Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận bất bình đẳng về thu nhập ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.11 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, xã hội ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ
nhanh, mức sống của con người cũng được nâng cao hơn và mức thu nhập bình quân đầu
người cũng đang có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, bên cạnh một số ngành nghề có mức
thu nhập tương đối ổn định thì vẫn tồn tại mức thu nhập khá thấp. Đó chính là hiện tượng
bất bình đẳng về thu nhập. Bất bình đẳng là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội
hoặc lợi ích với các thành viên trong xã hội trên các lĩnh vực. Bất bình đẳng không tồn tại
ngẫu nhiên mà là một hiện tượng xã hội phổ biến mang tính tất yếu do yếu tố cơ cấu kinh
tế - xã hội và lãnh thổ tạo ra. Hiện nay sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thường đi kèm
với bất bình đẳng trên nhiều góc độ: kinh tế, giới tính,... và đang dần trở thành một thách
thức trong quá trình phát triển toàn diện và bền vững của Việt Nam. Sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập dẫn đến khả năng hưởng thụ an sinh và phúc lợi xã hội khác
nhau, làm giảm động cơ làm việc của một bộ phận các cá nhân trong xã hội khi mức thu
nhập và lợi ích họ nhận được lại chưa thỏa đáng. Trong đó vấn đề bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập không tương xứng với công sức bỏ ra ngày càng gia tăng. Bất bình
đẳng gia tăng cũng khiến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, dẫn đến sự bất ổn
chính trị. Những mâu thuẫn, xung đột xã hội dễ nảy sinh do đó ảnh hưởng lớn tới đời
sống kinh tế xã hôi. Tình trạng bất bình đẳng cao thu nhập kéo dài làm ảnh hưởng trực
tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhận thức được vấn đề đó, ngay từ những năm
đầu chuyển sang kinh tế thị trường, Việt Nam đã lựa chọn con đường phát triển toàn diện,
gắn mục tiêu tăng trường kinh tế với đảm bảo sự công bằng xã hội. Từ những tác động
của vấn đề bất bình đẳng thu nhập đến nền kinh tế Việt Nam mà nhóm chúng em đã quyết
định chọn đề tài tiểu luận: “Bất bình đẳng về thu nhập ở Việt Nam”.


1. Cơ sở lý thuyết về bất bình đẳng thu nhập
1.1. Khái niệm phân phối thu nhập và bất bình đẳng thu nhập
- Phân phối thu nhập: là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật
của sản xuất, song sự phân phối có sự ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất, có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm đối với sản xuất.
- Bất bình đẳng thu nhập: Là sự khác nhau trong thu nhập giữa các nhóm dân cư do


phân phối thu nhập và tài sản tạo ra. Đây là trọng tâm của vấn đề bất bình đẳng xã hội.
1.2. Đường Lorenz
Một cách phổ biến khác để phân tích số liệu thống kê về thu nhập cá nhân là xây dựng
đường Lorenz mang tên nhà kinh tế học người Mỹ Coral Lorenz (1905).
Đường Lorenz được vẽ trong một hình vuông mà trục hoành biểu thị phần trăm dân số có
thu nhập, còn trục tung biểu thị tỷ trọng thu nhập của các nhóm tương ứng. Đường chéo
được vẽ từ gốc tọa độ biểu thị tỷ lệ phần trăm thu nhập nhận được đúng bằng tỷ lệ phần
trăm của số người có thu nhập. Nói cách khác, đường chéo đại diện cho sự “công bằng
hoàn hảo” của phân phối thu nhập theo quy mô: mọi người có mức thu nhập giống nhau.
Còn đường Lorenz biểu thị mối quan hệ định lượng thực tế giữa tỷ lệ phần trăm của số
người có thu nhập và tỷ lệ phần trăm thu nhập mà họ nhận được. Như vậy, đường cong
Lorenz mô phỏng một cách dễ hiểu tương quan giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm
thu nhập thấp nhất. Đường Lorenz càng xa đường chéo thì thu nhập được phân phối càng
bất bình đẳng.
Đường Lorenz là một công cụ tiện lợi, giúp xem xét mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập thông qua quan sát hình dạng của đường cong. Tuy nhiên, công cụ mang
tính trực quan này còn quá đơn giản, chưa lượng hóa được mức độ bất bình đẳng và do
đó khó có thể đưa ra các kết luận chính xác trong những trường hợp phức tạp.


1.3. Hệ số Gini
Hệ số Gini, mang tên nhà thống kê học người Italia (C. Gini), được tính trên cơ sở đường
Lorenz. Đây là một thước đo tổng hợp về sự bất bình đẳng. Nó được tính bằng tỷ số của
phần diện tích nằm giữa đường chéo và đường Lorenz so với tổng diện tích của nửa hình
vuông chứa đường cong đó. Trong Hình 1 đó là tỷ lệ giữa phần diện tích A so với tổng
diện tích A+B.
Hệ số Gini có thể dao động trong phạm vi từ 0 đến 1.




Hệ số Gini = 0 khi diện tích A = 0, có nghĩa đường Lorenz và đường chéo trùng
nhau, chúng ta có bình đẳng tuyệt đối: mọi người có mức thu nhập giống nhau.
Hệ số Gini = 1 khi diện tích B = 0, có nghĩa đường Lorenz nằm xa đường chéo
nhất, chúng ta có bất bình đẳng tuyệt đối: một số ít người nhận được tất cả, còn
những người khác không nhận được gì).

Căn cứ vào hệ số Gini, người ta chia các quốc gia thành 3 nhóm bất bình đẳng thu nhập.
Các quốc gia có mức độ:




Bất bình đẳng thu nhập thấp khi Gini < 0,4;
Bất bình đẳng thu nhập trung bình khi 0,4 ≤ Gini ≤ 0,5;
Bất bình đẳng thu nhập cao khi Gini > 0,5.

Hệ số Gini khắc phục được nhược điểm của đường Lorenz là nó lượng hóa được mức độ
bất bình đẳng thu nhập và do đó dễ dàng so sánh mức độ bất bình đẳng thu nhập theo thời
gian cũng như giữa các khu vực, vùng và quốc gia. Tuy nhiên, thước đo này cũng có hạn
chế bởi vì Gini có thể giống nhau khi diện tích A như nhau nhưng sự phân bố các nhóm
dân cư có thu nhập khác nhau (đường Lorenz có hình dáng khác nhau).


1.4. Một số thước đo khác
1.4.1.
Tiểu chuẩn 40 của Ngân hàng Thế giới
Ngân hàng Thế giới (2003) đề xuất chỉ tiêu đánh giá tình trạng bất bình đẳng: tỷ trọng thu
nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng số thu nhập toàn bộ dân cư.
Theo chỉ tiêu này có 3 mức độ bất bình đẳng cụ thể sau:





Nếu tỷ trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao về thu nhập;
trong khoảng 12% – 17% có sự bất bình đẳng trung bình
lớn hơn 17% là bất bình đẳng thấp.

Các thước đo bất bình đẳng ở trên không chỉ tính theo thu nhập, mà còn tính theo chi
tiêu, hay sở hữu tài sản như đất đai. Bất bình đẳng có thể tính riêng cho các vùng hay các
nhóm dân cư. Trong phân tích tĩnh, các đặc trưng của hộ gia đình và cá nhân như giáo
dục, giới, nghề nghiệp cũng có thể được tính đến.
1.4.2.
Tỷ lệ Q5/Q1
Cách đơn giản nhất để đo lường bất bình đẳng về phân phối thu nhập là thống kê sắp xếp
các cá nhân theo mức thu nhập tăng dần, rồi chia tổng dân số thành các nhóm. Một
phương pháp thường được sử dụng là chia dân số thành 5 nhóm có quy mô như nhau theo
mức thu nhập tăng dần, rồi xác định xem mỗi nhóm nhận được bao nhiêu phần trăm của
tổng thu nhập.



Nếu thu nhập được phân phối đều cho các gia đình, thì mỗi nhóm gia đình sẽ nhận
được 20% thu nhập.
Nếu tất cả thu nhập chỉ tập trung vào một vài gia đình, thì hai mươi phần trăm gia
đình giàu nhất sẽ nhận được tất cả thu nhập, và các nhóm gia đình khác không
nhận được gì.

Tất nhiên, nền kinh tế thực tế nằm ở đâu đó giữa hai thái cực này. Một chỉ tiêu đơn giản
nhất để đo lường mức độ bất bình đẳng về thu nhập là tỷ lệ giữa thu nhập bình quân của
nhóm 20% hộ gia đình giàu nhất với thu nhập bình quân của nhóm 20% hộ gia đình

nghèo nhất (Q5/Q1).
Ưu điểm: Chỉ tiêu này đơn giản, dễ tính và dễ sử dụng
Nhược điểm: chỉ tính thu nhập của hai nhóm giàu nhất và nghèo nhất mà không phản ánh
được toàn bộ bức tranh về phân phối thu nhập của tất cả dân cư.


2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
2.1. Tổng quan bất bình đẳng thu nhập trên thế giới và tình hình Việt Nam
2.1.1.Tổng quan thế giới
Thế giới ngày nay đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng bất bình đẳng chưa từng có.
Trong 40 năm qua, khoảng cách giữa nhóm giàu và các nhóm khác đã tăng đáng kể, khi
các luật lệ kinh tế thiên về nhóm chóp bu giàu có và quyền lực. Năm 2015, chỉ 62 người
giàu sở hữu số tài sản bằng nửa số tài sản của dân số nghèo nhất trên thế giới, và nhóm
một phần trăm giàu nhất sở hữu nhiều tài sản hơn tài sản của chín mươi chín phần trăm
dân số thế giới cộng lại. Đồng thời, nhóm nghèo nhất đang phải gánh chịu sự bất bình
đẳng nhất. Từ đầu thế kỷ này, phần nửa nhóm nghèo nhất của dân số thế giới chỉ nhận
được một phần trăm trong tổng số tăng của tài sản toàn cầu. Tình trạng tương tự cũng xảy
ra ở châu Á, thu nhập của nhóm 70% nghèo nhất đã giảm, trong khi nhóm 10% giàu nhất
lại có thu nhập tăng đáng kể. Nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho
thấy bất bình đẳng kinh tế đang cản trở công cuộc giảm nghèo, và ước tính có thêm 240
triệu người trong vùng đáng lý đã thoát nghèo cùng cực trong 20 năm qua nếu tăng
trưởng không đi kèm tăng bất bình đẳng. Nghiên cứu này cũng cho thấy ở cả quốc gia
giàu và nghèo, mức độ bất bình đẳng cao làm giảm khả năng dịch chuyển xã hội, khiến
nhóm nghèo nhất có khả năng vẫn nghèo truyền kiếp.
2.1.2.
Tình hình ở Việt Nam
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh trong 30 năm qua, với thu nhập bình quân tăng và
số người nghèo giảm đều và đáng kể. Trên thực tế, gần 30 triệu người đã vượt chuẩn
nghèo chính thức từ thập niên 1990 khi thu nhập GDP tính theo đầu người tăng từ 100
USD vào năm 1990 lên 2.300 USD vào năm 2015. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam bình

quân đạt 5-6% trong ba thập kỷ qua, với tỷ lệ tăng trưởng bình quân khoảng 6,4% trong
thập niên 2000. Mặc dù tăng trưởng nhanh như vậy nhưng so với một số nước, bất bình
đẳng ở Việt Nam đã không tăng nhiều. Trong những năm gần đây ở Việt Nam, thu nhập
trung bình tăng và số người nghèo giảm đều và rõ rệt. Gần 30 triệu người đã vượt chuẩn
nghèo chính thức, từ thập niên 1990, và chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam
tăng đáng kể. Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009,
và cũng đạt hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.

2.2. “Con số biết nói”
2.2.1.
Phân tích theo Thu nhập, chi tiêu
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu, tăng trưởng của Việt Nam đang chậm lại, và tương
lai chưa rõ ràng. Bất bình đẳng kinh tế ở Việt Nam đang tăng với mọi thước đo. Số liệu
Ngân hàng Thế giới (NHTG) cho thấy bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam tăng trong hai
thập kỷ qua, và đáng chú ý hơn là số người giàu đang chiếm phần thu nhập quá lớn. Vào


năm 2012, tỷ lệ Palma của Việt Nam là 1,74, nghĩa là nhóm 10% giàu nhất có thu nhập
cao gấp 1,74 lần nhóm 40% thu nhập thấp nhất. Khoảng cách về thu nhập giữa nhóm
20% giàu nhất và các nhóm khác đang gia tăng từ năm 2004, và số người siêu giàu cũng
tăng. Năm 2014, 210 người siêu giàu (có trên 30 triệu USD) ở Việt Nam có tổng tài sản
khoảng 20 tỷ USD, tương đương 12% GDP cả nước, hay ½ GDP của thành phố Hồ Chí
Minh. Knight Frank ước tính số người siêu giàu sẽ tăng đáng kể ở Việt Nam, lên đến 403
vào năm 2025. Tính toán của Oxfam cho thấy mức độ thay đổi khoảng cách về thu nhập
giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất ở Việt Nam như sau: Người giàu nhất Việt Nam có
thu nhập trong một ngày cao hơn thu nhập của người Việt Nam nghèo nhất trong 10 năm,
và tài sản của người giàu nhất này lớn tới mức có thể tiêu một triệu USD mỗi ngày trong
sáu năm mới hết. Cùng với khối tài sản lớn là tiềm năng thu nhập từ tín dụng cũng lớn.
Trong một giờ, người giàu nhất Việt Nam có mức thu nhập cao hơn gần 5.000 lần số tiền
mà nhóm 10% nghèo nhất Việt Nam chi hàng ngày cho các nhu cầu thiết yếu. Báo cáo

Nghiên cứu chính sách 12/1/2017 chỉ ra tác động nghiêm trọng của nhiều dạng bất bình
đẳng. Bất bình đẳng kinh tế bị trầm trọng hơn bởi tình trạng nghèo về tiếng nói và cơ hội.
Ở Việt Nam, nhóm DTTS, nông dân quy mô nhỏ, lao động nhập cư và phụ nữ có nhiều
khả năng bị nghèo hóa, không tiếp cận được các dịch vụ và quá trình ra quyết định chính
trị, và bị phân biệt đối xử nhiều nhất. Các nhóm dân tộc có những chênh lệch đáng kể về
mức sống, trong đó nhóm dân tộc Kinh và Hoa thường có mức sống cao hơn hẳn. Các
nhóm dân tộc khác lại có tỷ lệ nghèo quá cao; họ chiếm chưa tới 15% dân số nhưng tới
70% số hộ nghèo cùng cực. Bằng chứng cũng cho thấy các nhóm DTTS có khả năng dịch
chuyển xã hội thấp hơn. Trong giai đoạn 2010-2014, 49% số hộ Kinh và Hoa trong nhóm
ngũ phân vị có thu nhập thấp nhất chuyển lên nấc thu nhập cao hơn, trong khi chỉ có 19%
hộ các nhóm dân tộc khác dịch chuyển lên như vậy. Các nhóm DTTS cũng có khuynh
hướng dễ bị chuyển dịch đi xuống về thu nhập hơn so với nhóm Kinh và Hoa.


2.2.2.

Phân tích Gini

Chênh lệch thu nhập và phân hoá giàu nghèo trong dân cư còn được thể hiện qua Hệ số
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (GINI). Hệ số GINI có giá trị từ 0 đến 1. Giá trị
của hệ số GINI bằng 0 thể hiện sự bình đẳng tuyệt đối và ngược lại nếu hệ số GINI bằng
1 thể hiện sự bất bình đẳng tuyệt đối. Theo đó thì giá trị của hệ số GINI càng lớn thì sự
bất bình đẳng càng cao.
Hệ số GINI cả nước năm 2018 là 0,424, trong đó khu vực nông thôn là 0,407 có sự chênh
lệch nhiều hơn so với 0,372 của khu vực thành thị (con số tương ứng của năm 2016 là
0,431; 0,408; 0,391). Điều này cho thấy bất bình đẳng thu nhập ở nông thôn hiện đang
cao hơn thành thị.

2.3. Hậu quả
Vấn đề bất bình đẳng thu nhập dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội là mối quan tâm lớn

của nhiều nước phát triển. Vì chính phủ các nước nhận thức được rằng, bất bình đẳng thu
nhập sẽ dẫn đến các vấn đề của xã hội như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng,
năng suất lao động bình quân giảm vì người có thu nhập thấp thấy được họ chỉ được
hưởng một phần rất ít trong thành quả chung, thậm chí không bù đắp được với chi phí
ngày càng tăng của cuộc sống.


3. Nguyên nhân bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
Chênh lệch về thu nhập và sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam có thể bắt
nguồn từ các nhân tố mang tính đặc trưng của nhóm dân số; sự khác biệt về địa lý; sự
khác biệt về các động lực tăng trưởng nông nghiệp và phi nông nghiệp giữa các vùng;
những thay đổi trong mô hình sản xuất, từ mô hình nông nghiệp đến mô hình phi nông
nghiệp, và từ công việc tay nghề thấp đến công việc có kỹ năng cao.
3.1. Khách quan
3.1.1.
Xuất phát từ bản thân nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Đối với phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần và sản xuất hàng hóa thì sự phân hóa giàu nghèo là
một hiện tượng khách quan và nguyên nhân trực tiếp của sự chênh lệch về thu nhập, sự
phân hóa giàu nghèo là quan hệ phân phối thu nhập.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX xác định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và
thông qua quỹ phúc lợi xã hội”.
ð Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để thực hiện nguyên tắc phân
phối công bằng vẫn phải thừa nhận sự tồn tại của sự bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập và mức sống như một tất yếu kinh tế, chấp nhận sự
chênh lệch trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao động, chấp nhận sự
phân hóa giàu nghèo trong giới hạn, mức độ cho phép.
3.1.2. Bắt nguồn từ quy luật phát triển không đều giữa các vùng do điều

kiện địa lý, phương thức sản xuất, văn hóa, phong tục tập quán, lối
sống khác nhau
Vùng có điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi thì sẽ phát triển nhanh,
năng suất lao động cao, thu hút các nguồn vốn đầu tư.
ð Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.
ð Thu nhập của dân cư cao hơn so với những vùng khó khăn, kém phát triển
hơn.
Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế giữa các vùng là không giống nhau
nên sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng càng lớn, các vùng chậm phát triển
có nguy cơ tụt hậu. Cụ thể:
- Điều kiện tự nhiên là một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự khác biệt về
trình độ phát triển kinh tế cũng như bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng. Các vùng có
trình độ phát triển kinh tế thấp như trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên
hải miền Trung thường có địa hình hiểm trở, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế nói
chung và việc đi lại nói riêng. Do địa hình phức tạp, bị chia cắt manh mún tạo nên những


tiểu vùng khí hậu khắc nghiệt thường gây ra lũ, sạt lở núi về mùa mưa, hạn hán và thiếu
nước về mùa khô làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên
thiên nhiên đang bị xuống cấp, đất đai bị xói mòn.
- Phân bố dân cư. Những vùng có mật độ dân cư thưa thớt, quy mô dân số nhỏ có
trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so với những vùng có mật độ dân cư cao, quy mô dân
số đông.
Ở Việt Nam, dân cư không phân bố đồng đều, tập trung nhiều ở các vùng đồng bằng và
duyên hải, vùng đồng bằng sông Hồng là vùng có đông dân cư nhất (khoảng trên 21 triệu
người (thời điểm 2016), chiếm khoảng 22% tổng dân số cả nước, bình quân khoảng 1.413
người trên 1 cây số vuông) và thấp nhất là ở vùng Tây Nguyên (chỉ hơn 5,7 triệu người,
bằng 6,14% dân số cả nước).
Bên cạnh đó, những vùng này lại thường tập trung nhóm dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch
về tỷ lệ tăng trưởng giữa nhóm dân tộc thiểu số và nhóm đa số đã góp phần đặc biệt làm

tăng bất bình đẳng ở khu vực nông thôn. Do người dân tộc thiểu số có trình độ học vấn
thấp hơn và bị hạn chế hơn về khả năng tiếp cận nguồn vốn sản xuất nên những chênh
lệch về các loại tài sản khác này cũng góp phần gây nên và củng cố thêm những chênh
lệch về thu nhập giữa các dân tộc.
Dân tộc
Kinh

Số người
3.309.836

Tỷ lệ (%)

Dân tộc

Số người

Tỷ lệ (%)

64,80 Mông

48.877

0,96

Gia Rai

670.141

13,10 Thái


40.556

0,80

Ê Đê

304.794

6,00 Ma

38.377

0,75

Ba Na

204.784

4,00 Mường

35.544

0,70

Cơ Ho

15.993

0,31 Dao


35.176

0,69

Nùng

15.362

0,30 Giẻ Triêng

31.784

0,62

2,22 Hoa

23.882

0,47

Xơ Đăng

113.522

Tày

14.798

0,29 Chu Ru


48.656

0,95

Mơ Nông

89.562

1,75 Dân tộc khác

64.491

1,26

Bảng: Dân số các Dân tộc ở Tây Nguyên năm 2009
Do người dân tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp hơn và bị hạn chế hơn về khả năng
tiếp cận nguồn vốn sản xuất nên những chênh lệch về các loại tài sản khác này cũng góp
phần gây nên và củng cố thêm những chênh lệch về thu nhập giữa các dân tộc.


- Sự khác biệt về điều kiện kinh tế – xã hội sẽ tạo ra những cơ hội phát triển khác
nhau. Những vùng nào có điểm xuất phát thấp, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội yếu kém
thường ít có cơ hội phát triển hơn. Vùng trung du & miền núi phía Bắc và Bắc Trung bộ
& Duyên hải miền Trung vẫn là vùng có điểm xuất phát thấp, kinh tế chậm phát triển nên
việc huy động nội lực để phát triển kinh tế – xã hội rất khó khăn. Đồng thời, kết cấu hạ
tầng kinh tế – xã hội của những vùng này vẫn còn yếu kém so với các vùng khác: đường
giao thông chủ yếu là đường bộ, nhưng còn thiếu nhiều và chưa bảo đảm chất lượng; các
công trình thủy lợi vừa thiếu nghiêm trọng, vừa xuống cấp; việc cung cấp nước sinh hoạt,
cấp điện, thông tin liên lạc cho vùng sâu, vùng núi cao còn nhiều khó khăn; hệ thống
bệnh viện và trạm y tế xã chưa đủ, thiếu điều kiện làm việc, chưa đáp ứng công tác chăm

sóc sức khỏe cho nhân dân; hệ thống trường học, dạy nghề cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu… Tích lũy nội bộ nền kinh tế thấp nhất cả nước, do đó hạn chế khả năng tham gia
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của vùng.
Trong khi đó, 2 vùng phát triển nhất là vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng lại
có một hệ thống đô thị và các cơ sở kinh tế tương đối mạnh, là địa bàn tập trung nhiều
ngành công nghiệp và có cơ cấu công nghiệp phát triển hơn. Các ngành dịch vụ phát triển
với nhịp độ ngày càng tăng và thu hút nhiều lao động, các ngành dịch vụ quan trọng như
vận tải, viễn thông, tài chính ngân hàng, thương mại đều đạt tốc độ tăng trưởng cao. Mô
hình kinh doanh các loại hình dịch vụ ngày càng được đổi mới theo hướng hiện đại, chất
lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao.
3.1.3.
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng.
Quá trình công nghiệp hoá kéo theo việc ứng dụng công nghệ mới và cách thức trong tổ
chức sản xuất. Chỉ những người lao động được đào tạo, có kỹ năng và có tay nghề mới
đáp ứng những công việc phức tạp. Hiện nay tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp và
chứng chỉ chính quy chưa nhiều, khoảng 18% năm 2013, (TCTK, 2013). Do có việc làm
mới, số người này có thu nhập cao hơn nhiều so với số động lao động giản đơn và vì thế
khoảng cách thu nhập đã tăng lên.
3.2. Chủ quan
3.2.1. Mô hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực ảnh
hưởng trực tiếp và lâu dài đến việc tạo lập công bằng xã hội
Nền kinh tế nước ta theo đuổi mô hình tăng trưởng “thị trường – hướng về xuất khẩu”, vì
vậy, gắn với mô hình đó là định hướng ưu tiên phân bổ nguồn lực cho các ngành và dự án
dùng nhiều vốn và ít tạo việc làm mới, cho các vùng có khả năng tăng trưởng cao và cho
các doanh nghiệp nhà nước. Định hướng đầu tư này tạo điều kiện cho một số khu vực có
điều kiện phát triển dựa theo định hướng chính sách của Nhà nước.


3.2.2. Trình độ người lao động gồm trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn kỹ thuật

Học vấn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực. Mặc
dù trình độ học vấn của người lao động đã được cải thiện đáng kể, nhưng lại có sự khác biệt
đáng kể giữa các vùng. Tỷ trọng những người chưa từng đi học trong lực lượng lao động cao
nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc, tiếp đến là Tây Nguyên. Đây cũng là những vùng
có tỷ trọng lao động tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên thấp nhất. Hai vùng có mức độ
phát triển cao nhất về kinh tế – xã hội là Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng cũng là nơi
thu hút mạnh số người có học vấn cao và tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên cũng
đạt mức cao nhất. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: tỷ trọng lực lượng đã qua đào tạo ở nước
ta vẫn còn thấp, trong đó tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thật cao nhất là ở
đồng bằng sông Hồng và thấp nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ trọng lực lượng lao
động có trình độ đại học trở lên cũng khác nhau đáng kể giữa các vùng. Vùng có tỷ trọng này
cao nhất là Đông Nam bộ, tiếp đến là đồng bằng sông Hồng.
Đặc biệt, vùng ÐBSH có nguồn nhân lực lớn, trình độ dân trí cao, tập trung đội ngũ trí
thức giỏi, nhân dân có truyền thống lao động cần cù và sáng tạo. Vùng đã tập trung
khoảng 26% số cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học, 72% số cán bộ có trình độ trên
đại học, khoảng 23,6% lực lượng lao động kỹ thuật của cả nước.


4. Giải pháp cho bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
4.1. Cơ hội
Bối cảnh toàn cầu hoá với sự tham gia đầy đủ và toàn diện của Việt Nam sẽ đem lại nhiều
cơ hội Việt Nam. Việt Nam sẽ tiếp cận được với thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả
các nước thành viên của WTO với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành
dịch vụ mà các nước mở cửa theo các nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị
phân biệt đối xử. Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện để mở rộng thị trường xuất khẩu và
trong tương lai, với ưu thế lớn mạnh của các doanh nghiệp và nền kinh tế của đất nước,
sẽ mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Xu thế gia tăng các liên kết
kinh tế cũng sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng hơn các quan hệ kinh tế, hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới qua đó có thể phát triển bền vững kinh tế và xã hội.
Việt Nam nằm trong khu vực châu Á Thái Bình Dương có sự phát triển năng động vào

bậc nhất thế giới, Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhanh
thông qua thương mại và đầu tư.
Sự thay đổi trong cơ cấu ngành kinh tế trên thế giới góp phần tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm
tăng tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và các ngành dịch vụ, tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người lao động. Cũng theo đó, người tiêu dùng của Việt Nam có
nhiều cơ hội lựa chọn về hàng hoá, dịch vụ với chất lượng tốt hơn và giá thành rẻ hơn
nhờ kết quả của việc ở rộng thị trường.
Những thành tựu về khoa học công nghệ trên thế giới góp phần làm tăng năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thông qua chuyển giao công
nghệ. Bên cạnh đó, do xu hướng chuyển dịch các cơ sở R & D từ các nước phát triển
sang các nước đang phát triển nên Việt Nam có nhiều cơ hội lựa chọn công nghệ mới.
Việc áp dụng các kỹ thuật công nghệ mới xuất hiện giúp tăng hàm lượng công nghệ trong
các sản phẩm của Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thế giới. Điều kiện các cơ
sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được biến đổi về chất, tạo nền tảng vững chắc cho
tăng trưởng kinh tế.
4.2. Thách thức
Trong thời gian tới, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng
thu nhập vẫn sẽ tiếp tục tồn tại ở Việt Nam xuất phát từ thực tế trên nhiều phương diện.
- Chất lượng giáo dục hạn chế là thách thức quan trọng để đảm bảo tăng trưởng bền
vững và công bằng trong thời gian tới. Chất lượng giáo dục thấp không chi kìm hãm sự phát
triển của quốc gia mà nó còn gây ra và duy trì sự bất bình đẳng. Hiện nay, những gia đình
khá giả có điều kiện để cho con cái họ có được một nền học vấn và những kỹ năng tốt bằng
việc cho con cái họ ra nước ngoài học tập, nhờ vậy sau này tìm được việc làm với mức lương
cao hơn. Trong khi đó, các gia đình nghèo hơn không thể cho con em mình đi du học hay học
ở những trường hàng đầu trong nước, do vậy mức độ sẵn sàng cho thị trường lao động kém
hơn và phải nhận mức lương thấp hơn. Như vậy, sự bất bình đẳng về cơ hội và yếu kém của
hệ thống giáo dục hiện nay có thể hình thành “cái bẫy bất bình đẳng” cho các thế hệ tương
lai. Cũng như ở nhiều nước khác, “cái bẫy bất bình đẳng” là một thách thức vì nó tồn tại dai
dẳng và khó phá vỡ. Ở Việt Nam, mặc dù giáo dục phổ thông được



mở rộng nên một bộ phận lớn dân cư đã chuyển từ mức thu nhập rất thấp lên mức thu
nhập trung bình thấp một cách khá nhanh chóng, tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng
giáo dục và tiếp cận giáo dục công bằng vẫn là những thách thức lớn đối với Việt Nam.
- Y tế công cộng vừa là một nhân tố cấu thành nên phúc lợi, đồng thời có ảnh hưởng
quan trọng đối với năng suất của lao động và an sinh của người dân. Hệ thống y tế ở tuyến xã
và huyện ở Việt Nam hiện nay nhìn chung rất kém khiến nhiều người không được tiếp cận
ngay cả với những chăm sóc y tế sơ đăng. Người dân ngày càng phải tự gánh chịu một tỷ lệ
chi phí y tế cao hơn. Thực tế cho thấy, nếu trong gia đình nghèo có một người ốm thì cả nhà
sẽ bị ảnh hưởng không chỉ vì bị mất một nguồn thu nhập mà còn phải trả viện phí, nhiều khi
rất cao so với thu nhập bình thường. Các hộ gia đình ở Việt Nam sẽ còn phải phụ thuộc nhiều
hơn vào ngân sách gia đình để trang trải chi phí y tế. Trong khi đó, hệ thống bảo hiểm xã hội
công cộng ở Việt Nam lại dường như ưu ái người giàu hơn người nghèo và hệ thống y tế có
chất lượng dịch vụ kém đầy những người không may mắn vào hoàn cảnh túng quẫn và buộc
con em họ không được tiếp tục đến trường. Như vậy, hệ thống y tế yếu kém cũng sẽ là thách
thức cho việc hạn chế gia tăng bất bình đẳng.
- Công nghiệp hóa và đô thị hóa trong thời gian tới tiếp tục là thách thức cho vấn đề bất
bình đẳng. Công nghiệp hóa và đô thị hóa là nhân tố tạo điều kiện cho nông dân chuyển từ
việc làm thu nhập thấp sang việc làm thu nhập cao hơn. Thực tế, một lực lượng lớn nông dân
đã từ bỏ thửa ruộng manh mún để chuyển sang khu vực phi nông nghiệp, ở các thành phố.
Nhưng quá trình đô thị hóa sẽ tiếp tục gây ra những thách thức cho đảm bảo cuộc sống và
công bằng xã hội. Ở thành phố nhà cửa khó khăn, giá cả đắt đỏ, đường xá tắc nghẽn sẽ làm
cho cuộc sống của nhiều người người di cư từ nông thôn trở nên vô cùng khó khăn và tạo ra
lực lượng nghèo mới ở thành phố và gia tăng bất bình đẳng ở khu vực thành thị. Hơn nữa,
những yếu kém trong công tác quản lý đất đai, đô thị hóa và tạo công ăn việc làm mới
ở khu vực đô thị đã và sẽ tiếp tục hạn chế quá trình di cư và đảm bảo công bằng cho mọi
người được tìm công bằng về cơ hội kinh tế.
- Vấn đề liên quan đến đất đai cũng là thách thức gắn với phân phối thu nhập công
bằng. Ở Việt Nam, trong khi nhiều người lao động không có lấy một tấc đất để sinh sống,

thì một số ít người khác lại sở hữu rất nhiều đất. Hiện tượng này bắt nguồn từ không chỉ
do mật độ dân cư quá cao ở thành thị mà còn do sự thâu tóm đất đai của một số “đại gia”
có mối quan hệ gần gũi với giới quan chức. Rõ ràng là làm một người nông dân không có
ruộng sẽ rất khó khăn, đặc biệt khi bị thất học và không có tay nghề. Vì vậy, phân phối
đất không đồng đều sẽ dẫn tới bất bình đẳng về phân phối thu nhập, nhất là khi giáo dục
và y tế cũng trong tình trạng thiếu thốn.
- Cuộc chiến chống đói nghèo trong thời gian tới sẽ trở nên khó khăn hơn do một bộ
phận lớn dân cư vẫn chưa được hưởng một mức sống “chấp nhận được” theo tiêu chuẩn
quốc tế. Điều này có nghĩa là một lượng lớn người dân Việt Nam vẫn đang ở cận ngưỡng
nghèo. Do vậy, những người này có thể rơi xuống dưới ngưỡng nghèo bất kỳ lúc nào khi
có sự biến động về kinh tế hoặc gặp phải các cú sốc như giá lương thực, thực phẩm tăng,
khi nhà có người ốm, khi tiền học phí tăng, hay khi tiền thuê nhà ở khu vực đô thị đột
nhiên tăng cao. Đói nghèo sẽ làm tăng chênh lệch về mức sống và điều kiện tiếp cận cơ
hội phát triển của dân cư và do đó làm tăng sự bất bình đẳng trong xã hội.


- Phát triển nền kinh tế theo định hướng thị trường gắn với xu thế toàn cầu hóa, tăng
trưởng ở Việt Nam sẽ là thách thức cho giảm bất bình đẳng thu nhập. Quá trình phát triển
kinh tế theo cơ chế thị trường không tránh khỏi tình trạng không đồng đều giữa các cá nhân,
khu vực và lĩnh vực. Điều đó dẫn đến sự thay đổi về tài sản của mỗi gia đình, sự phát triển và
suy thoái của các ngành, sự chuyển dịch về mặt địa lý của các hoạt động kinh tế, và sự di
chuyển của người dân và vốn vào các trung tâm tăng trưởng. Như vậy, vì tăng trưởng thường
không đồng, tăng trưởng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng thêm bất bình đẳng và đặt ra thách
thức cho Việt Nam là cần có sự can thiệp của chính phủ như thế nào để vừa giảm bớt sự
không đồng đều này, vừa đảm bảo duy trì tăng trưởng cao và bền vững.

4.3. Giải pháp
4.3.1.
Cải thiện chất lượng giáo dục.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục, phổ cập giáo giáo dục. Việt

Nam có thể coi là một quốc gia tương đối thành công trong việc phổ cập giáo dục khi tỷ lệ
trẻ em được đến trường bậc mẫu giáo là 93,3 % và bậc trung học cơ sở là 91,9% năm 2016.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp. Vì đội ngũ giáo viên có vai trò
quyết định trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Đây là vấn đề đang được xã hội
quan tâm khi hiện nay một số trường sư phạm có đầu vào tương đối thấp, điều này đặt ra
câu hỏi cho chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên tương lai. Chính vì thế cần phải
có các chính sách ưu tiên đặc biệt là về tiền lương để trở thành động lực cho giáo viên
đem lại chất lượng giảng dạy tốt nhất và còn là động lực để thu hút nhân tài vào các
trường sư phạm. Ngoài ra cần thêm các khóa bồi dưỡng kỹ năng giảng dạy cho giáo viên
sao cho phù hợp với sự thay đổi của thực tế.
- Tăng cường các nguồn lực đầu tư hợp lý cho giáo dục đào tạo. Để cải thiện được
chất lượng giáo dục quan trọng hơn hết là cần phải có nguồn lực tài chính để đáp ứng
việc nâng cấp cơ sở hạ tầng giáo dục cùng với nâng cao chất lượng giảng dạy. Việt Nam
trong năm 2015 có tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục xấp xỉ 20% tương đương 5% GDP,
đây là mức rất cao so với nhiều nước trên thế giới kể cả đối với các nước có trình độ phát
triển kinh tế cao hơn Việt Nam. Tuy nhiên do việc cơ cấu đầu tư chưa hợp lý nên dẫn đến
chất lượng chưa tương xứng với số tiền được đầu tư, chính vì thế ngoài việc thu hút đầu
tư giáo dục còn cần phải có cơ cấu đầu tư giáo dục hợp lý.

4.3.2.

Tăng hiệu quả quản lý hành chính.

Bất bình đẳng thu nhập có thể được khắc phục bằng sự can thiệp của Nhà nước, trong đó:
- Hoạt động can thiệp của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích chung toàn thể xã hội
và phải đưa ra các chính sách căn cứ vào diễn biến thực tế của thị trường, tránh đưa ra
các giải pháp chỉ mang tính chất lý thuyết để giúp cho nền kinh tế vận động hiệu quả hơn,
phân phối lợi ích công bằng hơn.



- Các chính sách Nhà nước đưa ra phải đáp ứng được tiêu chỉ phát triển bền vững
nền kinh tế, không vì lợi trước mắt mà đem ra chính sách vội vàng, thiếu hợp lý.
- Việc hoạch định và thực hiện chính sách cần phải đi đôi với công tác giám sát chặt
chẽ và hiệu quả.
Ngoài ra cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các chủ thể phân phối thì
mới đem lại hiệu quả trong việc giảm bất bình đẳng thu nhập.

4.3.3.

Cải thiện chất lượng dịch vụ công đặc biệt là dịch vụ y tế.

Việc cải thiện chất lượng dịch vụ công nhằm không chỉ làm giảm thời gian thực hiện dịch
vụ hành chính, tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả quản lý mà còn giúp cho khoảng cách
về thu nhập được thu hẹp, đặc biệt là đối với dịch vụ y tế:
- Tuyển chọn đội ngũ cán bộ, nhân viên chất lượng và có đạo đức nghề nghiệp.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ
công và đặc biệt là các cơ sở y tế nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động.
- Chính phủ tăng phân bổ ngân sách cho các dịch vụ công ở vùng sâu, vùng xa.
- Chính phủ điều chỉnh lại cơ chế phân bổ ngân sách cho bảo trợ xã hội và hệ thống
y tế nhằm giảm chi tự túc, các loại phí cho nhóm người có thu nhập thấp.
- Đầu tư cải tiến cơ sở vật chất thiết yếu nhằm đảm bảo chất lượng cho các dịch vụ
công được cung cấp.

4.3.4. Có các chính sách hỗ trợ chuyển dịch lao động từ khu vực nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ:
- Xây dựng chiến lược giáo dục đào tạo thống nhất trong cả nước với mục tiêu chất
lượng làm đầu.
- Tăng cường công tác tuyên truyền đến người lao động nông thôn, nông nghiệp
nhằm nâng cao nhận thức về học nghề, lựa chọn nghề phù hợp để có cơ hội tìm việc làm
hoặc tự tạo việc làm sau đào tạo..

- Đào tạo nghề gắn với tạo việc làm và định hướng nghề nghiệp. Các cơ sở dạy
nghề cần tích cực liên kết với các cơ sở sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp để tìm
hiểu nhu cầu lao động của họ, từ đó, định hướng nghề nghiệp cho người tham gia đào tạo.
- Ban hành các chính sách ưu tiên cho người lao động chuyển dịch từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ như : các chính sách hỗ trợ tài chính, chính sách hỗ trợ đào
tạo nghề,…
- Thực hiện an sinh xã hội và bảo vệ lợi ích cho người lao động khi chuyển dịch
sang lĩnh vực phi nông nghiệp.


KẾT LUẬN
Mặc dù tỉ lệ đói nghèo giữa các vùng trong cả nước có sự khác nhau lớn, nhưng mức độ bất
bình đẳng lại tương đối thấp. Có thể ước lượng một nước có sự biến động lớn về tỉ lệ đói
nghèo sẽ có tỉ lệ bất bình đẳng cao, song tỉ lệ bất bình đẳng ở Việt Nam vẫn tương đối thấp
so với tiêu chuẩn quốc tế. Nguyên nhân là do các vùng nghèo nhất thường lại thưa thớt dân
cư, do đó sẽ không có tác động lớn đến tỉ lệ bất bình đẳng của quốc gia. Phần lớn dân số
nông thôn ở Việt Nam tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng, khu
vực có tỉ lệ bất bình đẳng thấp. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là thực tế rằng phần lớn tỉ lệ
bất bình đẳng lại tập trung ở các huyện riêng rẽ. Sự biến động trong chi tiêu bình quân đầu
người giữa các vùng chỉ chiếm 1/3 tổng tỉ lệ bất bình đẳng trong cả nước. Sự bất bình đẳng
cao không chỉ tồn tại ở thành thị và các vùng sản xuất hàng hóa. Người ta thường cho rằng ở
Việt Nam (cũng giống như các nước đang phát triển khác), tỉ lệ bất bình đẳng tập trung chủ
yếu ở các vùng thành thị và các vùng nông thôn nổi bật với mô hình nông nghiệp thương mại
quy mô lớn. Cơ sở là, tỉ lệ bất bình đẳng thể hiện ở mức tăng trưởng kinh tế theo sản phẩm,
với một số hộ gia đình đã tận dụng tốt cơ chế thị trường và có thu nhập cao hơn nhiều so với
mức trung bình. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ bất bình đẳng cao hơn ở các
vùng thành thị, song chúng tôi cũng nhận thấy rằng tỉ lệ này cũng khá cao ở các vùng nông
thôn, thậm chí ở các vùng dân cư thưa thớt và thu nhập một phần từ các hoạt động nông
nghiệp. Sự khác biệt về tỉ lệ đói nghèo giữa các huyện chủ yếu là do sự chênh lệch về mức
chi tiêu bình quân đầu người trung bình, không phải do sự bất bình đẳng. 96% biến động về

tỉ lệ đói nghèo cấp huyện có thể được giải thích bằng sự chênh lệch trong mức chi tiêu bình
quân đầu người, với sự khác biệt về tỉ lệ bất bình đẳng chỉ chiếm dưới 3%. Nguyên nhân là
do tỉ lệ bất bình đẳng ở cấp tỉnh huyện tương đối thấp và ổn định. Tuy nhiên, chúng ta hoàn
toàn có thể giảm tỉ lệ đói nghèo cấp tỉnh bằng cách giảm tỉ lệ bất bình đẳng, song để phân
biệt rõ đâu là vùng có tỉ lệ đói nghèo cao và đâu là vùng có tỉ lệ đói nghèo thấp lại không
phải dễ dàng. Nếu chỉ tiêu từng vùng phản ánh sự thay đổi xảy ra trong suốt thời gian đó, khi
đó, tỉ lệ đói nghèo giảm phần lớn là do tăng trưởng kinh tế hơn là nhờ sự cải thiện về phân bổ
thu nhập. Kết quả này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các chính sách và các chương trình
thúc đẩy tăng trưởng thu nhập hộ gia đình như một chiến lược xóa đói giảm nghèo. Phần lớn
người nghèo sống ở các vùng không nghèo. Trong khi mật độ người nghèo thấp nhất ở
những vùng có tỉ lệ đói nghèo cao nhất (các vùng nông thôn miền núi), thì mật độ đói nghèo
lại cao nhất ở những vùng có tỉ lệ đói nghèo thấp (các đô thị và đồng bằng nông thôn). Số
người nghèo trong những vùng có tỷ lệ đói nghèo cao là tương đối thấp vì mật độ dân số ở
những vùng này cũng thấp. Ngược lại, hầu hết các hộ nghèo nông thôn tập trung ở Đồng
Bằng sông Hồng và Đồng Bằng sông Cửu Long. Mặc dù những vùng này có tỷ lệ đói nghèo
tương đối so với các vùng nông thôn khác, nhưng mật độ dân số cao nên hầu hết người
nghèo sống ở hai vùng này. Chính phủ cần có nhiều chính sách hơn nữa để khắc phục cũng
như cải thiện


vấn đề này. Trên đây là bài tiểu luận của nhóm chúng em về vấn đề bất bình đẳng thu
nhập tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp, bài làm còn thiếu sót, kính mong nhận được
sự góp ý từ cô!


TÀI LIỆU THAM KHẢO




×