CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG
1.1. Rủi ro tín dụng
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong kinh doanh Ngân hàng rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường
xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề có khi dẫn đến phá sản Ngân hàng. Để hiểu rõ rủi
ro tín dụng là gì, trước tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm tín dụng:
Tín dụng được định nghĩa rõ ràng là sự thể hiện cho mối quan hệ vay và cho
vay. Trong đó, người vay có thể là cá nhân hoặc tổ chức, còn người cho vay là ngân
hàng, hoặc tổ chức tài chính tín dụng nào đó. Sản phẩm vay có thể là hàng hóa hoặc
tiền. Tín dụng thể hiện mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng, với
các nhà doanh nghiệp và cá nhân (bên đi vay), trong đó các tổ chức tín dụng chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho tổ chức tín dụng
khi đến hạn thanh toán.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh do khách hàng vay không thực hiện đúng các
điều khoản của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả
nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra những
tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại.Giữa bối cảnh cạnh tranh và hội nhập như hiện nay, một trong những vấn đề đặt ra
cho sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng thương mại là khả năng quản trị rủi ro,
đặc biệt là rủi ro tín dụng một cách toàn diện và hệ thống..
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất
khó khăn, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào... Rủi ro tín dụng nếu không
được phát hiện và sử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác
1
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được chia thành rủi ro giao
dịch và rủi ro danh mục:
1.1.2.1. Rủi ro giao dịch
Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn
chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao
dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng,
khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho
vay.
Rủi ro bảo đảm: xuất phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm như: các điều khoản trong
hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và
mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
2
Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản trị hoạt động cho vay,
bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay
có vấn đề.
1.2.2.2. Rủi ro danh mục
Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn
chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 2 loại: rủi ro
nội tại và rủi ro tập trung.
Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt trong mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm
hoạt động hoặc đặc điểm đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối
với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành,
lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình
cho vay có rủi ro cao.
1.1.3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
1.1.3.1. Từ phía ngân hàng:
Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ
Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Cán bộ Ngân
hàng thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức kinh doanh như: thông đồng với
khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, xâm tiêu khi giải ngân hay thu nợ, đôi khi còn nể
nang trong quan hệ khách hàng. Bố trí cán bộ thiếu đạo đức vào làm công tác thẩm
định cho vay, dẫn đến tình trạng tiêu cực, mà phổ biến nhất là tình trạng cán bộ tín
dụng vay ké hay nhận hối lộ tiền của khách hàng rồi thẩm định sơ sài, nâng giá tài sản
3
thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để cho vay cao, không tuân thủ quy trình
tín dụng.
Thứ hai: Sự thiếu sát sao trong giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng
Việc thẩm định các điều kiện vay vốn trước khi cho vay là rất quan trọng để đi
đến quyết định tín dụng. Tuy nhiên vấn đề giám sát và quản lý khoản vay trong quá
trình giải ngân và sau khi cho vay cũng quan trọng không kém, vì hiện trạng của món
vay luôn thay đổi theo thời gian. Không làm tốt việc kiểm tra sau khi cho vay sẽ không
giúp ngân hàng phát hiện và chủ động giảm thiểu rủi ro tín dụng.Cán bộ tín dụng cần
có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự
kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi
ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp
tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề.
Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu
các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ
tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay
và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của
ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư
Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng
trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế
rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường,
khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên
gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu
nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất
nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh
4
nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một
ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng
Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù
đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù
đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần
bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức
giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính
đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn
làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.1.3.2. Từ phía khách hàng
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này
thành 2 loại chính:
Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ:
Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán
các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản
phẩm chất lượng thấp không bán được,... Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao
vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao mà không
tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả
năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai, do tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch của khách hàng:
Đối với khách hàng vay vốn tiêu dùng, tình trạng nợ nần bên ngoài nhiều nhưng
không khai báo hoặc khai báo nhưng che dấu bớt, không trung thực với ngân hàng khi
vay vốn là một nguy cơ rủi ro đối với ngân hàng. Nhìn chung, về mặt tài chính nếu
5
khách hàng không cung cấp số liệu một cách trung thực, cố tình che giấu thì sẽ rất khó
cho cán bộ ngân hàng trong khâu thẩm định. Thực tế thời gian qua đã cho thấy phần
nhiều trong số rủi ro tín dụng nói chung và tín dụng tiêu dùng nói riêng xuất phát từ
những khách hàng có tình hình tài chính yếu kém, không lành mạnh. Đây cũng là
nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa
cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Thứ ba, khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ
vay:
Một số khách hàng vay vốn ngân hàng dưới danh nghĩa tiêu dùng, nhưng khi
nhận vốn về lại sử dụng vào mục đích khác, nguy hiểm nhất là tham gia vào những
hoạt động kinh doanh mạo hiểm, chứa đựng rủi ro cao, kinh doanh những ngành nghề
mà pháp luật cấm, hay sử dụng vốn để trả nợ, cờ bạc, ăn chơi… Kết quả là thất thoát
vốn vay, đời sống người vay không được cải thiện, cộng với khách hàng không thiện
chí và khả năng trả nợ, dẫn đến rủi ro cho phía ngân hàng. Mặc dù trên thực tế đối
tượng KH này là không nhiều, nhưng những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên
quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác.
Thứ tư, rủi ro liên quan đến tài sản đóng băng nợ vay:
Phát sinh từ việc nhận thế chấp tài sản đang có tranh chấp hoặc tài sản đang bị
kê biên để thi hành án, do phía ngân hàng không nắm được thông tin, bảo hiểm tài sản
hết hạn nhưng không mua bổ sung kịp thời. Việc định giá tài sản đóng băng nợ vay cao
hơn giá trị thực tế của chúng, tình trạng tài sản đóng băng bị giảm giá trị trong thời hạn
vay vốn, dẫn đến không đảm bảo được khoản vay. Hay có trường hợp khách hàng lừa
đảo, sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyển sở hữu tài sản giả để thế chấp
vay vốn.
1.1.3.3. Nguyên nhân khác
6
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất
lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật,...
Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao
Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất
kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh
trên thị trường, sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay.
Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được
đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của
ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy
thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai, những biến động kinh tế không dự báo được
Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội
có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên sự
biến động của kinh tế như suy thoái kinh tế, biến động tỷ giá, lạm phát gia tăng ảnh
hưởng tới doanh nghiệp cũng như Ngân hàng thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất
lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất
nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn
vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật
Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng
không nhỏ tới ngân hàng cũng như tới các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân
hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi
trong quy định về thuế, vốn,... cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác
động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập,... Như vậy, các
7
chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp
về khả năng trả nợ cũng như đe dọa đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay.
1.1.4. Tác động rủi ro tín dụng
Rủi ro trong hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân
hàng cũng như nó tác động rất mạnh mẽ tới các hoạt động của nền kinh tế. Đó là các
tác động rất xấu đối với ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế, thể hiện ở các khía cạnh
sau:
1.1.4.1. Đối với ngân hàng
Rủi ro làm suy giảm uy tín của ngân hàng: Một ngân hàng có rủi ro lớn là một
ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, tình hình đó sẽ được báo chí nêu làm cho dân
chúng thiếu lòng tin và như vậy khó lòng có thể huy động được nguồn vốn dồi dào.
Các ngân hàng vì thế mà lánh xa, không cấp các hạn mức tín dụng, không mở quan hệ
đại lý…
Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút: Các khoản tín
dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi,
tiền tiết kiệm của của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, trong lúc không huy
động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền thấy tình trạng
của Ngân hàng như thế lại rút tiền càng tăng lên, kết quả là Ngân hàng gặp khó khăn
trong khâu thanh toán.
Rủi ro đưa đến kết quả là lợi nhuận suy giảm: Do rủi ro đưa đến nhiều mất mát
thiệt hại về tài chính, thêm vào đó là quá trình mở rộng hoạt động gặp khó khăn bế tắc,
thu nhập kết quả là giảm sút lợi nhuận.
Rủi ro có thể dẫn tới phá sản: Nếu những tác động của rủi ro trên 3 phương diện
nêu trên không được ngăn chặn và cứ phát triển đến một mức độ nào đó sẽ đẩy ngân
hàng đến chỗ phá sản.
1.1.4.2. Đối với khách hàng
8
Đối với bản thân chủ thể không có khả năng hoàn trả vốn (lãi) cho ngân hàng thì
họ gần như không có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng và thậm chí là cả những
nguồn khác trong nền kinh tế do đã mất đi uy tín.
Cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn chế hơn
khi rủi ro tín dụng buộc các NHTM hoặc thắt cho vay hay thậm chí phải thu hẹp quy
mô hoạt động.
Các chủ thể gửi tiền vào ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản tiền
gửi và lãi nếu như các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
1.1.4.3. Đối với nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và
cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Do đó, rủi ro
tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.
Ở mức độ thấp, rủi ro tín dụng khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu đến khả
năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến
phá sản, thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây
nên khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội
và sự phát triển của đất nước.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng được hiểu là quá trình nhận dạng, phân tích nhân tố rủi
ro, đo lường mức độ rủi ro, trên cơ sở đó lựa chọn triển khai các biện pháp và quản lý
các hoạt động tín dụng nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro trong quá trình cấp tín dụng.
9
Theo Uỷ ban Basel thì quản lý rủi ro tín dụng là việc thiết lập cơ chế nhận
biết, đo lường, quản lý và kiểm soát được các rủi ro hiện tại và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt
động tín dụng một cách đầy đủ, nhằm tối đa hoá lợi nhuận được điều chỉnh theo yếu tố
rủi ro bằng cách duy trì mức độ rủi ro tín dụng trong phạm vi chấp nhận được.
Quản lý rủi ro tín dụng là một trong những hoạt động chủ đạo của ngân hàng
thương mại. Quản lý rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt
động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
ngay cả trong những điều kiện thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng
gia tăng.
1.2.2. Quá trình quản lý rủi ro tín dụng
Quy trình quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại được thể hiện
tóm tắt qua sơ đồ như sau:
Nhận biết rủi ro tín dụng: Nhận diện rủi ro tín dụng là quá trình xác định liên tục
và có hệ thống. Bất kỳ khoản vay nào cũng có thể có vấn đề, việc sớm nhận biết vấn đề
và có những biện pháp theo dõi nhanh chóng, chuyên nghiệp giúp các vấn đề, tổn thất
có thể giảm đến mức thấp nhất. Những dấu hiệu cảnh báo sẽ giúp ngân hàng có thể
nhận biết và có giải pháp xử lý sớm các vấn đề một cách hiệu quả. Các dấu hiệu nhận
10
biết phổ biến thường tập trung vào dấu hiệu tài chính và dấu hiệu phi tài chính của
khách hàng vay.
Đo lường rủi ro tín dụng: Đo lường rủi ro tín dụng là việc lượng hóa mức độ các
rủi ro cũng như biết được xác suất xảy ra rủi ro, mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra để
xem xét khả năng chấp nhận nó của ngân hàng. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết
định cho vay cũng như xây dựng biện pháp ứng phó phù hợp, nhanh chóng với rủi ro
tín dụng khi tình trạng này xảy ra. Để đo lường rủi ro tín dụng các ngân hàng thường
xây dựng các mô hình thích hợp để lượng hóa các rủi ro (mô hình điểm số Z, mô hình
Var, mô hình RAROC, ...).
Quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng: Quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng là
khâu trọng tâm nhất trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của một NHTM, đây chính
trọng tâm của quy trình rủi ro tín dụng . Quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng là một hệ
thống những công cụ, chính sách, tiêu chuẩn và biện pháp nhằm ngăn ngừa và xử lý rủi
ro tín dụng trong một ngân hàng: chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, bộ máy quản
trị rủi ro tín dụng , các giới hạn tín dụng.
Xử lý rủi ro tín dụng: Xử lý rủi ro tín dụng là bước cuối cùng trong công tác
quản trị rủi ro tín dụng . Ở bước này, ngân hàng sẽ đưa ra các quyết định và biện pháp
để tài trợ, khắc phục và hạn chế thấp nhất chi phí rủi ro và tổn thất mà rủi ro tín dụng
đã gây ra cho ngân hàng.
Bốn bước trong quy trình rủi ro tín dụng có quan hệ chặt chẽ lẫn nhau và quyết
định rất lớn tới hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Trong bốn bước này, bước 1 và bước 3
được coi là bước quan trọng nhất, ngân hàng càng chủ động.
11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
TMCP Á CHÂU GIAI ĐOẠN 2015 - 2018
2.1. Tổng quan về ngân hàng TMCP Á Châu
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
- Ngày thành lập: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành
lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày
24/4/1993, và Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cấp
ngày 13/5/1993. Ngày 04/6/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động
- Thời điểm niêm yết: ACB niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(trước đây là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội) theo Quyết định số 21/QĐTTGDHN ngày 31/10/2006. Cổ phiếu ACB bắt đầu giao dịch vào ngày 21/11/2006.
- Quá trình phát triển trong giai đoạn 2015 – 2018
+ Năm 2015, ACB hoàn thành các dự án chiến lược như (i) tái cấu trúc kênh
phân phối, (ii) hình thành trung tâm thanh toán nội địa (giai đoạn 1), (iii) hoàn thiện
phương thức đánh giá hiệu quả hoạt động đơn vị và nhân viên Hội sở; đồng thời cho
khởi tạo và triển khai các dự án ngân hàng giao dịch (transaction banking), ngân hàng
ưu tiên (priority banking), quản lý bán hàng (customer management system),… nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh.
+ Năm 2016, ACB đã hoàn thành theo tiến độ nhiều hạng mục của các dự án
công nghệ hỗ trợ hoạt động kinh doanh, vận hành và quản lý hệ thống, tiêu biểu như
chuyển đổi hệ thống core chứng khoán ACBS; cải thiện các chương trình CLMS,
CRM, ACMS, ELM, PASS để hỗ trợ việc tinh gọn quy trình nghiệp vụ; nâng cấp hệ
thống các máy ATM, website ACB, gia tăng tiện tích, dịch vụ thanh toán cho khách
hàng,…
+ Năm 2017, ACB tiếp tục hoàn thiện các quy trình, chính sách và các hạn mức
quản lý rủi ro nhằm phù hợp với quy định hiện hành của NHNN. Đạt kết quả khả quan
12
về hoạt động vận hành và chất lượng dịch vụ khách hàng. Tăng 20% hiệu suất nhân
viên. Giảm 50% lỗi nghiệp vụ. Mức độ hài long của khách hàng tăng đều qua các năm
và được đánh giá thuộc nhóm các ngân hàng dẫn đầu về chất lượng dịch vụ trên thị
trường.
+ Năm 2018, ACB tăng trưởng bền vững mảng khách hàng các nhân và doanh
nghiệp vừa và nhỏ, kiểm soát tốt chất lượng tín dụng, và vận hành an toàn. Tín dụng
hai mảng trên tăng trưởng vượt kỳ vọng và có kiểm soát theo đúng định hướng của
ALCO. Huy động tiền gửi thanh toán cải thiện, nâng CASA từ 15.8% lên mức 16.7%.
Hoạt động kinh doanh thẻ cải thiện tích cực so với năm 2017. Phát hành thành công
4,400 tỷ đồng trái phiếu AAA kỳ hạn 3 năm và 10 năm. Xử lý, thu hồi nợ có hiệu quả,
do đó thu nhập từ xử lý nợ đạt gần 4 lần năm 2017
Hình 2.1. Cơ cấu cổ đông của ACB
2.1.2.Đánh giá kết quả hoạt động
2.1.2.1.Đánh giá kết quả kinh doanh
Hình 2.2. Thu nhập lãi, chi phí lãi
và tăng trưởng
Hình 2.3. Thu nhập ngoài lãi và tăng
trưởng
Hình 2.4. Thu nhập hoạt động, chi phí hoạt
động và tăng trưởng
Hình 2.5. LN trước dự phòng RRTD, chi
phí
dự phòng RRTD, LNST và tăng trưởng LNST
Cho vay luôn là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng truyền
thống hiện nay(năm 2015: 94.59%; năm 2016: 91.13%; năm 2017: 73.94%; năm 2018:
13
73.85%), trong giai đoạn 2015 – 2018, tăng trưởng doanh thu từ lãi trung bình khoảng
14.28%/năm. Nhưng với xu thế hiện nay thì các ngân hàng cũng đẩy mạnh các mảng
thu nhập ngoài lãi với tốc độ tăng trưởng CARG trong giai đoạn 2015 – 2018 lên đến
81.70%.
Điểm đáng chú ý nhất trong kết quả kinh doanh của ACB trong giai đoạn 2015 –
2018 là trong năm 2018, lợi nhuận thuần trước dự phòng RRTD tăng mạnh từ 5,221 tỷ
đồng lên 7,321 tỷ đồng nhưng chi phí dự phòng RRTD lại giảm rất mạnh từ 2,565 tỷ
đồng xuống còn 932,411 tỷ đồng. ĐIều này cho thấy ACB hiện đang là một trong
những ngân hàng có hệ thống quản lý rủi ro tốt bậc nhất Việt Nam.
2.1.2.2. Đánh giá chất lượng tài sản
Hình 2.6. Tiền gửi khách hàng, tiền gửi
không kỳ hạn và tỷ lệ CASA
Hình 2.7. Cho vay khách hàng và tăng
trưởng tín dụng
Hình 2.8. Tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu
Hình 2.9. Tỷ lệ dự phòng nợ xấu
Huy động tiền gửi khách hàng trong giai đoạn 2015 – 2018 tăng trưởng trung
bình khoảng 11.5%/năm. Tỷ lệ CASA là một tiêu chí quan trọng quyết định chi phí huy
động của một ngân hàng, tính đến cuối năm 2018 thì tỷ lệ CASA của ACB vào khoảng
16.7% ở mức trung bình so với cùng ngành.
Hình 2.10. Tỷ lệ CASA của một số ngân hàng năm 2018
Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của ACB trong giai đoạn 2015 – 2018 tăng trưởng
với tốc độ trung bình khoảng 14.25%. Trong đó, tỷ lệ nợ quá hạn giảm mạnh từ 3.04%
năm 2015 xuống còn 0.89% trong năm 2018 và tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1.31% trong năm
14
2015 xuống 0.7% trong năm 2017 nhưng tăng nhẹ lên 0.73% trong năm 2018. Một
điểm đáng chú ý trong chất lượng tài sản của ACB là tỷ lệ dự phòng nợ xấu năm 2018
ở mức 152% cho ngân hàng đang rất thận trong trong các khoản nợ xấu.
Hình 2.11. Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng năm 2018.
2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ACB giai đoạn 2015 – 2018
2.2.1. Cơ cấu tín dụng của ACB
Hình 2.12. Cơ cấu tín dụng của ACB
Danh mục cho vay của ACB chủ yếu gồm 2 nhóm lớn: cá nhân và công ty cổ
phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Trong đó, cho vay cá nhân
đang chiếm tỷ trọng lớn nhất.
- Cho vay cá nhân: chiếm 57.71% trong giá trị dư nợ năm 2018 và là phân
khúc chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của ACB.
- Cho vay công ty cổ phần công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân: do bản
chất là ngân hàng ngoài quốc doanh nên tỷ lệ cho vay doanh nghiệp tư nhân đóng góp
một phần lớn trong cơ cấu tín dụng của ACB. Tính đến hết năm 2018, thì tỷ lệ cho vay
doanh nghiệp tư nhân ở mức 41.03% chủ yếu nằm ở mảng thương mại và sản xuất, gia
công chế biến.
2.2.2. Các công cụ tín dụng đã triển khai
Hiện nay, ACB đang triển khai các công cụ tín dụng như cho vay thông thường,
cho vay chiết khấu công cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá; cho thuê tài chính;
các khoản trả thay khách hàng; cho vay bằng vốn tài trọ, ủy thác đầu tư và cho vay giao
dịch ký quỹ.
15
Trong số các công cụ tín dụng thì các khoản cho vay thông thường vẫn chiếm tỷ
lệ lớn nhất với trên 99%, tiếp theo đó là các khoản cho vay giao dịch ký quỹ ở công ty
chứng khoán ACBS.
Hình 2.13. Tỷ lệ các công cụ tín dụng năm 2018
2.2.3. Những kết quả đạt được trong hoạt động quản trị rủi ro tại ACB
2.2.3.1. Về công tác nhận diện rủi ro tín dụng
Hội đồng quản trị và Ban điều hành ACB đã ban hành nhiều quy trình, quy định
về cấp tín dụng đối với từng đối tượng khách hàng, trong đó bao gồm những quy định,
hướng dẫn thẩm định khách hàng. Quy trình thẩm định tại ACB gồm 6 bước:
-
Bước 1: Thẩm định khách hàng vay vốn
Bước 2: Xếp hạng tín dụng khách hàng
Bước 3: Thẩm định phương án đề nghị cấp hạn mức tín dụng của khách hàng
Bước 4: Thẩm định phương án kinh doanh, phương án vay vốn của khách
-
hàng
Bước 5: Thẩm định tài sản đảm bảo
Bước 6: Lập tờ trình thẩm định
Quy trình thẩm định này góp phần hỗ trợ cán bộ tín dụng trong công tác tiếp
cận, thẩm định khách hàng và nhận diện rủi ro tín dụng, giúp các vấn đề, tổn thất có thể
được giảm thiểu đến mức thấp nhất.
2.2.3.2. Về công tác đo lường rủi ro tín dụng
Sau nhiều năm nghiên cứu, triển khai thử nghiệm, năm 2009, ACB đã chính
thức triển khai hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ trên toàn hệ thống để hỗ
trợ cho công tác đo lường và lượng hóa rủi ro tín dụng.
Quy trình chấm điểm tín dụng gồm 6 bước:
-
Bước 1: Xác định ngành nghề kinh doanh
Bước 2: Xác định quy mô doanh nghiệp (ACB quan tâm đến các chỉ tiêu như:
vốn chủ sở hữu, số lượng lao động bình quân, doanh thu thuần, tổng tài sản)
16
-
Bước 3: Xác định loại hình sở hữu doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn đầu tư
-
nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân)
Bước 4: Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính (bao gồm các nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ
tiêu thanh khoản, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu cân nợ và nhóm chỉ
-
tiêu thu nhập)
Bước 5: Chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính (bao gồm các nhóm chỉ tiêu: khả
năng trả nợ của doanh nghiệp, trình độ quản lý và môi trường nội bộ, quan hệ
với ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng đến ngành, các nhân tố ảnh hưởng đến
-
hoạt động của doanh nghiệp)
Bước 6: Tổng hợp điểm và xếp hạng tín dụng
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của ACB đã đáp ứng các điều kiện về xây
dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân hàng nhà nước. Đây là một bước đi
mới, nhằm tiếp cận từng bước với việc đo lường và tính toán rủi ro theo Hiệp ước
Basel I.
2.2.3.3. Về công tác quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng
Nhìn chung, quy trình cấp tín dụng của ACB cho đến nay đã được thể chế hóa
tương đối đầy đủ, chặt chẽ, đồng bộ, phù hợp với thực trạng khách hàng cũng như cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế.
Hệ thống quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng của ACB gồm có Ban tín dụng và
Hội đồng tín dụng. Để thực hiện xét duyệt và quyết định cấp các khoản tín dụng, ACB
tổ chức thành 3 cấp: Ban tín dụng tại các chi nhánh, Ban tín dụng Hội sở và cấp cao
nhất là Hội đồng tín dụng. Hội đồng tín dụng gồm 13 thành viên, trong đó có 3 thành
viên Hội đồng quản trị và 10 thành viên ban điều hành.
Ban tín dụng tại các chi nhánh sẽ xem xét cấp tín dụng theo một hạn mức phán
quyết do Hội đồng tín dụng ấn định, tuỳ thuộc vào quy mô và năng lực của từng chi
nhánh. Hồ sơ tín dụng với mức cho vay và bảo lãnh vượt hạn mức phán quyết chi
nhánh được trình cho Ban tín dụng Hội sở; trong trường hợp vẫn vượt hạn mức phán
quyết của Ban tín dụng Hội sở thì hồ sơ sẽ được trình lên Hội đồng tín dụng. Quyết
17
định cấp tín dụng được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí 100% của các thành viên xét
duyệt.
Mô hình quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng của ACB đã gần tiệm cận với mô
hình hoạt động ngân hàng chuẩn mực, phù hợp thông lệ quốc tế, tạo dựng một khung
quản lý rủi ro vững chắc, cân bằng giữa lợi nhuận dự kiến và rủi ro có thể chấp nhận
được.
2.2.3.4. Về công tác dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng
ACB đã ban hành đầy đủ các quy định về trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín
dụng trên cơ sở các quy định của Ngân hàng nhà nước. Ngoài ra, mỗi quý một lần, các
chi nhánh của ACB đều thực hiện phân loại nợ và tính toán số tiền phải trích lập dự
phòng rủi ro
2.2.4. Tồn tại trong hoạt động quản trị rủi ro tại ACB
2.2.4.1. Về công tác nhận diện rủi ro tín dụng
Công tác thu thập thông tin để thẩm định khách hàng vẫn tồn tại những hạn chế.
Hệ thống thông tin sử dụng cho việc đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp chưa
đầy đủ, một số thông tin không chính xác, thậm chí có trường hợp doanh nghiệp sửa
chữa các số liệu trên các báo cáo tài chính để được cấp tín dụng.
2.2.4.2. Về công tác đo lường rủi ro tín dụng
Hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ của ACB đối với khách hàng cá
nhân chưa thực sự hoàn thiện. Mỗi khách hàng cá nhân có thể có quan hệ tín dụng
cùng lúc với nhiều ngân hàng, tuy nhiên hệ thống chấm điểm xếp hạng nội bộ của ACB
mới chỉ dựa trên thông tin tín dụng của khách hàng với ngân hàng mình mà chưa dựa
trên tổng hợp các nguồn thông tin từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Việc
này có thể dẫn tới những sai sót trong việc xác định rủi ro tín dụng của khách hàng.
2.2.4.3. Về công tác quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng
18
Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín
dụng, công tác thanh tra kiểm soát và công bố thông tin của ACB chưa thực sự hợp lý
dẫn đến chồng chéo, không phân định rõ ràng trách nhiệm.
2.2.4.4. Về công tác dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng
Hiện nay, như hầu hết các Ngân hàng thương mại khác trong hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt Nam, ACB vẫn đang thực hiện phân loại nợ theo Điều 06 –
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Theo đó, các khoản tín dụng được phân loại phụ
thuộc vào số ngày quá hạn nợ thực tế của từng khoản nợ riêng lẻ, thiếu sự đánh giá kết
hợp của yếu tố khác như tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, dẫn đến việc phản ánh chưa chính xác bản chất của khoản nợ.
2.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại ACB
2.3.1. Nhóm nguyên nhân chủ quan
2.3.1.1. Từ phía khách hàng vay
Sử dụng vốn sai mục đích: KH dùng vốn vay kinh doanh thông thường để
đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán, dùng vốn vay ngắn hạn để đầu tư trung dài
hạn. Trường hợp này thường xảy ra đối với những khoản vay có đặc điểm: Cho vay
theo hình thức hạn mức tín dụng nhưng không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn
của KH (không kiểm soát sau cho vay); Số tiền vay quá lớn so với nhu cầu vốn lưu
động thực sự của KH; KH có nhiều chi nhánh hoặc nhà xưởng ở xa địa bàn của chi
nhánh cho vay; Cho vay đầu tư dự án không phù hợp với khả năng của khách hàng,
dẫn tới việc KH sử dụng nguồn ngắn hạn trả nợ vay trung dài hạn; KH vay tại nhiều
tổ chức tín dụng dẫn đến cạnh tranh quá mức và không kiểm soát được dòng tiền của
người vay; Thời hạn cho vay (nhất là cho vay vốn lưu động) dài hơn mức cần thiết so
với chu kỳ dòng tiền của KH dẫn đến KH sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi khi chưa đến
hạn trả nợ NH.
KH không có thiện chí trả nợ vay, cố tình lừa đảo NH: Thiện chí trả nợ vay
của KH là yếu tố liên quan đến tư cách đạo đức của người đi vay, một khi KH không
19
có thiện chí trả nợ thì NH rất khó đòi nợ. KH có chủ đích lừa đảo NH thường xảy ra
đối với doanh nghiệp thành lập nhiều công ty trong cùng một nhóm dẫn đến tiền vay
luân chuyển trong nội bộ các công ty.
Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền NH để mở
rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít
doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát
kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
khi thiếu thông tin thị trường và các đối tác, bạn hàng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến kế
hoạch kinh doanh của KH vay, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay cho ACB.
Hơn nữa, đa số các KH của ACB là các hộ sản xuất kinh doanh theo hình thức gia
đình, việc quản lý kinh doanh chưa thực sự được chú trọng, khi phát sinh các vấn đề
nằm ngoài tầm kiểm soát thường được xử lý một cách không rõ ràng chủ yếu dựa vào
mối quan hệ quen biết mà điều này thường dễ dấn đến rủi ro khi mối quan hệ có
chiều hướng xấu.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài
sản, nguồn vốn nhỏ, đòn bẩy cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp
Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán
vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ
sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho NH nhiều khi chỉ mang tính chất
hình thức. Khi cán bộ NH lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên
số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây
cũng là nguyên nhân vì sao NH vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ
dựa cuối cùng để phòng chống RRTD.
2.3.1.2. Từ phía ngân hàng cho vay
Các nguyên nhân dẫn đến RRTD tại ACB thời gian qua là do Chính sách, quy
trình cho vay chưa chặt chẽ, công tác quản trị tín dụng chưa hữu hiệu, chưa chú trọng
phân tích KH, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện cho vay và khả năng trả nợ. Bên
cạnh đó, việc không chấp hành tốt các nguyên tắc tín dụng, công tác giám sát việc
20
thực hiện đúng quy trình cho vay chưa được chú trọng đúng mức cũng làm gia tăng
RRTD. Cụ thể như sau:
Chính sách tín dụng: Thời gian qua, chính sách tín dụng của ACB thay đổi
liên tục, một phần cũng do sự thay đổi chính sách chung của Chính phủ và NHNN,
một phần cũng do hạn chế về mặt kiến thức của nhân viên hướng dẫn nghiệp vụ. Một
số hướng dẫn chưa thực sự chặt chẽ, chưa cụ thể, gây khó khăn trong công tác thực
hiện. Bên cạnh đó, các hướng dẫn của các Khối, Phòng ban đôi khi mâu thuẫn nhau,
lúc phát sinh thì lại không biết thực hiện theo hướng dẫn của Khối nào cho đúng.
Trong khi đó, đa số các công văn ban hành lại không ghi cụ thể tên và s ố điện thoại
của nhân viên giải đáp thắc mắc, phụ trách chính.
Chưa tuân thủ quy trình cho vay: Quy trình tín dụng được ban hành, hướng
dẫn cụ thể, chi tiết các bước thực hiện, nhiệm vụ của từng nhân viên,…Tuy nhiên,
việc giám sát thực hiện đúng quy trình tín dụng được đề ra thực sự chưa được chú
trọng lắm. Nguyên nhân của vấn đề này một phần cũng do một số đơn vị chưa chuyển
đổi mô hình mới, các chức danh thường được kiêm nhiệm nên khó phân định rạch ròi
công việc và trách nhiệm của nhân viên; một phần cũng do hạn chế của hệ thống
CNTT, cụ thể là chương trình CLMS và TCBS chưa đáp ứng được nhu cầu theo dõi
thường xuyên diễn biến của quá trình cấp tín dụng. Thêm vào đó, nhiều khoản tín
dụng được cấp khá vội vàng, chạy theo yêu cầu của KH mà thiếu đi sự phân tích,
thẩm định tín dụng. Việc cấp tín dụng mang tính cảm tính, nặng về tài sản đảm bảo
mà không dựa vào quá trình thu thập thông tin, phân tích và xử lý thiếu thận trọng.
Quá trình giám sát sau cho vay còn tiến hành lỏng lẻo, qua loa, chiếu lệ. Nhiều chi
nhánh tiến hành đầu tư tín dụng ra ngoài địa bàn hoạt động nên việc kiểm tra tình
hình kinh doanh, năng lực tài chính, tính trung thực trong việc sử dụng vốn vay, kiểm
soát dòng tiền của KH không đảm bảo.
Hoạt động kiểm tra nội bộ còn yếu: Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh
tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề
và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên
song song với công việc kinh doanh. Trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra
21
nội bộ của ACB hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Nhận thức được tầm quan trọng
của công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, hiện nay tại ACB, tuy có chú trọng hơn,
nhưng bộ máy tổ chức chưa thực sự hoàn chỉnh, trình độ nghiệp vụ của nhân viên
chưa đáp ứng được nhu cầu, và cũng một phần do thiếu tính độc lập trong công tác
kiểm tra nội bộ.
Thiếu giám sát và quản lý sau cho vay: Đây cũng là đặc điểm chung của các
NH trong nước, thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định
trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay.
Khi NH cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm
bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất
của cán bộ tín dụng nói riêng và c ủa NH nói chung. Việc theo dõi hoạt động của KH
vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa KH và NH
nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên
trong thời gian qua ACB chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu
tố tâm lý ngại gây phiền hà cho KH của cán bộ tín dụng, một phần do hệ thống thông
tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp
được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà ACB yêu cầu. Tuy tại ACB có một số hệ thống
theo dõi như TCBS, CLMS nhưng chưa hoàn chỉnh nên cũng chưa áp dụng được.
Bên cạnh đó, Bộ phận quản lý nợ tập trung mới thành lập, chưa hoàn chỉnh nên hoạt
động cũng chưa thực sự hiệu quả.
Đạo đức nghề nghiệp của một số nhân viên ngân hàng chưa được xem
trọng: Ngoài việc đòi hỏi trình độ chuyên môn phải cao, đạo đức nghề nghiệp của
nhân viên ngân hàng cũng cần phải được xem trọng. Nhưng thực tế vì lợi ích cá nhân,
một số nhân viên ngân hàng đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, cố ý làm trái quy định.
Chẳng hạn, cán bộ tín dụng đã:
+ Định giá tài sản đảm bảo quá cao so với giá trị thực của tài sản trên thị trường
nhằm mục đích là rút tiền vay nhiều;
+ Thực hiện giải ngân nhiều lần trong ngày để đảo nợ cho các khoản vay đến
hạn (áp dụng đối với cho vay theo phương thức hạn mức);
22
+ Thông đồng với khách hàng làm giả mạo chứng từ chứng minh mục đích sử
dụng vốn...
Như vậy, những vi phạm này là nguyên nhân làm cho ngân hàng gặp nhiều rủi
ro trong quá trình thu hồi nợ vay, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng.
2.3.2. Nhóm nguyên nhân khách quan
2.3.2.1. Môi trường kinh tế không ổn định
Hệ quả tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế: Quá
trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra
một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những KH
thường xuyên của NH phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc
nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, với tốc độ tăng trưởng không ngừng của ngành
NH Việt Nam được đánh giá là khá tiềm năng dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt giữa các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập quốc tế cũng
khiến cho các NH trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro
nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các KH có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các NH nước ngoài
thu hút.
Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với mức giá rất cạnh tranh hàng nhập lậu
làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các NH
đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men,
đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,…là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng
lậu ở nước ta.
Thiếu quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý: Cạnh tranh ở nước ta thời
gian qua dẫn đến các ngành nghề phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm
với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự
bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của NH. Điều
này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng
thừa làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hóa trên thị trường và từ đó làm ảnh
hưởng đến hiệu quả của các phương án đầu tư.
23
2.3.2.2. Môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật: Trong những năm gần đây, Quốc
hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban
hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động
tín dụng NH. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có nhưng việc triển khai vào hoạt
động NH thì lại chậm và gặp phải nhiều vướng mắc bất cập. Ví dụ quy định về thủ
tục xử lý tài sản đảm bảo có rất nhiều bất cập: Thủ tục đem tài sản bán đấu giá quá
nhiều nhiêu khê, thời gian khởi kiện kéo dài hàng năm trời, trong khi việc thi hành án
lại không quy định thời hạn cụ thể... đã gây khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo
để thu hồi vốn tại các ngân hàng.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên
cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra NH và đảm bảo an toàn
hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám
sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ
mới Thanh tra NH còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát
lạc hậu, chậm được đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông
tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ
yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh
tra NH còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có
khả năng ngăn chặn và phòng ng ừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra
NH còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được
thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng
nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng
ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ
thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và
xử lý sớm hơn.
Bất cập trong hệ thống thông tin quản lý: Đây là thách thức lớn không những
cho ACB mà còn cho cả hệ thống NH Việt Nam. Việc mở rộng tín dụng và kiểm soát
tốt tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng
24
là điều hết sức khó khăn. Nếu các NH cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng
trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu
cho hệ thống NH. Những hạn chế có thể liệt kê như:
+ Trung tâm thông tin tín dụng NH (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một
thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc
cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là
cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông
tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật.
+ Thông tin cung cấp là chưa đầy đủ, hoàn chỉnh đa số là định lượng chứ chưa
nêu những nhận xét khách quan về thông tin của người vay như tư cách KH,
hay những nguyên nhân của những khoản tín dụng xấu do mối liên kết rất lỏng
lẻo giữa các TCTD và chưa có biện pháp chế tài cho các TCTD khi không
cung cấp hoặc không cung cấp đầy đủ thông tin.
Tóm lại: ACB là một trong những NH hàng đầu trong khối NH TMCP, tình
hình kiểm soát tín dụng thời gian qua khá tốt, và đang chuyển đổi mô hình theo
chuẩn quốc tế. Tuy nhiên hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn những rủi ro đối với bất
kể NH nào và ACB cũng không ngoại lệ.
25