Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận kinh tế quốc tế những tác động của khu vực thương mại tự do AIFTA tới nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.59 KB, 31 trang )

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm và cơ sở hình thành của AIFTA
1.1

Khái niệm về AIFTA

AIFTA là viết tắt của ASEAN IDIAN FREE TRATE AREA có nghĩa là khu vực
thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác kinh tế
toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Ấn Độ.
Theo cam kêt , Các Bên phải hưởng ưu đãi thuế từ các Bên khác đối với các dòng
thuế cụ thể được nêu cụ thể và áp dụng phù hợp với biểu cam kết thuế liên quan trong
Phụ lục cùng với những điều kiện quy định theo đó để cho Bên đó tôn trọng cam kết
của mình đối với việc cắt giảm thuế cho dòng thuế đó.
Thuế suất cụ thể trong Biểu cam kết trong Phụ lục này chỉ quy định mức thuế ưu
đãi AIFTA được mỗi Bên áp dụng đối với những dòng thuế liên quan trong năm thực
hiện cụ thể và không ngăn cản một Bên bất kỳ đơn phương đẩy nhanh việc cắt giảm
hoặc loại bỏ thuế vào bất cứ lúc nào mà bên đó muốn.
1.2

Cơ sở hình thành AIFTA
Khu vực tự do ASEAN Ấn Độ nổi lên từ lợi ích chung của cả hai bên để mở

rộng quan hệ kinh tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chính sách Hướng Đông
của Ấn Độ được đáp lại bởi lợi ích tương tự của nhiều nước ASEAN để mở rộng tương
tác về phía tây.
Sau khi Ấn Độ trở thành đối tác đối thoại của ASEAN vào năm 1992, Ấn Độ
chứng kiến thương mại của mình với ASEAN tăng lên so với thương mại với phần còn
lại của thế giới. Từ năm 1993 đến 2003, thương mại song phương ASEAN - Ấn Độ đã
tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 11,2%, từ 2,9 tỷ đô la Mỹ năm 1993 lên 12,1 tỷ đô
la Mỹ năm 2003.Phần lớn thương mại của Ấn Độ với ASEAN là hướng tới Singapore,
Malaysia và Thái Lan, nơi Ấn Độ nắm giữ các mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ.


Năm 2008, tổng khối lượng thương mại ASEAN - Ấn Độ là 47,5 tỷ USD.
Xuất khẩu của ASEAN sang Ấn Độ là 30,1 tỷ USD - tăng 21,1% so với năm 2007.
1


Nhập khẩu của ASEAN từ Ấn Độ là 17,4 tỷ USD - tăng 40,2% so với năm 2006. Đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Vốn đầu tư nước ngoài), dòng vốn từ Ấn Độ sang các
nước thành viên ASEAN là 476,8 triệu USD trong năm 2008, chiếm 0,8% tổng vốn
FDI trong khu vực. Tổng vốn FDI của Ấn Độ vào ASEAN từ năm 2000 đến 2008 là
1,3 tỷ USD. Dữ liệu thống kê thương mại và đầu tư của Đối tác ASEAN-Đối tác có thể
được truy cập thông qua />Thừa nhận xu hướng này và nhận ra tiềm năng kinh tế của các mối liên kết
chặt chẽ hơn, cả hai bên đã nhận ra cơ hội tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư,
và đồng ý đàm phán một thỏa thuận khung để mở đường cho việc thành lập Khu vực
thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ.

2. Những mục tiêu chính của AIFTA
Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ được ký ngày 13 tháng 08 năm 2009 tại
Thái Lan.
-

Cùng tạo nên một thị trường lớn , tốc độ tăng trưởng ngày càng lớn

Trong tương lai, quan hệ kinh tế giữa ASEAN và Ấn Độ có tiềm năng tăng đáng kể.
Hai bên cùng nhau tạo nên một thị trường gồm 2 tỷ người và tự hào có GDP 5 nghìn tỷ
USD. Cả hai đều có dân số trẻ để đáp ứng các nhu cầu của thị trường lao động và tầng
lớp trung lưu đang phát triển để hỗ trợ tiêu dùng. Ngoài ra, người ta ước tính ASEAN
và Ấn Độ tăng trưởng trong giai đoạn 2018-2020 với tỷ lệ trung bình tương ứng là
5,7% và 7,7%, so với 6,3% của Trung Quốc và 2,0% của Mỹ.
Về các mối quan hệ kinh tế, ASEAN là đối tác thương mại hàng hóa lớn thứ tư của Ấn
Độ và có đặc điểm nổi bật là điểm đến đầu tư nước ngoài then chốt của Ấn Độ. Có

khoảng 2.000 công ty Ấn Độ đang hoạt động ở nhiều nước ASEAN, bao gồm
Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Nhiều yếu tố đã góp phần vào
các quyết định đầu tư này, bao gồm Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Singapore-Ấn
Độ, Hiệp định thương mại song phương Singapore-Ấn Độ và Malaysia-Ấn Độ, sự kết
nối mạnh mẽ qua đường hàng không, sự hiện diện của một cộng đồng người Ấn Độ và
2


môi trường tạo thuận lợi cho kinh doanh của khu vực. Singapore đặc biệt đóng vai trò
là cửa ngõ cho đầu tư của Ấn Độ đến phần còn lại của khu vực.
-

Các nền kinh tế ASEAN và Ấn Độ mang đến cho nhau một điểm đến cho thương
mại và đầu tư

Trong trường hợp chiến tranh thương mại kéo dài giữa Mỹ và Trung Quốc, các quy tắc
thương mại và đầu tư trong AIFTA có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc
và tái phân bổ các dây chuyền sản xuất không còn lấy Trung Quốc làm trung tâm và
chuyển chúng sang ASEAN. Như vậy, các thành viên ASEAN đang có một vị trí thuận
lợi khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN cung cấp một môi trường pháp lý mạnh mẽ và hiệu
quả xung quanh thương mại, trong khi AIFTA liên kết nó với một nền kinh tế lớn trong
khu vực.
-

Các mối quan hệ mang tính định lượng và bổ sung hiện có đang hướng tới
thương mại dịch vụ lớn hơn giữa ASEAN và Ấn Độ trong tương lai

Các nước ASEAN nhằm mục đích tăng cường sự tham gia của họ vào mạng lưới sản
xuất trong khu vực và đây là nơi các công ty máy tính và dịch vụ thông tin của Ấn Độ
có thể giúp liên kết cấu trúc sản xuất rời rạc.

Quan hệ giữa người dân hai bên có thể được tăng cường với sự giúp đỡ của cộng đồng
người Ấn Độ ở các nước ASEAN. Ở Singapore, Malaysia, Thái Lan, Myanmar và
Philippines, người sắc tộc Ấn Độ chiếm một tỷ lệ nổi bật trong tổng dân số. Nhóm
người này tích cực trong các hoạt động kinh tế truyền thống, chẳng hạn như buôn bán
và công nghiệp dệt may. Trong những năm gần đây, các chuyên gia Ấn Độ tích cực
tham gia các lĩnh vực như dược phẩm, ngân hàng, tư vấn, kế toán, kỹ thuật và công
nghệ thông tin.
Còn có một số sinh viên Ấn Độ ở các nước ASEAN. Ví dụ, khoảng 10.000 sinh viên
Ấn Độ đang ở Philippines học ngành y và quản lý. 2.000 sinh viên khác đang theo học
3


tại Malaysia. Chính phủ Ấn Độ cũng đã cung cấp một số học bổng giáo dục đại học và
đào tạo cho các công dân ASEAN.

-

Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước ASEAN.

Bốn ngàn mặt hàng gồm sản phẩm điện tử, dệt may và hóa chất... hai chiều từ nay sẽ
được giảm và tiến tới loại bỏ thuế hoàn toàn vào năm 2016 theo AIFTA, một FTA giữa
ASEAN và Ấn Độ, được ký ngày 13-8-2009.
Với AIFTA đi vào cuộc sống từ 1-1-2010, hàng hoá giữa ASEAN và Ấn Độ, khu vực
có tới 1,1 tỷ dân, nay sẽ trao đổi trực tiếp và tự do, một vai trò mới thay cho các trung
gian châu Âu vẫn thực hiện trong suốt bốn trăm năm qua, từ thế kỷ XVI.
Vòng cung thương mại Đông Á - Ấn Độ Dương được nối lại, với mục tiêu tăng thêm
10 tỷ USD kim ngạch ngay trong năm đầu thực hiện AIFTA, mở ra kỷ nguyên mới,
những bờ biển dài giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương được nối liền như một “con
đường tơ lụa” hiện đại.


3. Những quy định cơ bản của AIFTA
-

Phạm vi

HIệp định này áp dụng với thương mại hàng hoá và tất cả các vấn đề liên quan khác
được đề cập trong Hiệp định khung.
-

Đãi ngộ quốc gia về Thuế nội địa và Quy định trong nước

Mỗi Bên phải dành đãi ngộ quốc gia cho hàng hoá của các Bên khác phù hợp với Điều
III của GATT 1994, được áp dụng với những sửa đổi phù hợp trong Hiệp định này.
-

Giảm và Loại bỏ thuế quan
4


Trừ khi được nêu trong Hiệp định này, mỗi Bên phải tự do hoá dần dần, khi phù hợp,
với mức thuế MFN áp dụng cho hàng hoá có xuất xứ của các Bên khác theo như Biểu
cam kết thuế của các Bên đó được quy định trong Phụ lục 1.
Không có quy định nào trong Hiệp định này ngăn cản một Bên tiến hành việc cắt giảm
và/hoặc loại bỏ đơn phương mức thuế MFN áp dụng đối với hàng hoá xuất xứ từ các
Bên khác được quy định tại Biểu cam kết cắt giảm/loại bỏ thuế trong Phụ lục 1.
Trừ khi được quy định tại Đoạn 1, tất cả cam kết của một Bên theo Điều này cần phải
được áp dụng cho tất cả các Bên khác.
-


Các biện pháp phi thuế quan

Mỗi Bên phải:
Không được ban hành hoặc duy trì bất kỳ một biện pháp phi thuế quan nào đối với
việc nhập khẩu của bất kỳ hàng hóa nào của các Bên khác hoặc đối với việc nhập khẩu
hoặc bán hàng xuất khẩu của bất kỳ hàng hoá nào của các nước thành viên khác, trừ
khi phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của WTO hoặc các quy định khác trong Hiệp
định này.
Đảm bảo tính minh bạch của các biện pháp phi thuế quan được phép theo Đoạn (a) và
sự phù hợp đầy đủ với các nghĩa vụ trong Hiệp định WTO Agreement với quan điểm
tối thiểu hoá bóp méo thương mại có thể và tối đa hoá mức độ có thể.
Các Bên khẳng định quyền và nghĩa vụ của mình theo Hiệp định về hàng rào kỹ thuật
trong thương mại trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO và Hiệp định về áp dụng các
biện pháp vệ sinh dịch tễ trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO, gồm thủ tục thông báo
về việc chuẩn bị các quy định liên quan để giảm ảnh hưởng tiêu cực đối với thương
mại cũng như để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động thực vật.
Mỗi Bên phải chỉ định điểm hỏi đáp nhằm mục tiêu phúc đáp các yêu cầu liên quan
đến Điều này.
5


-

Sửa đổi cam kết

Các Bên không được làm vô hiệu hoặc ảnh hưởng bất kỳ cam kết nào trong Hiệp định
này, trừ trường hợp được nêu trong Hiệp định này.
Bất kỳ một Bên có thể, thông qua đàm phán và thống nhất với một Bên nào khác mà
Bên đó có đưa ra cam kết, sửa đổi hoặc rút cam kết trong Hiệp định này. Trong khi
đàm phán và thoả thuận có thể bao gồm điều khoản về bồi thường đối với hàng hoá

khác, Bên liên quan cần phải duy trì mức độ chung về cam kết có đi có lại và đảm bảo
lợi ích hai bên không kém thuận lợi hơn cho thương mại được nêu trong Hiệp định này
trước khi có thoả thuận đó. .
-

Thủ tục hải quan

Mỗi Bên phải nỗ lực áp dụng thủ tục hải quan của mình một cách minh bạch, nhất
quán và có thể dự báo được.
Công nhận tầm quan trọng của việc cải thiện tính minh bạch trong lĩnh vực thủ tục hải
quan, theo yêu cầu của đối tượng liên quan, mỗi Bên phải nỗ lực cung cấp, càng nhanh
càng tốt, thông tin liên quan đến thủ tục hải quan cho đối tượng liên quan yêu cầu phù
hợp với luật hải quan của mình. Mỗi Bên phải nỗ lực cung cấp không chỉ thông tin cụ
thể được yêu cầu mà còn các thông tin thích hợp khác mà đối tượng liên quan cần quan
tâm.
Để thông quan nhanh chóng hàng hoá trao đổi giữa các Bên, mỗi Bên, công nhận vai
trò quan trọng của cơ quan hải quan và của thủ tục hải quan đối với việc thúc đẩy thuận
lợi hóa thương mại, cần phải nỗ lực:
+ đơn giản hoá thủ tục hải quan
+ hài hoà thủ tục hải quan, càng nhiều càng tốt, với tiêu chuẩn quốc tế liên quan
và thông lệ được đề xuất như là những khuyến nghị do Tổ chức Hải quan thế
giới đưa ra.
6


-

Mối liên hệ với các hiệp định khác

Mỗi Bên tái khẳng định quyền và nghĩa vụ của mình đối với Bên khác theo Hiệp định

WTO và các hiệp định khác mà trong đó các bên này là Bên ký kết. Một Bên không
phải là Bên của Hiệp định WTO cần phải tôn trọng các quy định của Hiệp định nói trên
phù hợp với cam kết của mình theo WTO.
Không quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là làm tổn hại đến quyền và nghĩa
vụ của một Bên theo Hiệp định WTO và các hiệp định khác mà các Bên này tham gia.
Trong trường hợp có sự khác nhau giữa Hiệp định này và bất kỳ một hiệp định khác
trong đó có hai Bên hoặc nhiều hơn tham gia, những Bên đó phải tham vấn ngay lập
tức để đạt được giải pháp song phương phù hợp.
Hiệp định này không được áp dụng với bất kỳ một hiệp định nào giữa các quốc gia
thành viên ASEAN hoặc với bất kỳ hiệp định nào giữa bất kỳ một quốc gia thành viên
ASEAN và Ấn Độ trừ khi được thống nhất giữa các bên theo hiệp định này.

II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA AIFTA TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
1.3

Cơ hội

Quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ đã có từ rất lâu và hiện nay đang phát triển tốt
đẹp. Việt Nam - Ấn Độ đã trở thành những đối tác kinh tế quan trọng của nhau, kim
ngạch thương mại hai chiều tăng trưởng mạnh và bền vững trong những năm vừa qua.
Đặc biệt từ sau khi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) được
ký kết vào năm tạo ra những cơ hội lớn để 2 bên mở rộng phát triển kinh tê
 Cơ hội đối với cả hai nước ( phấn này nếu ngắn quá thì cho thêm vào, không thì
bỏ đi cũng được)
7


Với AIFTA, hai nước có thêm nhiều động lực hợp tác, cảtrong thương mại
vàcác lĩnh vực công nghiệp, khai thác dầu khí, khoáng sản, đầu tư, khoa học công

nghệ, phát triển nguồn nhân lực, phát triển hạ tầng, chế biến nông sản, công nghệ thông
tin, du lịch, hàng không, y tế, giáo dục... Thông qua đó sẽ tiếp tục tăng cường mối quan
hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Nền kinh tế giữa hai nước cũng có nhiều điểm bổ sung cho nhau. Điều kiện kinh
tế - xã hội của Việt Nam và Ấn Độ tương đối tương đồng có thể bổ sung và hỗ trợ cho
nhau phát triển xuất khẩu và nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu sản xuất, xuất khẩu qua đó
tạo ra những cơ hội lớn đối với doanh nghiệp hai nước.
Trên cơ sở hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề về cung cấp thông
tin, tiếp cận thị trường, hạn chế và xóa bỏ các rào cản sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động
xúc tiến thương mại, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, hợp tác trong lĩnh dầu khí,
năng lượng, dệt may. Bên cạnh đó, các vấn đề về công nghệ, giáo dục, các mặt hàng
nông, thủy sản, hàng may mặc là các sản phẩm, mặt hàng tiềm năng trong chiến lược
hợp tác của Việt Nam và Ấn Độ.

 Đối với Việt Nam
Có điều kiện thâm nhập vào thị trường lớn với số dân đông đúc
Theo đánh giá từ Bộ Công Thương, AIFTA có hiệu lực chính càng là cơ hội cho các
doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng vào thị trường rộng lớn với
1,2 tỷ dân này. Vì vây, nếu chiếm lĩnh được thị trường này sẽ là nguồn khai thác lâu
bền, gia tăng nhiều giá trị.
Với Hiệp định thương mại này, thuế suất thuế nhập khẩu các sản phẩm hàng hóa
như điện tử, hóa chất, máy móc, hàng dệt may sẽ giảm xuống còn 0% trong khoảng
thời gian từ 2013 đến 2016. Bên cạnh đó, thuế nhập khẩu đối với 5.000 mặt hàng công
nghiệp và nông nghiệp cũng được xóa bỏ, tương đương 60% số lượng các mặt hàng
trao đổi giữa hai bên.
8


Với lộ trình cặt giảm thuế như vậy, nhiều mặt hàng là thế mạnh xuất khẩu của Việt
Nam như điện tử, nông sản (hạt điều, gia vị, chè xanh, chè đen, lạc, tơ, đồ hộp), hàng

mỹ nghệ, quần áo may sẵn… sẽ lọt vào danh sách được hưởng lợi lớn khi Hiệp định
này có hiệu lực. Kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người lao động trong các
Công ty có hoạt động xuất nhập khẩu.
Tăng sức cạnh tranh
Việc tham gia AIFTA, cũng giống như việc tham gia vào các hiệp định thương mại
quốc tế khác, sẽ tạo ra sức ép và động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới
cách thức tổ chức, phương thức sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm
và tăng sức cạnh tranh từ đó có cơ hội để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương
mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý.

1.4

Thách thức

Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều những khó khăn, thách thức khi hiệp
định này có hiệu lực, như:
Về tính chủ động của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp Việt Nam còn chưa quan tâm nhiều đến thị trường Ấn Độ, ít chủ động
khảo sát thị trường và tham gia các triển lãm ngành hàng để tiếp cận thị trường. Việc
xuất khẩu chủ yếuqua khâu trung gian. Trong khi đó, doanh nghiệp Ấn Độ khá năng
động và chủ động thâm nhập thị trường Việt Nam. Hiện đã có hơn 100 văn phòng đại
diện của doanh nghiệp Ấn Độ tại thị trường Việt Nam để xúc tiến xuất khẩu hàng hoá,
đầu tư.
Về sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cònmột số hạn chế về sức cạnh tranh:thiếu bảo đảm
về tiêu chuẩn kỹ thuật, hạn chế về mẫu mã, chất lượng sản phẩm thấp,… Đối với các
9


hàng hóa nông sản, thị trường xuất khẩu cũng thiếu bền vững. Mặt khác, hàng hóa xuất

khẩu chủ yếu vẫn là gia công và phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc.
Thêm nữa, các công ty của phía đối tác Ấn Độ cũng sẽ có những cơ hội thuận lợi để
thâm nhập thị trường trong nước. Đặt trên cán cân, rõ ràng các doanh nghiệp Ấn Độ có
lợi thế nguồn lực như vốn, trình độ sản xuất và quản lý, kinh nghiệm thương trường
lớn mạnh hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Hàng hóa nhập khẩu từ Ấn
Độ sức cạnh tranh cũng không hề nhỏ do vừa phong phú về chủng loại, giá cả lại tương
đối thấp. Điều này đặt doanh nghiệp Việt Nam trước nguy cơ không đủ sức cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài, dễ bị cạnh tranh, khó phát triển
Về hoạt động xúc tiến thương mại, công tác tuyên truyền, quảng bá
Các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư giữa hai bên, nhất là từ phía Việt Nam
còn ít. Cơ chế hợp tác giữa hai bên chưa phù hợp, chưa tạođiều kiện thuận lợi cho giao
lưu kinh tế. Do đó,tuyên truyền, quảng bá về môi trường đầu tư của Việt Nam với cộng
đồng doanh nghiệp Ấn Độ là rấtcần thiết. Điều này sẽ giúp tăng cường cơ hội hợp tác
giữa các doanh nghiệp hai nước.
Về những biện pháp rào cản thương mại
Có thể thấy, nguyên nhân chủ yếudẫn đến kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam vào
thị trường Ấn Độ còn rất hạn chế là việc Ấn Độ thường áp dụng các biện pháp rào cản
thương mại đối với hàng nhập khẩu,trong đó có hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Ấn Độ
còn là nước sử dụng nhiều nhất các biện pháp chống bán phá giá. Dù đã có hàng lang
pháp lý thuận lợi nhưng vài năm trở lại đây, Ấn Độ là một trong số các nước tiến hành
điều tra chống bán phá giá và áp dụng phòng vệ thương mại nhiều nhất với hàng XK
Việt Nam với 5 vụ chống bán phá giá, 4 vụ tự vệ. Các sản phẩm của Việt Nam bị Ấn
Độ điều tra tương đối đa dạng, từ đĩa DVD, đèn huỳnh quang cho đến sợi- một trong
những sản phẩm XK quan trọng của Việt Nam sang thị trường này.

10


Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầngkinh tế- xã hội, nhất là hạ tầng giao thông; bất
đồng ngôn ngữ; năng lực thương mại quốc tế của doanh nhân… cũng là những yếu tố

ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư, nâng cao quan hệ kinh tế giữa hai nước.

2. Những ảnh hưởng của việc tham gia AIFTA tới nền kinh tế Việt Nam
1.5

Tác động đến thương mại (xuất khẩu, nhập khẩu)

2.1.1 Xuất khẩu
a. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác:
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang các nước này không lớn do các nguyên nhân sau:
- Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu: Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng
20-23% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những
mặt hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch XK sang
ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm 2001. Và
mức tăng XK của những mặt hàng này sang các nước ASEAN khác cũng không lớn.
Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình độ thua
kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của
chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác.
-Xét về bạn hàng: 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với
Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái xuất sang các
nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTA vốn đã thấp,
gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch
xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi
nhiều XK Việt Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
11



Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ cấu sản xuất và
XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong
danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về
yếu tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN.
b. Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN:
- Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt Nam sang
các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất XK với giá rẻ hơn từ
các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều
kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.
Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Mỹ (General
System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định "giá trị một sản phẩm được sản xuất
tại một nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như
AFTA) thì được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được
hưởng GSP nếu "giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản
phẩm sau khi hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành viên
khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị
nguyên liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường
tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD
mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị trường thế
giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng được hưởng những lợi ích tương tự.
Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với
các thành viên khác trong hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực. Cũng cần nói
thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương ( APEC ) tháng 11/1998 là những sự chứng minh, là bước chuẩn bị, tập
dượt để gia nhập WTO.
12



2.1.2 Nhập khẩu:
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng 25% kim
ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực
hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới việc NK những mặt hàng
này.
Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy, vi
tính... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm
vi tác động của AFTA. Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng
từ danh mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ
dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu).
Khi đó, rất có thể NK, nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt
Nam sẽ tăng lên nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh
lại được.

1.6

Tác động tới thu hút đầu tư nước ngoài

2.2.1 Đầu tư từ các nước ASEAN khác
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng hợp lý hóa.
Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của một số nước sẽ bộc lộ sự thua
kém về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà
kinh doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các nước ASEAN khác có các yếu tố
thuận lợi hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các nhà đầu tư
ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ có nhiều thuận lợi về thủ
tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam.
2.2.2 Đầu tư nước ngoài từ các nước khác


13


Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài khu
vực. Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một số nước và đưa
ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và hàng rào thuế quan dần
được dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị
trường tiềm năng rộng lớn hơn nhiều lần nước đó.
Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước ngoài khi
đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với 80 triệu dân, mà còn
tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.
Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem xét để đi
đến quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài nếu
không đi kèm với sự ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng,
nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề cao... Có thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia hiện
nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài
như Sony , Matsushita... đã và đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay
Việt Nam vì lo ngại và thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền
lực và tham nhũng...
Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên của AFTA. Vì nếu như
trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để vượt qua
hàng rào thuế quan và các hạn chế NK vào thị trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà
đầu tư nước ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành
viên AFTA, nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư Việt
Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn
giản hơn, chỉ cần mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các
nước AFTA, đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng
vẫn vận hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam.
Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác mà
AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi

trường đầu tư.
14


1.7

Tác động tới nguồn thu ngân sách

Đối với đa số các nước đang phát triển, thu nhập từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 1
phần khá lớn trong tổng ngân sách nhà nước: Thái Lan 12%, Indonesia 25%, Việt Nam
18%. (năm 2015). Do đó có thế thấy AFTA có vai trò rất quan trọng đối với nguồn thu
ngân sách của chính phủ. Việc ký kết vào hiệp định Thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung CEPT/AFTA sẽ có những tác động nhất định đến ngân sách nhà nước.
2.3.1 Tác động trực tiếp
Theo CEPT, Việt Nam phải hạ thuế suất các mặt hàng nhập khẩu xuống mức 0 – 5%,
điều này sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách của chính phủ từ thuế nhập khẩu. Tuy nhiên,
ảnh hưởng là không quá lớn, bởi vì:
-

Việc giảm thuế suất có 2 tác động trái ngược đến nguồn thu thuế nhập khẩu.

Một mặt, việc này khiến giảm tổng thu nhập từ thuế. Mặt khác, thuế giảm làm giá hàng
hóa giảm, nhu cầu tăng lên khiến nhập khẩu tăng. Giá giảm, lượng tăng nên nguồn thu
từ thuế có thể không bị ảnh hưởng nhiều.
-

Khoảng 60% mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị cắt giảm thuế còn 0 – 5%,

lượng mặt hàng có thuế 20% chỉ chiếm khoảng 15%. Trong tương lai, khi phải đưa các
mặt hàng thuế suất cao vào danh mục cắt giảm thuế, nguồn thu từ hàng hóa nhập khẩu

sẽ còn rất ít. Thay vào đó, chính phủ chuyển hướng sang đánh thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế giá trị gia tăng là chủ yếu. Thuế nhập khẩu sẽ trở thành công cụ để ứng xử trong
quan hệ ngoại thương và bảo hộ sản xuất trong nước.
2.3.2 Tác động gián tiếp
Việc tham gia vào AFTA tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, qua
đó tác động gián tiếp đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
Mở cửa thị trường, các doanh nghiệp non trẻ Việt Nam phải đối đầu với sức cạnh tranh
vô cùng gay gắt đến từ các nước bạn. Khoa học kĩ thuật, cơ cấu tổ chức, cách thức
quản lý của chúng ta lạc hậu hơn họ rất nhiều, khiến cho hàng hóa ngoại có chất lượng
15


tốt, mẫu mã đa dạng, giá thành thấp hơn hàng hóa nội, đặc biệt là ở các ngành hàng
như cơ khí, điện tử, đồ gia dụng, hóa mỹ phẩm, … Khi mất đi hàng rào bảo hộ, nếu
không kịp thời đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ
bị thất bại ngay trên sân nhà, thậm chí là phá sản, từ đó làm giảm sút ngân sách nhà
nước từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế VAT.
Tuy nhiên, việc tham gia AFTA cũng mở ra những cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Giảm thuế nguyên vật
liệu đầu vào nhập khẩu giúp giảm chí phí sản xuất, từ đó giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao khả năng cạnh tranh. Hàng hóa xuất khẩu Việt Nam có cơ hội thâm nhập sâu
rộng hơn vào thị trường ASEAN do được hưởng các ưu đãi về thuế quan và thương
mại. AFTA cũng khuyến khích đầu tư nước ngoài FDI, giúp thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nước. Giá thành sản phẩm giảm giúp dân cư tăng tiết kiệm, tăng
đầu tư và mở rộng sản xuất ở khu vực tư nhân. Nguồn thu ngân sách của chính phủ sẽ
được bù đắp từ các loại thuế nội địa.
Nhìn chung, việc tham gia vào AFTA không có ảnh hưởng quá lớn đến nguồn thu ngân
sách của chính phủ.

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HỘI NHẬP AIFTA MỘT CÁCH

HIỆU QUẢ
1. Một số biện pháp của Nhà nước
1.8

Định hướng phát triền chiến lược trong quá trình phát triền hội

nhập
Một là,
Cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm
gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Về quan niệm xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, cần chủ động bám sát chủ trương, định hướng hội nhập quốc tế của Đảng,
Nhà nước ta và yêu cầu của tình hình kinh tế đất nước. Để xây dựng nền kinh tế độc
16


lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cần có sự đổi mới và
giải quyết đúng đắn về một số vấn đề lớn:
(1) Sự thay đổi nội hàm của các khái niệm truyền thống như quốc gia, dân tộc, vị thế
quốc gia, an ninh quốc gia, liên kết toàn cầu và khu vực, tính tuỳ thuộc và phụ thuộc
của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới…
(2) Nội hàm độc lập, tự chủ về kinh tế trong điều kiện thị trường và hội nhập quốc tế
(3) Quan hệ giữa độc lập, tự chủ kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong
thời đại hiện nay
(4) Các yếu tố cơ bản của độc lập, tự chủ quốc gia trong môi trường toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế
(5) Các điều kiện bảo đảm sự độc lập tự chủ. Hiện nay, không thể nói độc lập kinh tế
theo nghĩa như trước vì tất cả các nền kinh tế đều liên thông và phụ thuộc lẫn nhau.
Nhưng phải giữ được tự chủ kinh tế (tự quyết định và đường lối, chiến lược phát triển)
với những vấn đề đặt ra như: Quan hệ giữa luật lệ và quy tắc của hệ thống kinh tế thế
giới và định hướng phát triển quốc gia; định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập

kinh tế quốc tế; cơ chế bảo đảm giữ được độc lập, tự chủ kinh tế và định hướng xã hội
chủ nghĩa trong khi phải đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế cho một nền kinh tế còn
yếu kém và lạc hậu.

Hai là,
Cần nghiên cứu sâu chính sách “mở cửa” và quá trình chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và các cam kết mang tính
thể chế trong từng hiệp định (FTA/ASEAN, ASEAN+, FTA song phương, WTO,
TPP…) để tạo ra những cơ hội cho việc thu hút đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất
khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm việc làm…; giảm thiểu những rủi ro,
giành thế chủ động trong đàm phán để có những thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và
17


nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu với những luật
chơi khắc nghiệt hơn, đòi hỏi cao hơn và phức tạp hơn.

Ba là,
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp
định tư do thương mại yêu cầu ở cấp độ cao hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu, tham
gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư…; có đại diện
làm việc tại các tổ chức thương mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp quốc tế. Chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế,
gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một
đối tác cụ thể.

Bốn là,
Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả
các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã và sẽ ký kết, nhất là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU. Hoàn

thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh
chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Phát huy vai trò là thành
viên có trách nhiệm trong Cộng đồng kinh tế ASEAN, WTO, TPP,…Hoàn thiện pháp
luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.

1.9

Xây dựng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý chặt chẽ

Về phương hướng chung, cần tiếp tục quán triệt và triển khai hiệu quả các chủ trương,
chính sách, chương trình hành động của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế,
trong đó chú trọng việc nâng cao toàn diện năng lực thực thi các cam kết hội nhập kinh
tế quốc tế; đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao
18


sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp để tạo môi
trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam, qua đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong hội nhập.

Môt số nhóm giải pháp cụ thể:
a, Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo các vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế
Các bộ, ngành và cơ quan liên quan tập trung nghiên cứu các vấn đề mang tính
chiến lược về hội nhập kinh tế quốc tế để làm cơ sở tham mưu, tư vấn cho Chính phủ
trong quá trình hoạch định chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế như tác động của
việc tham gia các FTA thế hệ mới, xu hướng bảo hộ và nguy cơ chiến tranh thương mại
tác động đến kinh tế nước ta, xu hướng chuyển dịch trọng tâm hợp tác trong các khuôn
khổ khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, ASEM, WTO, tác động của tình hình
kinh tế, chính trị thế giới tới tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đẩy
mạnh các hoạt động nghiên cứu và tham mưu chính sách về hội nhập quốc tế và hội

nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có tác
động đến Việt Nam, các xu thế phát triển, các sáng kiến mới, chính sách và kinh
nghiệm của các nước thực thi hiệu quả cam kết hội nhập. Nghiên cứu, đánh giá tác
động của việc xóa bỏ thuế quan theo lộ trình cam kết trong ASEAN đối với các mặt
hàng nhạy cảm của nước ta như ô tô, đường, xăng dầu…, dự báo tác động của việc
thực thi cam kết trong Hiệp định CPTPP, FTA Việt Nam - EU để có các khuyến nghị
chính sách phù hợp khi các hiệp định này được phê chuẩn và đi vào thực hiện;... Tăng
cường nghiên cứu, cảnh báo, phổ biến về các biện pháp kỹ thuật của các nước cho các
doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có liên quan để chủ động đối phó với các rào cản
kỹ thuật; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xem xét xây dựng các
biện pháp kỹ thuật của Việt Nam phù hợp với các cam kết về hàng rào kỹ thuật trong
thương mại của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới.

19


b. Tổ chức thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
Phát huy vai trò của Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế trong việc phối
hợp liên ngành, tăng cường hơn nữa việc kết nối, điều phối, điều hành tập trung, thống
nhất giữa hoạch định chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế với triển khai đàm phán và
thực thi các cam kết hội nhập. Đôn đốc và giám sát các bộ, ngành, địa phương tổ chức
thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện và khai thác hiệu quả
các FTA đã có hiệu lực. Tiến hành rà soát, hoàn thiện cơ chế điều phối thực thi cam kết
FTA đối với các lĩnh vực cụ thể theo hướng thiết thực và hiệu quả hơn; bảo đảm lợi ích
quốc gia và việc thực thi nghiêm túc các FTA; đánh giá kịp thời các vấn đề phát sinh và
kiến nghị giải pháp tháo gỡ. Xây dựng và thực thi nghiêm túc các cam kết trong hội
nhập tài chính về thuế, hải quan, dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, kế toán - kiểm toán
và các dịch vụ khác; triển khai Hiệp định thuận lợi hóa thương mại của WTO, Cơ chế
một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại.


c. Mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam
Tăng cường phối hợp các bộ, ngành, cơ quan liên quan xử lý những vấn đề còn
tồn tại để sớm tiến tới ký và phê chuẩn FTA Việt Nam - EU; phối hợp, thúc đẩy việc
hoàn thành thủ tục phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) và các hiệp định đã ký kết khác nhằm sớm đưa các hiệp định đi vào
thực thi mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người dân. Xây dựng phương án hợp lý
để hoàn thiện việc đàm phán và ký kết các FTA đang triển khai, chủ động nghiên cứu,
đánh giá khả năng tham gia các FTA với các đối tác mới nhằm tìm kiếm cơ hội mở
rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam.
d. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, hỗ trợ
doanh nghiệp
Trong hội nhập, doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, trong đó khu vực doanh
nghiệp tư nhân có vai trò quan trọng, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
20


ngày càng phát triển. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối
với hiệu quả của hội nhập. Các bộ, ngành, địa phương cần triển khai các biện pháp
đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết về
hội nhập kinh tế quốc tế, kịp thời lắng nghe ý kiến và phản hồi của các doanh nghiệp
về các vấn đề chính sách, vướng mắc trong hội nhập kinh tế quốc tế và trong quá trình
đàm phán, thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA); Chủ động đề xuất các định
hướng, biện pháp cụ thể để cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; Tận dụng các cơ
hội do hội nhập quốc tế mang lại một cách hiệu quả, phù hợp với các quy định, luật lệ,

1.10

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ sở pháp lý về mặt thương mại tự

dọ

Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật kinh tế, cần đề cao vai trò của luật với tư cách là
văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội,
tăng cường việc ban hành luật để thay thế dần các hình thức văn bản quy phạm pháp
luật khác. Quán triệt nguyên tắc luật càng cụ thể càng tốt để trên cơ sở đó, giảm dần và
tiến tới xóa bỏ việc ban hành các văn bản dưới luật, qua đó khắc phục tình trạng cồng
kềnh, không đồng bộ, tính khó tiếp cận của hệ thống pháp luật kinh tế nước ta.
Xây dựng pháp luật kinh tế để thúc đẩy sự vận hành và phát triển của nền kinh tế
thị trường theo hướng tất cả những gì cản trở quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu,
cản trở cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh đều cần phải
được loại bỏ càng sớm càng tốt. Bảo đảm pháp luật kinh tế không chỉ phải phù hợp với
thực tiễn Việt Nam, mà còn phải đảm bảo sự tương thích với pháp luật của các nước
trên thế giới, vì đây là điều kiện quan trọng để thúc đẩy chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
Bên cạnh việc tăng cường ban hành luật, cần phải tiếp tục xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, tinh thông về nghiệp vụ để bảo đảm cho pháp luật được thực
thi một cách nghiêm túc (không chỉ quan tâm đến việc xây dựng mà còn phải quan tâm
hơn nữa đến việc thực thi pháp luật).
21


Tăng cường học tập kinh nghiệm lập pháp, lập quy của các nước có điều kiện
kinh tế, xã hội giống như Việt Nam để bảo đảm tính khoa học, tính hội nhập của pháp
luật nước ta với pháp luật của thế giới.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế, cần nghiên
cứu, tiếp thu các quy định trong pháp luật của các nước, vì những vấn đề mà Việt Nam
đang tiếp cận hôm nay đã từng được cộng đồng quốc tế nghiên cứu, giải quyết bằng
pháp luật một cách thỏa đáng và khoa học. Việc tiếp thu các quy định này một mặt giúp
chúng ta không tốn thời gian và công sức, mặt khác góp phần làm cho pháp luật Việt
Nam trở nên tương thích hơn với pháp luật của các nước trên thế giới, thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung theo chủ trương của

Đảng và Nhà nước ta.

1.11

Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình tham gia hội nhập

Thời kỳ hội nhập đã, đang đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với người lao động Việt
Nam, đòi hỏi nguồn nhân lực phải có nhiều kỹ năng khác ngoài kiến thức chuyên môn
như: khả năng giao tiếp, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo hay trình độ tin
học... Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
thị trường lao động và hội nhập kinh tế quốc tế, thời gian tới cần tập trung vào một số
giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, đổi mới yêu cầu về giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
thông qua đẩy mạnh đào tạo kỹ năng, năng lực thực hành; tiếp tục đẩy mạnh xã hội
hoá, đa dạng nguồn lực cho phát triển giáo dục nghề nghiệp. Rà soát tổng thể đội ngũ
nhà giáo giáo dục nghề nghiệp để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng lộ trình chuẩn hóa
để đáp ứng mục tiêu đào tạo nghề đến năm 2020.
Thứ hai, đẩy nhanh việc xây dựng các chuẩn đầu ra dựa trên tiêu chuẩn nghề
phù hợp với Khung trình độ quốc gia, trước mắt tập trung vào các nghề trọng điểm, các
nghề có trong danh mục của hội thi tay nghề ASEAN; rà soát và điều chỉnh việc xây
22


dựng các chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, theo hướng linh hoạt, tăng tính thực
hành. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề, ưu tiên tập trung các
nghề trọng điểm cấp độ quốc gia; rà soát, chỉnh sửa các danh mục thiết bị đã ban hành
theo hướng tiếp cận với các nước trong khu vực; áp dụng tiêu chuẩn cơ sở vật chất,
thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Đồng thời, rà soát, thống nhất các tiêu chí,
tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; xây dựng các cơ chế, quy định
về đảm bảo chất lượng; các cơ chế, quy định và phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo

chất lượng trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Thứ ba, tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo; tổ chức giảng dạy,
hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở giáo dục nghề
nghiệp; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động của doanh nghiệp; Các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của
doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về
thuế; Cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo, sử dụng lao động của DN theo ngành,
nghề và nhu cầu tuyển dụng lao động hằng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục nghề nghiệp.
Thứ tư, tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn để tạo được sự
chuyển biến sâu sắc trong nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp đối
với toàn xã hội; Xây dựng các sản phẩm tuyên truyền, tư vấn, hướng nghiệp, phân
luồng học sinh trong nhà trường phổ thông; giới thiệu việc làm trong trường nghề. Tiếp
tục hợp tác với chính phủ Hàn Quốc, Đức, Italia và Nhật Bản trong triển khai các dự án
ODA trong lĩnh vực dạy nghề đã ký kết; thực hiện đám phán với các nhóm nước trong
ASEAN để tiến tới công nhận văn bằng, chứng chỉ và kỹ năng nghề giữa các nước;
Hoàn thiện các chính sách, khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong nước
mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài; hợp tác nghiên
cứu khoa học; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
hợp tác đào tạo, mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.

23


2. Một số biện pháp của doanh nghiệp
1.12

Đẩy mạnh ngoại thương

Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng
đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh

tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều này thể hiện ở các mặt
sau:
1/ Chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế quản lý hành chính,
bao cấp đối với các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy là vi phạm
"luật chơi chung" quy định là không phân biệt đối xử, nhất là đối với những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử công bằng và bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh
doanh
2/ Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không được tự chủ hạch
toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay trong số 5.429
doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có 40% là có hiệu quả nếu
tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài, lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu hao
3/ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để vươn lên dù làm ăn có
hiệu quả vì bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vay tín
dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh...
Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách toàn
diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này, góp phần thực hiện chủ trương kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời tạo thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế trong những năm tới. Theo đó, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp đổi mới
và phát triển các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo các hướng sau đây:
Thứ nhất, về số lượng doanh nghiệp, xây dựng lịch trình hằng năm giảm bớt số
lượng doanh nghiệp, lĩnh vực và ngành/nghề hoạt động của các DNNN, trước mắt phấn
24


đấu chỉ còn các doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh nghiệp độc lập
có ý nghĩa quan trọng. Các DNNN chỉ nên tập trung hoạt động trong các lĩnh vực,
ngành/ nghề then chốt mà Nhà nước cần nắm hoặc tư nhân không có khả năng làm,
như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một số ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản

xuất quan trọng và công nghiệp công nghệ cao.
Thứ hai, về hình thức sắp xếp, thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu
ở các DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm
động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; mở rộng việc bán cổ phần cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực hiện việc bán, khoán, cho thuê các DNNN loại
nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản các DNNN hoạt
động không có hiệu quả.
Thứ ba, xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính và bảo đảm sản
xuất kinh doanh bình thường; nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản vay
ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung, dài hạn; nghiên cứu lại thời hạn cho vay trung,
dài hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chính sách để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước; từng bước tạo khung pháp
lý bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tiến
tới xây dựng một luật chung cho các loại hình doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp
kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần; phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm
cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp như khi quyết định đầu tư, quyết định phương án kinh
doanh, tự chủ về tài chính, tự quyết về nhân sự và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ năm, về đầu tư cho DNNN, thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm ngặt
việc thành lập mới các DNNN; thực hiện đầu tư cho DNNN thông qua công ty đầu tư
tài chính của Nhà nước và thông qua thị trường vốn; giảm dần sự ưu đãi, bao cấp và
25


×