn.
-Trang phục
Trang phục trong giao tiếp kinh doanh nhằm giúp cho người mặc toát lên vẻ
thanh lịch, trang nhã, chuyên nghiệp, có uy tín, tự tin, đứng đắn, đáng tin cậy. Bởi do
khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm vì vậy trang phục Việt Nam luôn đa dạng có nhiều màu
sắc, kiểu dáng và cần có một vài lưu ý sau. Đối với nam, mùa hè mặc bộ complete
màu nhạt vải mỏng hoặc áo sơ mi bỏ trong quần, thắt cavat để thêm trang trọng, mùa
đông nên mặc complete màu sẫm vải dày. Đồng thời nam giới có thêm đồng hồ đeo
tay thì sẽ tạo nên sự trưởng thành, chững trạc. Nữ giới sẽ khó khăn hơn nam giới trong
việc lựa chọn trang phục bởi vì các chi tiết và phụ trang đi kèm của phụ nữ luôn đa
dạng hơn. Tuy nhiên, những màu đen – trắng – xám sẽ có tác dụng nâng cao vị trí của
nữ giới trong mắt người đối diện. Các loại áo sơ mi hay váy có màu xanh dương, các
gam màu sáng nhạt, màu trung gian, các màu gợi sắc thiên nhiên (cát, đá, nước, cỏ
cây…) được xem xét để tạo nên sự đa dạng. Những màu chói và rực rỡ đều không phù
hợp. Trong các buổi đàm phán, nữ giới được khuyên nên mặc áo dài vào mùa hè, mùa
đông có thể khoác thêm áo khoác ngoài để tạo sự duyên dáng nhưng vẫn sang trọng
hoặc mặc complete nữ để tạo sự chỉn chu, quý phái, thần thái. Và nên kết hợp với các

16


loại trang sức như đồng hồ đeo tay, dây chuyền thì sẽ tăng vị thế của mình hơn, tạo độ
tin cậy hơn cho người đối diện.
-Nhập gia tùy tục
Đôi với 1 doanh nhân khi gặp gỡ với đối tác là người Việt Nam. Hãy mở đầu câu
chuyện bằng việc giới thiệu về bản nhân. Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên nếu họ muốn
biết tuổi của bạn. Đó là cách để người Việt chọn vai khi xưng hô cho thêm phần thân
mật do sự phong phú về đại từ nhân xưng trong tiếng Việt. Một vài đối tác nước ngoài
cũng thấy rất vui vẻ vì người Việt rất thích nói chuyện gia đình, con cái. Ngay buổi
làm việc đầu tiên mà chia sẻ cho nhau những câu chuyện về gia đình thì họ có cảm
giác rằng mọi thứ đều suôn sẻ, hầu như không có e ngại, khoảng cách.
Người Việt Nam rất lịch sự, luôn mỉm cười và tỏ ra đồng ý với bạn, ngay cả khi,
trên thực tế, họ có thể không hiểu hết điều bạn vừa nói! Nếu mà bạn cười thì sẽ tạo ra
được không khí thoải mái và đối tác của bạn sẽ tích cực hơn trong việc trình bày với
bạn những vấn đề liên quan. Nhưng đôi khi bạn cười ko đúng lúc thậm chí ko hiểu hết
ý có khi đối tác của bạn lại cho rằng cười trừ. Đáp lại, bạn cũng nên giữ thái độ niềm
nở. Điều quan trọng nhất trong đàm phán với người Việt là kiên trì! Có thể nói thái độ
chậm chễ giờ cao su là thái độ thường nhật trong con người Việt Nam hiện đại. Cuộc
gặp gỡ có thể không bắt đầu như thời gian định trước. Một vài lưu ý nên tránh để cuộc
đàm phán đạt kết quả tốt hơn như không gọi tên người có thứ bậc địa vị cao hơn,
không tự đề cao bản thân một cách thoái quá hay không thể hiện cảm xúc quá khích,
hành động thân mật ở nới công cộng vì người Việt không thích những hành động
không phù hợp với truyền thống từ thười xa xưa.
3.2. Những kĩ năng cần thiết trong giao tiếp kinh doanh tại Việt Nam
-Chuẩn bị trước khi giao tiếp:
Giao tiếp mặc dù là kĩ năng ứng xử nhưng sự chuẩn bị cho các tình huống giao
tiếp là hết sức cần thiết. Trên thực tế, phần lớn các tình huống giao tiếp thông minh của
các doanh nhân là do đã chuẩn bị tinh thần hoặc kinh nghiệm để lại. Trong một bữa

tiệc hay một sự kiện có đông người, bạn sẽ thấy có những người nổi lên giữa đám
đông với một phong cách hòa đồng bên cạnh những người có vẻ kín đáo hơn. Họ
thường chủ động bắt chuyện với mọi người, niềm nở và có thể bắt chuyện với bất cứ
ai. Đó là một kỹ năng rất cần thiết cho người kinh doanh, nhưng trong thực tế, không
phải ai cũng có được kĩ năng này.
17


-Đến dự với tinh thần thoải mái:
Nếu bạn đi mà cho rằng đó là bất đắc dĩ và thấy không thoải mái, bạn sẽ làm cho
buổi gặp gỡ trở nên miễn cưỡng. Hãy nghĩ rằng đó là một cơ hội tốt để tiếp xúc với
nhiều người và bạn sẽ có buổi gặp gỡ vui vẻ và thú vị. Thay vì đứng lặng lẽ, dựa vào
tường, vắt chéo tay và khuôn mặt không mấy vui vẻ, bạn sẽ luôn cười nói, đi tới đi lui
để tiếp chuyện và tỏ ra rất thoải mái trong giao tiếp với mọi người.
- Chuẩn bị câu chuyện trước khi nói:
Người ta cảm thấy dễ gần người khác hơn khi có cái để nói. Để buổi đàm phán
đạt được kết quả mỹ mãn thì bạn phải có sự chuẩn bị thấu đáo về cả mặt hình thức lẫn
nội dung. Bên cạnh công cụ giao tiếp là lời nói, tác phong chuẩn mực tạo phông nền
cho việc thương lượng, thì bạn cần có sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng về mặt nội dung,
những vấn đề liên quan đến trao đổi công việc, thông tin nào bạn muốn biết về đối tác
cũng như giải đáp thắc mắc từ phía họ. Bạn phải hình dung và vạch ra sẵn những điều
khoản thiết yếu sẽ được đề cập đến trong thời điểm đó, những câu hỏi bạn đưa ra cho
họ và những câu trả lời dự kiến cho những điều họ sẽ hỏi. Tất nhiên cuộc đàm phán
của bạn không chỉ gói gém theo khuôn mẫu định sẵn mà sẽ có những vấn đề nảy sinh
cần bàn bạc thêm giữa hai bên. Nhưng chính sự chuẩn bị vừa tạo cho bạn tâm thế tự
tin, vừa giúp bạn giữ được thế chủ động trong suốt quá trình đàm phán.
- Luyện tập kỹ năng nghe:
Biết cách lắng nghe và đàm phán dựa trên nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng là
cách tốt nhất đem lại sự thỏa hiệp từ cả hai phía, bởi trong một cuộc nói chuyện, tất
yếu sẽ phát sinh những ý kiến trái chiều, chính vì vậy, thay vì cố chấp, bảo thủ, độc

đoán chỉ làm vấn đề càng thêm nghiêm trọng thì một chút nhún nhường, lắng nghe lý
giải từ đối phương sẽ làm tăng tỷ lệ thành công của cuộc đàm phán và mang đến sự hài
lòng từ cả hai phía, mà không có bất kỳ những khúc mắc nào. Nhưng nhún nhường ở
đây không có nghĩa là bạn dễ dàng thay đổi mà không có sự cân nhắc hợp lý để đưa ra
quyết định, trong một số trường hợp bạn cần giữ vững quan điểm của mình và đưa ra
lời khuyên đúng đắn thuyết phục đối tác vì khách hàng sẽ lựa chọn những đối tác có
chính kiến và lập luận chắc chắn hơn là những người không có chủ kiến cá nhân và
không kiên định.
- Lịch sự lúc chia tay

18


Bạn không chỉ cần lịch sự lúc ban đầu gặp nhau mà cách bạn rút lui, chia tay
cũng là một phần của kỹ năng giao tiếp. Nhiều người tìm cách lặng lẽ rút khỏi cuộc
gặp gỡ và cho rằng để không ảnh hưởng tới không khí của người khác. Đó là cách lý
giải không hợp lý vì bạn sẽ không gây được ấn tượng. Trong kinh doanh, cách bạn
chia tay sẽ góp phần tăng cường hình ảnh của bạn và có thể mở ra những cơ hội mới
với đối tác. Những câu nói: “Hy vọng được gặp lại ông tại ”, “Tôi rất vui mừng được
nghe anh nói về ” không phải là vô ích. Cùng với cái bắt tay, nụ cười thân thiện sẽ
khiến bạn nhanh chóng chiếm được cảm tình từ phía đối tác, tạo bàn đạp thúc đẩy cuộc
nói chuyện diễn ra suôn sẻ và chót lọt.

19


KẾT LUẬN
Văn hóa giao tiếp trong kinh doanh là những giá trị lớn, nó có sức thuyết phục
cao nhưng cũng là bức tường thành kiên cố nếu không biết cách vượt qua. Đòi hòi
người làm kinh doanh lại càng phải hiểu sâu về văn hóa khách hàng của mình. Trên

mảnh đất hình chữ S này, có rất nhiều điều khác biệt, nhưng trong mỗi vùng miền, mỗi
con người và trong chính những người sinh ra ở một miền, lớn lên ở một miền và cuộc
đời tạo ra cơ duyên sống ở nhiều vùng miền khác, luôn có sự pha trộn văn hóa trong
nếp sống, trong kinh doanh như sự chuyển động không ngừng của dòng chảy cuộc
sống. Chính vì vậy việc tìm hiểu về văn hóa giao tiếp trong kinh doanh của Việt Nam
cũng như văn hóa giao tiếp đặc trưng của từng vùng miền giúp ta biết để có thể thành
công trên nhiều phân khúc thị trường ở mọi miền đất nước thì các doanh nghiệp cần
phải chú ý đúng mức cho việc giao tiếp đối với khách hàng, nhà cung cấp, đối tác kinh
doanh…
Văn hóa giao tiếp kinh doanh là nghệ thuật tạo nên mối quan hệ hài hòa trong các
khác biệt. Tùy vào thói quen, cách xưng hô, cư xử,… của từng vùng miền mà tạo nên
những nét riêng cho giao tiếp của vùng miền. Nhà kinh doanh cần phải có sự linh hoạt
và sự tìm hiểu về văn hóa giao tiếp của vùng miền mà mình muốn tiếp cận để có cách
ứng xử trong giao tiếp cho phù hợp cho từng đối tượng và từng khu vực khác nhau.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn hoá đạo đức trong giao tiếp ứng xử xã hội. Nguyễn Văn Lê, Nxb Văn hoá Thông
tin, 2005.
Văn hoá giao tiếp ứng xử. Đinh Viễn Trí, Đông Phương Tri. Nxb Văn hoá thông tin Hà
Nội, 2003.
Văn hoá và ngôn ngữ giáo tiếp của người Việt. Hữu Đạt. Nxb Văn hoá thông tin Hà
Nội, 2000.
Giao tiếp thông minh và tài ứng xử. Đào Bằng, Khuất Quảng Hỷ. Nxb Văn hoá Thông
tin, 2002.

21




×