Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận kinh tế quốc tế tác động của việc thêm đồng cny vào rổ tiền tệ sdr

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 25 trang )

LỜI MỞI ĐẦU
Tháng 11 năm 2015, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc bất ngờ tăng tỷ
giá nhân dân tệ (NDT) so với USD lên 0,54%, mức tăng lớn nhất trong thập kỷ
qua. Sự việc được nhìn nhận là một sự kiện quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử
dụng NDT trên toàn cầu hòng đưa đồng tiền này vào rổ tiền tệ Quyền rút vốn
đặc biệt (SDR) của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Động thái này của Trung Quốc
diễn ra chỉ sau ba tháng kể từ đợt phá giá đồng CNY liên tiếp xuống 5% đã gây
chấn động thị trường thế giới.
Nhiều chuyên gia khẳng định Trung Quốc đang tìm cách tiếp tục thả lỏng
chính sách kiểm soát thị trường trong bối cảnh quốc gia này nóng lòng tìm cách
ghi tên NDT vào SDR - một dạng dự trữ quốc tế, được Qũy tiền tệ quốc tế IMF
tạo ra vào khoảng cuối những năm 60 của thế kỷ trước, đóng vai trò như một
nhân tố bổ sung cho dự trữ vàng, dự trữ USD sẵn có ở các quốc gia. SDR có thể
được coi là một loại tiền tệ "nhân tạo" và được định nghĩa như là "chiếc rổ tiền
tệ của các đồng tiền quốc gia" do IMF sử dụng một số loại tiền tệ chính để tính
giá trị cho SDR.
Từ tháng 10 năm 2016, CNY đã chính thức trở thành đồng tiền thứ năm
trong rổ tiền tệ SDR. Sự kiện này được coi như một “con dấu kiểm định" của
IMF trên chặng đường quốc tế hóa đồng CNY và nâng cao vị thế của Trung
Quốc trên trường quốc tế.
Nhằm mục đích nghiên cứu những tác động của việc đồng CNY được
thêm vào rổ tiền tệ SDR, nhóm tác giả chúng tôi đã quyết định chọn đề tài này
để nghiên cứu và phân tích. Vì lý do giới hạn thời gian và khả năng nghiên cứu
nên tiểu luận chắn chắn còn có những khiếm khuyết, kính mong quý thầy cô và
bạn bè góp ý thêm cho đề tài của chúng tôi.
Xin trân trọng cảm ơn!


I. KHÁI QUÁT VỀ RỔ TIỀN TỆ SDR VÀ ĐỒNG CNY
1. Khái quát về rổ tiền tệ SDR
a) Định nghĩa và quá trình hình thành rổ tiền tệ SDR


Theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: “SDR là một loại tiền tệ do quỹ tiền tệ
quốc tế IMF tạo ra vào năm 1969, đóng vai trò là một bộ phận trong dự trữ quốc
tế của các nước thành viên”. SDR được phân bổ cho các nước thành viên theo tỷ
lệ góp vốn của các nước thành viên vào IMF. Giá trị của SDR được tính dựa trên
rổ các loại tiền tệ mạnh: trong đó, USD chiếm 44%, EUR 34%, JPY 11%, GBP
11%.Hình thái tồn tại của đồng SDR là những con số ghi trên tài khoản. IMF mở
cho mỗi nước thành viên một tài khoản để ghi các khoản SDR được phân bổ và
để hạch toán các khoản thu chi bằng SDR giữa ngân hàng trung ương các nước
trong việc thực hiện theo cán cân thanh toán của các nước. Tuy nhiên nó chỉ là
đơn vị qui ước, chỉ được sử dụng để tính toán chứ không thực sự tồn tại trong
lưu thông do vậy người ta không thể tiêu nó như các loại tiền tệ dùng trong lưu
thông khác. Khi giải ngân, có thể quy đổi ra một loại tiền tệ mạnh nào đó như
Đô la Mỹ, Euro, hoặc Yên Nhật,... tùy tình huống.
b) Cách tính SDR
Sau chiến tranh TG thứ II, Anh, Mỹ và các nước đồng minh đã cùng nhau
xây dựng hệ thống TGHĐ cố định : Hệ thống Bretton Woods (1944-1973), trong
đó, các quốc gia thành viên phải cố định tiền tệ của họ với đồng USD theo
TGHĐ chính thức, và NH trung ương Mỹ phải đảm bảo có thể chuyển đổi USD
thành vàng với giá 35USD/ounce vàng. Tuy nhiên, với sự phát triển của thương
mại và tài chính quốc tế, nguồn lực dự trữ chủ yếu bằng vàng và USD của các
quốc gia trở nên không đủ đáp ứng. Năm 1969, SDR được Quỹ Tiền tệ Quốc tế
đặt ra theo đề nghị của 10 nước trong câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada, Pháp,
Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức. Khi được khai sinh, SDR là tài
sản dự trữ có tính chất quốc tế nhằm bổ sung cho tài sản dự trữ của các quốc gia
thành viên, góp phần giúp duy trì TGHĐ của đồng nội tệ. Tại thời điểm này hệ


thống TGHĐ cố định trong khuôn khổ Hiệp ước Bretton Woods đang tồn tại nên
các nước tham gia hiệp ước phải đảm bảo dự trữ vàng hoặc tiền tệ mạnh để có
thể sử dụng nó mua vào nội tệ khi cần thiết nhằm duy trì TGHĐ.

c) Vị trí hiện tại của SDR
Ngày nay SDR ít được sử dụng như một tài sản dự trữ, mà chức năng
chính của nó là sử dụng như một tài khoản tại IMF của các nước thành viên và
một số tổ chức quốc tế khác, sử dụng như một đơn vị tính toán. Quốc gia nắm
giữ SDR có thể đổi ra các đồng tiền khác theo hai cách:



Thông qua thoả thuận trao đổi tiền với các nước thành viên khác.
Thông qua một thành viên được chỉ định, có điạ vị đối ngoại cao để
trao đổi với một thành viên khác có vị thế yếu hơn.

Ngoài ra, trong thương mại quốc tế, việc sử dụng SDR chỉ mang tính chất
tính toán. Ví dụ: năm 2009 WB đã thông qua khoản tín dụng trị giá 235,2 triệu
Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) tương đương khoảng 350 triệu USD cho Chương
trình Hỗ trợ xóa đói giảm nghèo (PRSC) 8 ở Việt Nam.
d) Cách định giá SDR
Ban đầu, SDR được định giá cố định tương đương với 1 USD
hay 0,888671 g vàng. Sau năm 1973 thì được định giá theo căn cứ 16 đồng tiền
mạnh(chiếm ít nhất 1% giá trị thanh toán quốc tế. Hiện nay, SDR được tính trên
rổ tiền tệ của 4 ngoại tệ mạnh: USD, GBP, Euro, JPY trong đó các đồng tiền
đóng góp với tỷ lệ USD: 0.6600 (41.9%) Euro: 0.4230 (37.4%) JPY: 12.1000
(9.4%) GBP: 0.1110 (11.3%).
Đơn giản hơn: 1 SDR có giá trị tương đương tổng 0.66 USD + 0.42 Euro
+ 12.1 JPY + 0.11 GBP. Do việc bãi bỏ tỉ giá hối đoái cố định và áp dụng tỉ giá
thả nổi, cho nên tỉ giá của các đồng tiền thường xuyên biến động. Vì vậy, IMF
công bố hàng ngày tỉ giá hối đoái của SDR.


2. Khái quát về đồng CNY

a) Định nghĩa đồng CNY
CNY là tên gọi chính thức của đơn vị tiền tệ nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa (nhưng không sử dụng chính thức ở Hong Kong và Macau). Đơn vị
đếm của đồng tiền này là nguyên/viên (tiền giấy), giác hoặc phân (tiền kim loại).
Một nguyên bằng mười giác. Một giác lại bằng mười phân. Trên mặt tờ tiền là
chân dung chủ tịch Mao Trạch Đông.
CNY do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phát hành. Năm 1948, một
năm trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, CNY đã được
phát hành chính thức. Loạt tiền đang dùng hiện nay là loạt thứ năm phát hành từ
năm 1999, bao gồm các loại 1 phân, 2 phân, 5 phân, 1 giác, 5 giác, 1 nguyên, 5
nguyên, 10 nguyên, 20 nguyên, 50 nguyên và 100 nguyên.
Theo tiêu chuẩn ISO-4217, viết tắt chính thức của CNY là CNY, tuy
nhiên thường được ký hiệu là RMB, biểu tượng là ¥.
b) Vị thế của đồng CNY trên thị trường tiền tệ thế giới
Năm 2013, đồng CNY đã vượt qua đồng Euro để trở thành đồng tiền quan
trọng thứ hai trong tài trợ thương mại, chiếm 9% thị trường toàn cầu. Tuy vậy,
đồng đô la Mỹ vẫn chiếm vị thế thống trị với 81%. Còn với tư cách một đồng
tiền thanh toán được sử dụng rộng rãi hơn, năm 2014, CNY xếp vị trí thứ 5 sau
đô la Mỹ, euro, bảng Anh và yên Nhật. Đồng CNY khi đó chỉ chiếm 2,2% thị
trường toàn cầu trong khi đô la Mỹ chiếm 44%. Tuy nhiên, tỷ trọng này hiện
đang tăng lên nhanh chóng. Tương tự, trong mua bán ngoại hối toàn cầu, do
những chính sách kiểm soát ngoại hối của Trung Quốc, tỷ trọng của đồng CNY
cũng chỉ chiếm 1% so với 44% của đồng đôla Mỹ. Tuy vậy, tỷ trọng này đang
tăng lên với tốc độ ngoạn mục và hoàn toàn có thể tăng trưởng bùng nổ nếu
Trung Quốc nới lỏng những chính sách kiểm soát này.


c) Mối quan hệ đồng CNY và rổ tiền tệ SDR
Trung Quốc từ 2003 đã bắt đầu kế hoạch quốc tế hóa CNY với nhiều biện
pháp như thúc đẩy giao thương bằng CNY, tăng cường sử dụng CNY trong

thanh toán quốc tế, tăng cường ký các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ bằng nội tệ…
Tiến trình quốc tế hóa đồng CNY đã được đẩy mạnh đặc biệt trong giai đoạn từ
năm 2009 trở lại đây và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận: thị trường
đồng CNY bên ngoài Trung Quốc đã không ngừng được mở rộng và phát triển
với tốc độ cao và chương trình thí điểm thanh toán thương mại xuyên biên giới
bằng đồng CNY tiếp tục được đẩy mạnh đã đưa CNY trở thành đồng tiền thanh
toán nhiều thứ năm trên thế giới. Một số quốc gia như Nga, Nhật, Belarus… đã
chấp thuận sử dụng đồng CNY và đồng bản tệ trong thanh toán… Ngày
10/11/2015, Cơ quan trao đổi ngoại tệ Trung Quốc cho biết sẽ cho phép CNY
được đổi trực tiếp với đồng franc Thụy Sĩ (CHF) trên thị trường ngoại hối. Đây
là nỗ lực tiếp theo của Trung Quốc nhằm hiện thực hóa tham vọng quốc tế hóa
đồng CNY.
Ngày 30 tháng 11 năm 2015, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tuyên bố sẽ thêm
đồng CNY vào giỏ các đồng tiền dự trữ SDR, bên cạnh đồng USD, Euro, Bảng
Anh và Yên. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1999, giỏ các đồng tiền dự trữ của
IMF có thay đổi.
Từ tháng 10 năm 2016, CNY chính thức trở thành một trong 5 đồng tiền
dự trữ quốc tế, khi các nước gặp khó khăn phải vay tiền IMF, số tiền vay này
phải theo trọng số hơn 10%, tức một phần khoản vay phải bằng CNY. Có nghĩa
là, nguồn cầu về CNY sẽ tăng lên, và lãi suất cho vay cũng sẽ phụ thuộc một
phần lãi suất của CNY.


II. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THÊM ĐỒNG CNY VÀO RỔ TIỀN TỆ
SDR
1. Tác động của việc thêm đồng CNY vào rổ tiền tệ SDR đến thương mại
quốc tế
a) Về mặt Thanh toán quốc tế
SDR bao gồm một rổ chỉ có bốn đồng tiền – đô la Mỹ, Euro, Bảng Anh và
Yên Nhật. Trở thành một phần của rổ tiền tệ này giống như tham gia một tiêu

chuẩn vàng, do đồng tiền sẽ được xem như là thành viên đầy đủ của một câu lạc
bộ đồng tiền dự trữ.
Ngoài danh tiếng, việc trở thành thành viên của câu lạc bộ này cũng có
nhiều lợi ích rõ ràng. Dữ liệu từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế cho thấy các
ngân hàng trung ương đã nắm giữ gần 12 nghìn tỷ đô-la Mỹ (không tính vàng)
vào cuối năm ngoái, với đồng đô-la Mỹ chiếm 62,9% tổng số dự trữ, đồng euro
chiếm 22,2%, bảng Anh 3,8% và đồng yên 4%. Nói cách khác, mặc dù có rất
nhiều đồng tiền được tự do sử dụng và chuyển đổi hoàn toàn, như đồng đô-la
Úc, bốn đồng tiền thành phần của SDR chiếm tới 92,9% tổng dữ trự ngoại hối
của các ngân hàng trung ương.


Hìnhkhác,
1. Tỷnếu
trọng
các lo
ại tiề
n tệ bất
trong
tiềntiền
tệ SDR
Nói cách
đồng
CNY
hoặc
kỳrổ
đồng
nào khác tham gia

vào câu lạc bộ, chỉ riêng nhu cầu từ các ngân hàng trung ương sẽ làm gia tăng

nhu cầu đối với đồng tiền đó, làm cho nó trở nên dễ sử dụng và giao dịch hơn.
Cùng với việc đồng CNY gia nhập SDR, mức độ nhận thức về mặt quốc
tế đối với đồng CNY sẽ được nâng cao, lòng tin của thị trường đối với đồng
CNY sẽ tăng lên. Điều này sẽ giảm bớt lực cản sử dụng đồng CNY ngoài biên
giới, gia tăng nguyện vọng sử dụng CNY, mức độ tiếp nhận của các doanh
nghiệp và cá nhân nước ngoài đối với đồng CNY cũng sẽ tăng cao. Kết quả là
thúc đẩy đồng CNY ngày càng được sử dụng một cách rộng rãi trong các giao
dịch xuyên biên giới như xuất cảnh du lịch, du học, thương mại và đầu tư tài
chính.
Cùng với việc ngày càng nhiều giao dịch sử dụng đồng CNY để tiến hành
tính giá và thanh toán này, các doanh nghiệp và người dân trong nước tiến hành
giao dịch xuyên biên giới sẽ thuận tiện hơn, các chi phí giao dịch như thanh
toán, mua ngoại tệ và bảo hiểm rủi ro đầu tư… cũng sẽ thấp đi, rủi ro tỷ giá hối
đoái sẽ giảm đi.
b) Về tính thanh khoản


Sự tham gia của Trung Quốc vào “câu lạc bộ” SDR cũng cho thấy một số
thách thức đáng kể. CNY là đồng tiền đầu tiên của thị trường đang nổi được gia
nhập, trong khi các thành viên khác của SDR hiện nay đều là các nền kinh tế
phát triển với đồng tiền có khả năng chuyển đổi hoàn toàn và mở cửa các thị
trường vốn theo quy định. Trung Quốc hiện còn khác biệt trên những khía cạnh
này: một nền kinh tế đang phát triển còn hạn chế về khả năngchuyển đổi tiền tệ,
sẵn sàng bảo vệ các thị trường trong nước trước nguồn vốn và ảnh hưởng từ
nước ngoài.
Các quan chức IMF cũng cam kết rằng, đánh giá về đồng CNY hoàn toàn
dựa trên yếu tố kỹ thuật mà Trung Quốc đã đáp ứng, trong đó bất kỳ quốc gia
nào có đồng nội tệ được đưa vào SDR phải có vai trò chủ chốt trong thương mại
toàn cầu. Bên cạnh đó, CNY được các cổ đông đánh giá là được sử dụng tự do
trong các giao dịch. Quá trình cải cách của Trung Quốc đã được thực hiện từ lâu,

thông qua việc tự do hóa ấn định lãi suất và trao cho thị trường vai trò lớn hơn
trong biên độ giao dịch tiền tệ trong ngày.
Trong thực tế, thế giới vẫn sử dụng đồng USD là chủ yếu trong thanh
toán, giao dịch. Việc lựa chọn đồng tiền nào để thanh toán còn phải chờ xem
đồng CNY có từng bước lấn sân đồng USD hay không, nhưng trong ngắn hạn và
trung hạn chắc chắn USD vẫn là đồng tiền phổ biến nhất. Hiện nay, CNY chỉ
mang biểu tượng là đồng tiền có vị trí quan trọng, còn thuyết phục thế giới sử
dụng nó hay không vẫn là câu chuyện của tương lai. Trong ngắn và trung hạn,
đồng CNY chưa tác động gì nhiều lắm đối với Việt Nam, vì nó vẫn là đồng tiền
trao đổi giữa ngân hàng trung ương chứ không phải là đồng tiền thanh toán, giao
dịch.
Hiện nay, các doanh nghiệp dệt may mua nguyên liệu từ Trung Quốc
nhiều nên thay vì trước đây phải quy đổi từ đồng USD sang đồng CNY thì nay
việc này sẽ thuận lợi cho doanh nghiệp.
c) Về dự trữ ngoại hối
Theo TS Phan Minh Ngọc, tác động đầu tiên có thể kể đến là tác động lên
dự trữ ngoại hối. Đây là một cú hích khích lệ các ngân hàng trung ương trên thế


giới đưa thêm (nhiều hơn) CNY vào trong giỏ tiền tệ dự trữ của mình. Như vậy
triển vọng là nhu cầu CNY sẽ tăng lên trong tương lai gần làm tăng áp lực lên
giá của CNY.
Tuy nhiên, trao đổi với PV Báo Lao Động, TS Lê Đăng Doanh cho rằng
khả năng NHTW các nước đưa tiền CNY vào giỏ dự trữ của họ sẽ xảy ra, nhưng
việc NHTW các nước đưa CNY vào giỏ dự trữ với tỉ lệ bao nhiêu thì phụ thuộc
nhiều vào mối quan hệ thương mại và tài chính với nước đó, chứ không phải phụ
thuộc vào số 9,8% mà IMF ấn định. Trong khi đó, chỉ số mua bán và sử dụng
đồng CNY trên thực tế kém hơn nhiều so với mức 9,8%. Trong thời gian qua,
CNY bị đánh giá quá thấp nhưng NHTW Trung Quốc vẫn giảm giá CNY đến
7%, vì vậy dù sắp tới CNY có tăng giá thì vẫn ở mức điều chỉnh phù hợp.

Dù sao, Trung Quốc đã là đối tác thương mại và nước đầu tư ở nước ngoài
lớn nhất của rất nhiều quốc gia, nhu cầu tiềm tàng của các nước đối với đồng
CNY là rất lớn.
Sau khi đồng CNY gia nhập SDR, địa vị đồng tiền dự trữ của đồng CNY
được chính thức công nhận và trong quá trình này Trung Quốc cũng áp dụng
một loạt biện pháp để nâng cao mức độ tiện lợi của ngân hàng trung ương hoặc
cơ quan tài chính nắm giữ đồng CNY. Vì vậy mong muốn của các nước đưa
đồng CNY vào dự trữ ngoại hối cũng sẽ tăng lên.
Trên thực tế, sau khi IMF tuyên bố sẽ đưa đồng CNY vào giỏ SDR, rất
nhiều nước như Singapore, Tanzania… đã tuyên bố đưa đồng CNY vào dự trữ
ngoại hối của mình. Một ví dụ khác, đồng CNY gia nhập giỏ SDR có thể làm
tăng thêm sức hút hoán đổi tiền tệ song phương. Tính đến cuối năm 2015, Trung
Quốc đã ký thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương có tổng quy mô đạt 3.310
tỷ CNY với 33 quốc gia và khu vực.
d) Sức ảnh hưởng tới thị trường quốc tế
Về mặt lý thuyết, nước có đồng tiền quốc tế có thể chịu những bất lợi, rủi
ro, cũng như trách nhiệm nhất định. Trung Quốc sẽ gặp một số khó khăn hơn
trong xác định hơn mục tiêu chính sách tiền tệ của mình, trong kiểm soát cung
tiền, vì một phần tiền được sử dụng, lưu hành ở nước ngoài, luồng tiền có thể


chảy ngược vào trong nước gây bất ổn (phát triển nóng), hoặt bị rút ra đột ngột.
Đồng tiền có thể bị tấn công, có thể dẫn đến sự bất ổn tài chính và kinh tế vĩ mô.
Khi có đồng tiền quốc tế, đồng tiền bản tệ thường lên giá (đồng thời để hấp dẫn
việc nắm giữ), do đó, có thể chịu áp lực thâm hụt cán cân vãng lai. Khi được
phát hành trái phiếu (chính phủ, doanh nghiệp) bằng đồng bản tệ, có thể vay
nhiều quá mức. Một khi đồng bản tệ được đồng tiền khác gắn định thì khó đơn
phương phá giá đồng tiền khi cần thiết. Phải có chính sách kinh tế vĩ mô lành
mạnh để duy trì ổn định giá cả và tỷ giá hối đoái, đặc biệt phải có chính sách tài
chính, tiền tệ minh bạch.

TS Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính
sách (VEPR) cho biết, việc CNY được đưa vào giỏ tiền tệ quốc tế phản ánh tiến
trình tiến lên của nền kinh tế thế giới, nó phản ánh hiện diện và vai trò kinh tế và
thương mại của Trung Quốc trên thế giới. Điều đó nói chung là có lợi cho các
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam vì NHTW Trung Quốc sẽ có trách
nhiệm hơn với đồng tiền của mình. Từ trước đến nay, các nhà đầu tư luôn e ngại
vì không ai đoán trước được NHTW Trung Quốc sẽ làm gì, CNY điều tiết không
theo thị trường.
Cùng quan điểm trên, Giám đốc một Tổng Cty thương mại lớn ở Hà Nội
cho biết việc CNY tham gia vào giỏ tiền chung quốc tế sẽ giúp cho tỉ giá của
đồng tiền này với USD và các đồng tiền khác ổn định hơn, và có lợi hơn cho các
doanh nghiệp.
Trong ngắn hạn, TS Nguyễn Đức Thành cho rằng việc CNY được công
nhận trong giỏ tiền tệ là thông tin tốt nhưng điều này không làm thay đổi mọi
thứ quá nhiều bởi để đánh giá đó có phải là đồng tiền mạnh hay không thì phải
phụ thuộc vào yếu tố đồng tiền đó có được giao dịch nhiều và ưu thế trong giao
dịch quốc tế cả trong thương mại và đầu tư hay không.
TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung
Quốc thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), ĐH Quốc gia Hà
Nội được phỏng vấn và nói rằng: Tác động của việc đồng CNY (CNY) gia nhập
SDR đối với cấu trúc hệ thống tài chính tiền tệ toàn cầu trong ngắn hạn không rõ


nét, tác động đối với hệ thống tài chính tiền tệ của Việt Nam không lớn nếu căn
cứ theo cấu trúc dự trữ ngoại tệ, cấu trúc nợ công và thị trường chứng khoán.
Việc CNY của Trung Quốc gia nhập SDR không thay đổi nhiều thị trường
tài chính - tiền tệ thế giới, bởi việc CNY gia nhập SDR không có nghĩa các ngân
hàng trung ương trên thế giới sẽ mua vào CNY ngay lập tức. Thay vào đó, họ sẽ
có thêm một lựa chọn cho rổ ngoại tệ dự trữ của mình. Mà điều này trên thực tế
một số ngân hàng trung ương đã làm rồi.

TS Cấn Văn Lực, Cố vấn cấp cao Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP
ĐT&PT Việt Nam (BIDV) kiêm Giám đốc Trường Đào tạo BIDV: “Trong bài
toán chính sách tỷ giá, Trung Quốc phải linh hoạt thả nổi tỷ giá nếu muốn giữ
cam kết trong rổ tiền tệ IMF với quốc tế, và hiện nay quốc tế cũng đang theo dõi
Trung Quốc với vấn đề này. Khi linh hoạt hơn, mức độ biến động của đồng
CNY tăng lên, biên độ dao động của đồng CNY sẽ cao hơn và do trong rổ tiền tệ
thanh toán quốc tế thì rõ ràng sẽ tác động nhiều, lan tỏa hơn tới tỷ giá các nước,
trong đó có Việt Nam”.
Bên cạnh đó có thể có tác động đến lãi suất. Gần đây Bắc Kinh thay đổi
cách tính toán tỷ giá hối đoái CNY- USD, thực hiện tự do hóa lãi suất tiết kiệm
và như vậy khi lãi suất của CNY tăng thì rõ ràng cũng sẽ tác động đến lãi suất
trên thị trường quốc tế.
Năm ngoái IMF tuyên bố sẽ bổ sung đồng CNY vào rổ tiền tệ của tổ chức
này, do đó quyết định bổ sung chính thức này dự tính sẽ không gây ảnh hưởng
tới thị trường tài chính thế giới.
Giới phân tích cho rằng, động thái IMF bổ sung đồng CNY vào rổ tiền
tệ phần lớn chỉ mang tính biểu tượng và đồng tiền này sẽ không thể đáp ứng
những tiêu chí về một đồng tiền dự trữ của IMF như có thể sử dụng rộng rãi
trong các giao dịch thương mại hay tại các thị trường tài chính thế giới.
Tổng thống Mỹ Donald Trump gán nhãn cho Trung Quốc là quốc gia thao
túng tiền tệ. Bộ trưởng tài chính Mỹ Jack Lew cũng cho rằng, đồng CNY của
Trung Quốc vẫn còn ở khoảng cách rất xa để trở thành một đồng tiền dự trữ của
thế giới


Tuy nhiên, các quan chức Trung Quốc đã nỗ lực để gia tăng sự ủng hộ đối
với việc đưa đồng CNY vào giỏ SDR và IMF đã chấp thuận động thái đó trong
một báo cáo gần đây. Theo các nhà phân tích, thời gian đầu, việc đưa CNY vào
SDR chủ yếu sẽ mang tính biểu tượng.


Hình 2. Tỷ giá CNY – USD giai đoạn 2011 -2015

Nhìn lại thời gian qua, Trung Quốc đã tiến hành những bước thay đổi lớn
và đã được gia nhập giỏ SDR, bao gồm cả việc đồng ý cho lãi suất tham chiếu
của đồng CNY dựa vào tình hình thị trường và mở rộng khả năng thâm nhập vào
thị trường trái phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc quốc tế hoá
đồng CNY thực ra đang diễn biến chậm chạp ngày từ khi quyết định của IMF.

Hình 3. Sự phá giá đồng CNY so với đồng USD (2015 – 2016)


Dữ liệu từ SWIFT cho thấy mạng lưới tài chính thế giới mà các ngân hàng
sử dụng để chuyển vốn, cho thấy rằng thị phần của đồng CNY giảm xuống 1.9
% tháng 7 từ đỉnh điểm là 2.8 % tháng 8 năm 2015.

Hình 4. Tình hình thanh toán bằng đồng CNY trong thương m ại quốc tế


Wang Tao, nhà kinh tế học của UBS Hồng Kong, nói rằng cầu của thế giới
về đồng CNY hoàn toàn phụ thuộc và những yếu tố nền tảng, như là tính thanh
khoản cũng như sự sẵn có của đồng CNY.

Tiề
n gửichính
tiết kisách
ệm btiền
ằngtệđồ
ng Trung
CNY ở H
ồng Kông

Có thểHình
nhận5.xét
rằng,
của
Quốc
còn nhiều hạn

chế, và Trung Quốc vẫn còn phải nỗ lực cải cách hiệu quả và triệt để hơn nữa để
đồng NDT thực sự trở thành một đồng tiền mạnh, xứng đáng với vị trí của nó
trong SDR.
2. Tác động của việc thêm đồng CNY vào rổ tiền tệ SDR đến thương mại
của Việt Nam
a) Trong ngắn hạn
Khi CNY trở thành đồng tiền dự trữ trong Quyền rút vốn đặc biệt (Special
Drawing Right / SDR), IMF đã xác định Trung Quốc là nền kinh tế hùng mạnh,
đáp ứng một số tiêu chí của IMF đưa ra. Việc đồng CNY gia nhập SDR cũng sẽ
có tác động đến doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Ngay sau khi CNY được đưa vào giỏ tiền tệ SDR, đa số chuyên gia tài
chính quốc tế đều cho rằng, sự hiện diện của CNY trong giỏ tiền tệ SDR chủ yếu
mang tính biểu tượng, không gây tác động đáng kể đến thị trường thế giới. Việc
CNY gia nhập SDR không có nghĩa là các ngân hàng trung ương trên thế giới sẽ
mua vào CNY ngay lập tức, và các nhà đầu tư sẽ vẫn thận trọng do Trung Quốc
chưa từ bỏ hoàn toàn kiểm soát dòng vốn hay cho phép thả nổi CNY.


Theo như nhận định chung, thì trong thời gian ngắn, rất nhiều doanh
nghiệp không chỉ Việt Nam, mà ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung
Quốc vẫn sẽ tiếp tục giao dịch chủ yếu bằng USD.
Thứ nhất, đó là do các doanh nghiệp này từ trước có thói quen và cũng

thường xuyên sử dụng USD trong thanh toán, nên sẽ không ngay lập tức chuyển
đổi sang sử dụng đồng CNY.
Thứ hai, các đơn đặt hàng cũng đã được ký từ trước đó, ấn định đồng tiền
thanh toán, mà chủ yếu là bằng USD.
Thứ ba, USD vẫn sẽ giữ vai trò chủ đạo trong thanh toán quốc tế của Việt
Nam do có nhiều ưu điểm: được chấp nhận rộng rãi, tính thanh khoản cao, có uy
tín lớn, hệ thống pháp lý của Mĩ rõ ràng, minh bạch...
Thứ tư, các chuyên gia kỳ vọng rằng, sau khi CNY gia nhập vào SDR, thì
do Trung Quốc phải chịu nhiều ràng buộc từ IMF. Đó là các yêu cầu về hoàn
thành các tiến trình cải tổ cần thiết cũng như cho phép đồng CNY chuyển đổi tự
do; ngừng các hành động kiểm soát tỷ giá đồng CNY, đảm bảo cung tiền một
cách tự do.
Do đó, các nhà đầu tư và doanh nghiệp kỳ vọng rằng, tỷ giá của CNY sẽ
không có biến động nhiều, như việc CNY bất ngờ giảm giá 1,9% trong ngày
11/5/2015 và giảm 1.6% trong ngày 12/5/2015, rồi giảm khoảng 4% vào tháng
8/2015. Không những thế, trong những ngày cuối tháng 12/2015, CNY tiếp tục
mất giá và chưa có dấu hiệu dừng lại, ví dụ: Trong hai tuần lễ đầu tháng
12/2015, CNY giảm thêm 1,3% so với USD.
Tuy nhiên, thực tế là trong năm 2016, Trung Quốc duy trì chính sách đồng
CNY yếu, khiến CNY tiếp tục giảm giá rất mạnh, so với USD là khoảng 5%. Từ
khoảng tháng 6 năm 2016 đến đầu năm 2017, đồng CNY liên tục giảm giá so
với VND.


Tỉ giá
USD giai
đolớn
ạn 2015-2017
Trung QuốcHình
đang6. là

đối CNY
tác và
thương
mại
nhất của Việt Nam. Kim

ngạch thương mại hai chiều đạt khoảng 95,8 tỷ USD trong năm 2015, và gần

Tỉ giáchiếm
CNY và
VND
giaikim
đoạngạch
n 2015-2017
100 tỷ USD trongHình
năm7.2016,
1/3
tổng
xuất nhập khẩu của Việt

Nam. Do đó, sự biến động của CNY ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh
tranh của VND.


Việc CNY mất giá có thể khiến nhập siêu từ Trung Quốc gia tăng, vì hàng
Việt Nam sẽ trở nên kém cạnh tranh hơn, xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ khó
khăn hơn. Không những thế, Việt Nam và Trung Quốc cùng xuất khẩu nhiều mặt
hàng tương đồng sang các thị trường lớn như Mỹ và EU, nên Việt Nam còn gặp
bất lợi trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, may mắn là trong thời gian ngắn, việc CNY giảm giá sẽ không

ảnh hưởng quá mạnh tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Ví dụ, mặt
hàng dệt may, da giày... đang sử dụng phần lớn nguyên liệu nhập khẩu từ Trung
Quốc, việc đồng CNY giảm giá so với USD đã giúp cho các doanh nghiệp trong
những lĩnh vực này tiếp cận với nguồn nguyên liệu rẻ hơn, tăng lợi thế cạnh
tranh, đẩy mạnh được xuất khẩu. Trong khi các mặt hàng nông sản của Việt Nam
xuất khẩu sang Trung Quốc phần lớn qua đường tiểu ngạch, thị trường tiêu thụ
chủ yếu là các tỉnh biên giới nên việc CNY giảm giá ảnh hưởng chưa lớn.
Tuy nhiên, về dài hạn, nếu CNY lại theo xu hướng yếu đi kéo dài thì
những mặt hàng xuất khẩu số lượng lớn trong lĩnh vực nông sản như sắn và cao
su sẽ bị ảnh hưởng.

KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨUVIỆT NAM - TRUNG QUỐC
6000000
5000000
4000000
3000000
Tỷ USD

2000000

Xuất
kh ẩu

1000000
0

Năm 2016


Từ số liệu trên, có thể thấy rằng, trong ngắn hạn việc Trung Quốc gia

nhập SDR chưa tạo ảnh hưởng đáng kể đối với thương mại của nước này và Việt
Nam. Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc trong
năm 2016 qua các tháng khá ổn định, có xu hướng tăng nhẹ.
Dù vậy, không thể phủ nhận rằng, diễn biến kinh tế Trung Quốc tiến triển
phức tạp, nhất là việc đồng CNY giảm giá mạnh trong năm 2016 tiến triển phức
tạp, trái với dự đoán của các chuyên gia, bất chấp việc đồng CNY đã chính thức
gia nhập SDR vào 1/10/2016. Tuy vậy, điều đó cũng cho thấy, việc CNY gia
nhập SDR trong ngắn hạn chỉ có giá trị biểu tượng và không tác động mạnh đến
giá trị của đồng tiền này hay ảnh hưởng mạnh đến thương mại Việt Nam và
Trung Quốc.
b) Trong dài hạn
Trong ngắn và trung hạn, đồng CNY chưa tác động gì nhiều lắm đối với
Việt Nam. Nhưng về lâu dài, khi đồng CNY của Trung Quốc được thanh toán
phổ biến hơn và có giá trị mạnh hơn, có thể doanh nghiệp Trung Quốc sẽ đề xuất
thanh toán bằng CNY nhiều hơn. Từ nhiều năm qua, Trung Quốc muốn Việt
Nam sử dụng CNY trong quan hệ thanh toán thương mại và phía Trung Quốc đã
nhiều lần đề nghị cho thanh toán trực tiếp CNY tại Việt Nam. Tuy nhiên, đề xuất
của Trung Quốc không được chấp nhận do việc thanh toán CNY tại Việt Nam vì
không phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam là trên đất Việt Nam chỉ sử
dụng VND (trừ việc thanh toán biên mậu giữa hai nước tại khu vực biên giới).
Ngay cả USD, một đồng tiền mạnh nhất thế giới cũng không được sử dụng trong
giao dịch thanh toán tại Việt Nam.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam, việc sử dụng đồng tiền nào trong quan hệ thanh toán quốc tế
là bài toán đơn thuần là lợi nhuận và tiện ích trong thanh toán. Trong cơ cấu
hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, phần lớn là máy móc, trang thiết bị và
nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, khoảng 20% là hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp hầu như không sử dụng CNY làm đồng tiền thanh toán, mà chủ



yếu vẫn sử dụng USD. Đây là lôgic thông thường, do các doanh nghiệp nhập
khẩu từ Trung Quốc, sau đó lại xuất khẩu hàng hóa thành phẩm sang những thị
trường khác, chủ yếu là Mỹ và Liên minh châu Âu, Nhật Bản và các nước
ASEAN. Nếu sử dụng CNY trong thanh toán nhập khẩu từ Trung Quốc, khi bán
hàng sang Mỹ, Liên minh châu Âu và thu về bằng ngoại tệ khác, rồi lại phải đổi
sang CNY để trả nợ thì rất bất tiện và tốn kém. Ngoài ra, giá trị của CNY không
ổn định cũng là yếu tố khiến các doanh nghiệp không muốn sử dụng CNY trong
quan hệ thanh toán.
Đối với thị trường các nước ASEAN, xu hướng sử dụng CNY trong quan
hệ thanh toán có thể diễn biến phức tạp hơn. Với sự ra đời của cộng đồng kinh tế
ASEAN vào cuối năm 2015, một số nước thành viên sẽ có thiên hướng ưu tiên
sử dụng CNY trong thanh toán thương mại và đầu tư với Trung Quốc, nhất là
những nước có cán cân thương mại cân bằng với Trung Quốc và những nước có
quan hệ thân thiết với Trung Quốc. Xu hướng sử dụng CNY trong cộng đồng
kinh tế ASEAN cũng gây tác động đáng kể về tâm lý đến các doanh nghiệp hoạt
động tại Việt Nam, một số doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ
Trung Quốc và xuất khẩu thành phẩm sang các nước ASEAN có thể sẽ cân nhắc
sử dụng CNY trong thanh toán xuất khẩu hàng hóa sang thị trường khu vực
ASEAN.
Tuy nhiên, trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước
ASEAN đang có xu hướng tăng chậm lại (năm 2011 tăng 28,8%; năm 2012 tăng
9,4%; năm 2013 tăng 3,4%; năm 2014 tăng 5,7%), mặc dù hàng rào thuế quan
giữa các nước ASEAN đã được gỡ bỏ dần theo Hiệp định Thương mại hàng hóa
ASEAN có hiệu lực từ ngày 17/5/2010. Nguyên nhân cơ bản là do gạo và dầu
thô là hai mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường này. Trong
khi đó, xuất khẩu dầu giảm theo giá dầu thế giới, xuất khẩu gạo chủ yếu vẫn
thực hiện dưới hình thức tiểu ngạch và bị cạnh tranh quyết liệt. Xuất khẩu giảm
cũng gây áp lực gia tăng nhập siêu của Việt Nam trong quan hệ thương mại với
các nước ASEAN từ khoảng 3 tỷ USD vào năm 2014 lên 6,9 tỷ USD trong 6



tháng đầu năm 2015 và có nguy cơ tiếp tục tăng, chỉ đứng sau con số nhập siêu
từ Trung Quốc. Vì thế, tỷ trọng thanh toán bằng CNY có thể tăng không nhiều.
Đối lập với xu hướng gia tăng nhập siêu trong quan hệ thương mại với
Trung Quốc và ASEAN, mức độ xuất siêu vào Mỹ, EU và Nhật Bản ngày càng
tăng, cả về con số tuyệt đối và tỷ lệ tương đối (xem bảng dưới đây). Đáng chú ý,
xuất khẩu vào Mỹ, EU và Nhật Bản tăng cao đã góp phần đáng kể vào việc giảm
nhập siêu, nhanh chóng cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
Kết quả xuất khẩu vào một số thị trường thời kỳ 2011-2015
2014

2015

Tỷ USD Tăng (%) Tỷ trọng (%) Tăng (%) Tỷ trọng (%)
Trung Quốc 14,9

13,7

10,7

14

10,3

EU

27,9

14,7


20,1

24,2

18,9

Hoa Kỳ

28,5

19,6

20,5

28,5

20,6

ASEAN

19,0

14,7

20,1

24,2

18,9


Nhật Bản

14,7

8,0

10,6

14,9

8,6

Nguồn: Bộ Công Thương
Trái ngược với những chuyển biến tích cực trong hoạt động xuất khẩu,
hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục đối mặt với rủi ro
rất lớn do vẫn phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu từ Trung Quốc và ASEAN.
Trong năm 2014 và 11 tháng đầu năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc vẫn chiếm
khoảng 29,5% tổng kim ngạch nhập khẩu, và tốc độ tăng trưởng chỉ giảm nhỏ
giọt. Mức độ nhập siêu từ Trung Quốc có nguy cơ tiếp tục tăng cao, do CNY sẽ
tiếp tục mất giá trong thời gian tới.


Về nhập khẩu từ những thị trường ngoài Trung Quốc và ASEAN, nhập
khẩu từ châu Mỹ và châu Đại Dương tăng 25,6%, chủ yếu từ Mỹ (tăng 20,3%)
và Australia (tăng 31,2%), các nước Mỹ Latinh và Caribê (tăng 39,6%). Trong
11 tháng đầu năm 2015, nhập khẩu từ thị trường châu Á chỉ tăng 12,7%, thấp
hơn tốc độ tăng 26,6% từ châu Mỹ, trong đó nhập khẩu từ Mỹ tăng 26,6%. Mặc
dù bức tranh nhập khẩu đang sáng dần, nhưng tốc độ cải thiện chậm chạp và tiếp
tục phụ thuộc nặng nề vào thị trường Trung Quốc trong những năm tới. Nguyên
nhân chủ yếu là do thể chế và mô hình kinh tế, nhiều doanh nghiệp vẫn chỉ hoạt

động đơn thuần là gia công hoặc lắp ráp hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc để
tái xuất, kể cả các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay, mức độ cải thiện hoạt động nhập siêu phù thuộc
vào nỗ lực của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là nỗ lực cải
thiện môi trường pháp lý. Về tác động từ bên ngoài, thì vào 2015, vòng đàm
phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU) đã kết
thúc, và hai bên đang hoàn tất các thủ tục nội bộ để ký kết, phê chuẩn và triển
khai đầy đủ Hiệp định này. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
(EVFTA) là một FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU.
EVFTA, cùng với Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), là hai FTA
có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới
nay.
Ngày 1/12/2015 EVFTA đã chính thức kết thúc đàm phán và đến ngày
1/2/2016 văn bản hiệp định đã được công bố. Hiện tại, hai bên đang tiến hành rà
soát lại văn bản hiệp định và lên kế hoạch ký kết hiệp định trong năm 2016. Dự
kiến EVFTA sẽ có hiệu lực từ năm 2018.. Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam - Liên minh châu Âu sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội của cả hai bên
thông qua việc tăng cường tiếp cận thị trường của mỗi bên. Hiệp định cũng sẽ
mang lại một làn sóng đầu tư chất lượng cao từ cả hai phía, hỗ trợ Việt Nam
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, thông minh và có sức cạnh tranh hơn.


Sau khi có hiệu lực thi hành, Hiệp định thương mại tự do với EU sẽ trở
thành động lực thúc đẩy trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước thành
viên. Cụ thể là, khi tham gia hai hiệp định này, yêu cầu về xuất xứ hàng hóa đầu
vào cũng được quy định rất chặt chẽ. Cụ thể là, các doanh nghiệp Việt Nam phải
ưu tiên nhập khẩu hàng hóa đầu vào từ những nước thành viên trong nội khối,
nếu không sẽ không được hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất khẩu vào các thị
trường khác trong nội khối.
Nếu Việt Nam chủ động tham gia hiệp định thương mại quan trọng nêu

trên và tích cực đẩy mạnh cải cách một cách cầu thị, sự phụ thuộc vào thị trường
Trung Quốc mới có hy vọng giảm nhanh trong tương lai, tác động của CNY đối
với tình hình kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam nhờ đó sẽ giảm dần theo
thời gian.
Trong dài hạn, kỳ vọng chủ yếu của Việt Nam là: đồng CNY nhiều khả
năng sẽ tiếp tục tăng giá so với đồng tiền nước ta (VND) vì hai nguyên
nhân: Thứ nhất, CNY dã giảm giá trong một giai đoạn quá dài trong thời gian
qua. Thứ hai, Trung Quốc muốn Quốc tế hóa đồng tiền thì phải thực hiện việc tự
do hóa tỷ giá hối đoái. Do Việt Nam nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc, và nhiều
ngành nghề phải phụ thuộc vào nguồn nguyên nhiên vật liệu từ Trung Quốc, nên
nếu điều đó xảy ra thì thực chất sẽ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó
khăn. Vì các nguyên vật liệu, thiết bị nhập từ Trung Quốc sẽ tăng giá sau khi
quy đổi, đẩy giá thành và giá bán hàng hóa của Việt Nam tăng theo. Đặc biệt khi
các doanh nghiệp chưa kịp điều chỉnh hợp đồng và chưa tìm được nguồn nhập
khẩu thay thế thì các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Dù vậy, khi
đồng CNY đạt chuẩn quốc tế rồi sẽ được lưu thông như đồng USD của Mỹ hay
Euro của EU, Yên Nhật và Bảng Anh thì tỷ giá đồng tiền này sẽ ổn định và như
vậy sẽ rất thuận lợi cho doanh nghiệp. Đây là điều có lợi đối với doanh nghiệp
có giao dịch với Trung Quốc.


Nếu CNY tăng giá thì đây cũng sẽ là cơ hội để Việt Nam thực hiện hai
mục tiêu: cải thiện thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc và tìm nguồn
hàng nhập khẩu thay thế, tránh tình trạng phụ thuộc cao vào hàng nhập khẩu
Trung như hiện nay.
Tóm lại, Việt Nam sẽ phải theo dõi và quan sát rất cẩn trọng và kĩ lưỡng
những thay đổi trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc, đặc biệt là chính sách
tự do hóa các dòng vốn trên tài khoản vốn của họ tác động thế nào đến Việt Nam
để đưa ra những biện pháp và điều chỉnh phù hợp.



KẾT LUẬN
Sự kiện Quỹ tiền tệ thế giới IMF đưa đồng CNY của Trung Quốc vào rổ
tiền tệ dự trữ SDR cùng với bốn đồng tiền chủ chốt khác của thế giới là một
bước tiến cho thấy sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ toàn cầu. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, sự kiện CNY gia nhập vào
SDR được đánh giá là chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Còn trong dài hạn, việc
đồng CNY có thể trở thành đồng tiền quốc tế mạnh hay không vẫn cần phải
kiểm nghiệm qua thực tế mà thước đo chính xác nhất vẫn là sức khỏe của nền
kinh tế Trung Quốc, nỗ lực cải cách chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ
Trung Quốc cũng như những biến chuyển của nền kinh tế thế giới.
Vì vậy, Việt Nam cần phải sát sao theo dõi và liên tục đánh giá tác động
của sự thay đổi vị thế và tầm ảnh hưởng của Trung Quốc qua sự kiện này để từ
đó đưa ra những điều chỉnh và chỉ đạo thích hợp để tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho sự ổn định và phát triển kinh tế bền vững của quốc gia.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng, GS. TS. Nguyễn Văn Tiến, NXB Thống
kê, 2012.
2. Giáo trình Tài chính Quốc tế, GS. TS Nguyễn Văn Tiến NXB Thống kê,
2012.
3. Tóm lược “Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu
(EVFTA)”, WTO Center, 2015.
4. Kỷ yếu hội thảo “Trung Quốc quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và vấn đề
chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam”, ThS Lê Xuân Sang,
2013.
5. “Định hướng chính sách và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành
tỷ giá hối đoái tại Việt Nam”, Nguyễn Khắc Việt Trung, Tạp chí Ngân
hàng số 9, 2009.

6. Tài liệu của Bộ Công thương Việt Nam.
7. Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
8. Thời báo Ngân hàng.
9. www.tapchicongsan.org.vn.
10. www.sbv.gov.vn.
11. XE.com.
12.


×