Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiểu luận toàn cầu hóa kinh tế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ hiệp định sps wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.77 KB, 15 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC TRANH CHẤP TRONG KHUÔN KHỔ
HIỆP ĐỊNH SPS/WTO
1.1. Hiệp định Áp dụng các biện pháp vệ sinh và Kiểm dịch động thực vật (SPS)
1.1.1. Định nghĩa
Trong WTO, biện pháp kiểm dịch động thực vật (Sanitary and Phytosanitary
Measure – sau đây viết tắt là biện pháp SPS) được hiểu là tất cả các quy định, điều
kiện, yêu cầu bắt buộc có tác động đến thương mại quốc tế nhằm bảo vệ tính mạng,
sức khoẻ của con người, vật nuôi, động thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực
phẩm và/hoặc ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực
vật.
1.1.2. Hình thức
Hình thức của các biện pháp SPS có thể rất đa dạng (ví dụ, đó có thể là yêu cầu
về chất lượng, về bao bì, về quy trình đóng gói, phương tiện và cách thức vận chuyển
động thực vật, kiểm dịch, phương pháp lấy mẫu, thống kê…).
1.1.3. Mục đích
Để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ con người, vật nuôi và động, thực vật, mỗi nước
thành viên WTO đều ban hành một hệ thống các biện pháp SPS tại lãnh thổ nước
mình.
Việc thông qua Hiệp định về các Biện pháp kiểm dịch động thực vật của WTO
(Hiệp định SPS) là nhằm tạo khung khổ pháp lý chung cho vấn đề này, để tránh việc
biện pháp này đã bị lạm dụng, gây ra cản trở bất hợp lý cho thương mại quốc tế (ví dụ
đặt điều kiện, tiêu chuẩn quá cao khiến hàng hoá nước ngoài khó có thể thâm nhập thị
trường nội địa)


Trong Hiệp định SPS có hai điều khoản phức tạp và hầu như tất cả các vụ tranh
chấp đều viện dẫn cáo buộc vi phạm là:
• Điều 2 về quyền và nghĩa vụ cơ bản
• Điều 5 về đánh giá rủi ro và xác định mức độ bảo vệ động thực vật phù hợp
Cụ thể về nội dung các điều khoản này sẽ được chỉ rõ hơn ở chương 2.
1.2. Tình hình giải quyết tranh chấp tại WTO về Hiệp định SPS


1.2.1. Số lượng vụ việc
Tính từ thời điểm Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO chính thức thực thi vào
ngày
01/01/1995 đến ngày /2019, đã xảy ra tổng cộng 49 vụ tranh chấp liên quan đến SPS.


Bảng 1.1: Số lượng các vụ tranh chấp về SPS tại WTO giai đoạn 1995 - 2019.
Tranh chấp

Tranh chấp tại

Năm

Tỉ lệ (%)

Mã vụ SPS
DS3, DS5, DS18, D20, D21
DS26, DS41, DS48
DS76, DS96, DS100
DS133, DS134, DS135,

1995
1996
1997

SPS
5
3
3


WTO
25
39
50

20,00
7,69
6,00

1998

5

41

12,20
DS137, DS144

1999
2000
2001

0
2
1

30
34
23


0,00
5,88
4,35

2002

5

37

13,51

DS203, DS205
DS237
DS245, DS256, DS270,
DS271, DS279
DS28, DS287, DS291,

2003

6

26

23,08
DS292, DS293, DS297

2004
2005
2006

2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019

0
0
0
1
2
3
1
0
3
0
2
1
1
3
1
1


19
11
21
13
19
14
17
8
27
20
14
13
17
17
39
18

0,00
0,00
0,00
7,69 DS367
10,53 DS384, DS386
21,43 DS389, DS391, DS392
5,88 DS406
0,00
11,11 DS430, DS447, DS448
0,00
14,29 DS475, DS484
7,69 DS495

5,88 DS506
17,65 DS524, DS525, DS532
2,56 DS540
5,56 DS589
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ wto.org

Bảng 1.1 cho thấy, trong giai đoạn từ năm 1995-2003 đã diễn ra 30 vụ tranh
chấp liên quan đến SPS và số lượng các vụ này biến động theo từng năm. Ngay từ


năm 1995, các tranh chấp liên quan tới SPS nhận được sự quan tâm rất lớn khi đã có 5
vụ tranh chấp được đưa ra chiếm 20% tổng số tranh chấp tại WTO. Lí giải cho vấn đề
này là do SPS điều chỉnh những mặt hàng nông nghiệp thuộc thế mạnh xuất khẩu của
các Thành viên như thịt, cá hồi, nên họ phải lên tiếng bảo vệ ngành hàng của mình.
Đồng thời, Các thành viên khác cũng ra sức kiểm soát chặt chẽ do đây là những mặt
hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng và động thực vật trong nước.
Tuy nhiên sang năm 1996, con số này giảm xuống chỉ còn 3 vụ, trong khi đó tổng số
lượng tranh chấp tại WTO lại tăng lên đáng kể, do đó tỷ trọng tranh chấp SPS giảm
xuống chỉ còn 7,69 % trên tổng số. Đến năm 2003, sau khi Cơ quan phúc thẩm được
thành lập, các thành viên đặc biệt là các Thành viên đang phát triển đã mạnh dạn tham
gia giải quyết tranh chấp về SPS. Bên cạnh đó là sức ép từ xu thế tự do hóa thương
mại, các Thành viên WTO đã dựng nên vô số các rào cản phi thuế quan và việc dựa
vào các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh ngày càng trở nên phổ biến, điều này đã làm cho
các vụ tranh chấp liên quan tới SPS năm 2003 gia tăng trở lại, đạt cao nhất với 6/26
vụ tranh chấp tại WTO, chiếm 23,07%.
Mặt khác, trong giai đoạn từ năm 2004-2006, không có vụ nào liên quan đến
SPS diễn ra.
Tuy nhiên, số vụ kiện liên quan đến SPS lai bắt đầu tăng trở lại trong giai đoạn
2008-2019 với tổng số vụ trong giai đoạn này là 19 vụ. Lý do là bởi, trong bối cảnh
các nước đang bắt đầu ổn định lại sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 - 2009,

các Thành viên WTO đã rà soát lại chính sách thương mại hậu khủng hoảng với các
nước, trong đó có việc thực thi chặt chẽ hơn các cam kết của WTO
1.2.2. Sự tham gia của các nước thành viên


Bảng 1.2: Số vụ tranh chấp phân theo thành viên tham gia
Năm
1995
1995
1995
1995
1995
1996
1996
1996
1997
1997
1997
1998
1998
1998
1998
1998
2000
2000
2001
2002
2002
2002
2002

2002
2003
2003
2003
2003
2003
2003
2007
2008
2008
2009
2009
2009

Mã vụ SPS
DS3
DS5
DS18
DS20
DS21
DS26
DS41
DS48
DS76
DS96
DS100
DS133
DS134
DS135
DS137

DS144
DS203
DS205
DS237
DS245
DS256
DS270
DS271
DS279
DS284
DS287
DS291
DS292
DS293
DS297
DS367
DS384
DS386
DS389
DS391
DS392

Nguyên đơn (Complainant)
United States
United States
Canada
Canada
United States
United States
United States

Canada
United States
European Communities
European Communities
Switzerland
India
Canada
Canada
Canada
United States
Thailand
Ecuador
United States
Hungary
Philippines
Philippines
European Communities
Nicaragua
European Communities
United States
Canada
Argentina
Hungary
New Zealand
Canada
Mexico
United States
Canada
China


Bị đơn (Respondent)
Korea, Republic of
Korea, Republic of
Australia
Korea, Republic of
Australia
European Communities
Korea, Republic of
European Communities
Japan
India
United States
Slovak Republic
European Communities
European Communities
European Communities
United States
Mexico
Egypt
Turkey
Japan
Turkey
Australia
Australia
India
Mexico
Australia
European Communities
European Communities
European Communities

Croatia
Australia
United States
United States
European Communities
Korea, Republic of
United States


2010
2012
2012
2012
2014
2014
2015
2016
2017
2017
2017
2018
2019

DS406
DS430
DS447
DS448
DS475
DS484
DS495

DS506
DS524
DS525
DS532
DS540
DS589

Indonesia
United States
United States
India
Argentina
United States
Argentina
United States
European Union
Russian Federation
Brazil
Indonesia
Japan
Korea, Republic of
Brazil
Indonesia
Mexico
Costa Rica
Russian Federation
Ukraine
Ukraine
Russian Federation
Viet Nam

United States
Canada
China
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ wto.org

Bảng 1.2 cho thấy số vụ tranh chấp có sự tham gia của Thành viên phát triển ở cả
vai trò nguyên đơn và bị đơn cao gấp gần 2 lần sự tham gia của các Thành viên đang
phát triển.


Biểu đồ 1.1: Cơ cấu thành phần nguyên đơn phân theo trình độ phát triển của
các nước

Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ wto.org
Biểu đồ 1.2: Cơ cấu thành phần bị đơn phân theo trình độ phát triển của các
nước

Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ wto.org
Trong vai trò Nguyên đơn: Agentina là Thành viên đang phát triển tham gia khởi
kiện nhiều nhất (3 vụ), xếp thứ 2 là Philippines (2 vụ); Hoa Kỳ là Thành viên phát
triển khởi kiện nhiều nhất (11vụ), xếp thứ 2 là Canada (9 vụ).


Còn trong vai trò bị đơn: Hàn Quốc là Thành viên đang phát triển bị kiện nhiều nhất (6
vụ), tiếp đến là Ấn Độ (3 vụ); EC là Thành viên phát triển bị kiện nhiều nhất (9 vụ),
tiếp đến là Hoa Kỳ (9 vụ).
Có thể thấy đối với những vấn đề mang tính kỹ thuật cao như SPS, thì sự
tham gia của các Thành viên đang phát triển còn khá khiêm tốn. Lý do là bởi các
vụ tranh chấp liên quan đến SPS thường phức tạp, đòi hỏi sự tham gia tư vấn của các
chuyên gia nhiều kinh nghiệm cũng như khả năng đánh giá rủi ro và các nguyên tắc

khoa học, mà điều này lại là hạn chế rất lớn đối với các Thành viên đang phát triển.
1.3. Mức độ tuân thủ phán quyết, khuyến nghị của DSB
Bảng 1.3: Tình hình thực hiện phán quyết và khuyến nghị của DSB của các tranh
chấp liên quan tới SPS (tính từ 01/01/1995 đến 1/12/2019)
Tình hình thực hiện
Bên bị đơn chấp nhận phán quyết và đang trong quá trình thực thi
Tranh chấp được chuyển đến trọng tài hoặc Ban hội thẩm ban đầu

Số vụ việc
5
6

xem xét
Các bên tự thống nhất giải pháp sau khi trọng tài và Ban hội thẩm

6

ban đầu ra báo cáo
Tổng số phán quyết phải thực hiện

17
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ wto.org

Bảng 1.3 cho thấy, có 12 vụ tranh chấp mà Bên bị đơn không nghiêm túc thực thi
phán quyết của DSB, chiếm 70,58% tổng số phán quyết phải thực hiện. Đáng chú ý là,
trong 12 vụ việc này, bên không thực thi phán quyết phần lớn đến từ Thành viên phát
triển (chiếm 9/12 vụ), trong đó, Hoa Kỳ và EC là những Thành viên có số vụ việc
không tuân thủ cao nhất với 3 vụ/thành viên.
Còn đối với Thành viên đang phát triển, phần lớn họ luôn cố gắng giải quyết
tranh chấp trong giai đoạn đầu, tức là quá trình tham vấn hoặc thông qua các cuộc đàm

phán song phương vì vốn dĩ hiểu được tính chất phức tạp của các tranh chấp SPS và


khả năng theo đuổi vụ kiện còn nhiều hạn chế. Nhưng nếu có xảy ra tranh chấp và là
bên thua kiện, khả năng cao là các Thành viên đang phát triển sẽ thực thi nghiêm túc
các phán quyết của DSB bởi những lí do sau:
• Thứ nhất, họ cũng hiểu được rằng, việc không thực thi phán quyết sẽ có khả năng
bị trả đũa từ Bên thắng kiện, nếu bên đó lại là một Thành viên phát triển thì mức độ trả
đũa sẽ gây ra tác động nặng nề lên nền kinh tế.
• Thứ hai, Thành viên đang phát triển cũng không muốn tạo ra một hình ảnh không
đẹp về nền kinh tế của mình không tuân theo luật chơi chung vì việc này sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến uy tín của quốc gia và dẫn đến xuất nhập khẩu các mặt hàng khác cũng khó
khăn.
Đối với các Thành viên phát triển, có 5/12 vụ bị đề nghị biện pháp trả đũa nhưng
Thành viên phát triển đều bác bỏ và đề nghị thành lập Ban hội thẩm ban đầu hoặc
chuyển vấn đề đến trọng tài. Nguyên nhân các các Thành viên phát triển không
nghiêm túc thực thi các phán quyết của DSB có thể lí giải là do:
• Thứ nhất, khi bên thắng kiện là Thành viên đang phát triển, hiểu rõ vị thế của các
nước này là phụ thuộc nhiều vào nguồn xuất khẩu sang các thị trường lớn nên biện
pháp trả đũa thực chất là một động thái để gây chú ý nhằm nhắc nhở Thành viên phát
triển phải thực thi phán quyết, còn khả năng trả đũa là khó xảy ra vì thực tế đây là việc
làm không cân sức. Mức độ trả đũa của một nước có tiềm lực kinh tế thấp hơn sẽ
chẳng là bao nhiêu so với sự hùng mạnh của những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ hay
EC.
• Thứ hai, khi bên thắng kiện là một Thành viên phát triển thì vị thế của hai bên
lúc này đã cân bằng hơn, khả năng trả đũa xảy ra là rất lớn. Tuy nhiên, khi trường hợp
này xảy ra, bên thua kiện đều viện vào lí do là không đồng ý với mức bồi thường và
nhờ đến trọng tài cân nhắc mức trả đũa thế nào là hợp lí hoặc yêu cầu Thành lập Ban



hội thẩm ban đầu xem xét, nhờ đó thời gian thi hành phán quyết của họ lại được kéo
dài ra thêm để chờ đợi kết luận của trọng tài hay của Ban hội thẩm ban đầu. Còn
những thiệt hại do quy định SPS của họ gây ra cho hàng nhập khẩu của các Thành viên
khác vẫn chưa được điều chỉnh kịp thời.


CHƯƠNG 2: VỤ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI MÃ DS293 GIỮA
ARGENTINA VÀ EC
2.1. Thông tin tổng quan về vụ tranh chấp
Nguyên đơn: Argentina
Bị đơn: Liên minh Châu Âu EC
Biện pháp thương mại được đưa ra tranh chấp:
(i)

Lệnh cấm chung EC về việc phê chuẩn các sản phẩm công nghệ sinh học

(ii)

nhập khẩu
Biện pháp thương mại của EC ảnh hưởng đến việc phê chuẩn một số sản

(iii)

phẩm công nghệ sinh học nhất định
Các biện pháp tự vệ của các nước thành viên EC làm cản trợ việc phê
chuẩn và marketing (marketing) các sản phẩm công nghệ sinh học trong
lãnh thổ cac quốc gia này.

Sản phẩm đưa ra tranh chấp: các sản phẩm nông nghiệp công nghệ sinh học nhập
khẩu từ Argentina.

2.2. Diễn biến vụ tranh chấp
2.2.1. Tham vấn
Vào ngày 14 tháng 5 năm 2003, Argentina đã yêu cầu tham vấn với EC liên
quan đến các biện pháp thương mại của EC và các quốc gia thành viên EC đối với sản
phẩm nông sản và thực phẩm nhập khẩu từ Argentina.
Về các biện pháp cấp độ EC, Argentina khẳng định rằng các lệnh cấm được EC
áp dụng kể từ tháng 10 năm 1998 về việc phê chuẩn các sản phẩm công nghệ sinh học
làm hạn chế các nông sản và sản phẩm nhập khẩu từ Argentina.
Về các biên pháp cấp độ quốc gia thành viên, Argentina khẳng định rằng một số
quốc gia thành viên của EC duy trì các lệnh cấm marketing và nhập khẩu đối với các


sản phẩm công nghệ sinh học mặc dù các sản phẩm đó đã được EC chấp thuận cho
nhập khẩu và marketing trong EC.
Theo Argentina,các biện pháp thương mại không phù hợp với nghĩa vụ của EC
được quy định trong các hiệp định của WTO trong đó bao gồm hiệp định SPS như sau:
Điều 2, 5, 7, 8 và 10, và các Phụ lục B và C của Hiệp định SPS;
2.2.2. Thành lập ban hội thẩm và thông qua báo cáo của ban hội thẩm
Vào ngày 7 tháng 8 năm 2003, Argentina đã yêu cầu thành lập một ban hội thẩm.
Tại cuộc họp ngày 18 tháng 8 năm 2003, DSB đã hoãn việc thành lập một ban hội
thẩm.
Tại cuộc họp ngày 29 tháng 8 năm 2003, DSB đã thành lập một ban hội thẩm cho
tranh chấp này.
Vào ngày 29 tháng 9 năm 2006, các báo cáo của ban hội thẩm đã được chuyển
đến cho các bên trong tranh chấp.
Tại cuộc họp ngày 21 tháng 11 năm 2006, DSB đã thông qua các báo cáo của ban
hội thẩm.
2.2.3. Thực hiện theo khuyến nghị và phán quyết của báo cáo cuối cùng
Vào ngày 21/6/2007, Argentina và liên minh châu Âu đã lần lượt thông báo cho
DSB rằng hai bên đã đạt được thoả thuận về khoảng thời gian hợp lý để liên minh

châu Âu thực hiện khuyến nghị và phán quyết của ban hội thẩm. Theo đó, thời gian để
LMCA thi hành nghĩa vụ là đến 21/11/2007. Tuy nhiên, sau đó, hai bên đã nhiều lần
thông báo với DSB về việc gia hạn thời gian hợp lý để cho EC hoàn thành nghĩa vụ
của báo cáo của ban hội thẩm. Hạn cuối cùng được hai bên thông báo là 31/3/2010.
Ngày 19/3/2010, hai bên đã thông báo với DSB vê việc hai bên đã đạt được 1
thoả thuận chung theo điều khoản 3.7 của DSU. Hai bên đã đồng ý có một cuộc đối


thoại song phương liên quan đến các ứng dụng của công nghệ sinh học đối với các sản
phẩm nông nghiệp.
2.2.4. Kết luận chính trong báo cáo của ban Hội thẩm
Lệnh cấm chung của Ủy ban châu Âu:
• Sự tồn tại của lệnh cấm: Ban hội thẩm xét thấy một lệnh cấm chung (tạm thời)
về việc phê chuẩn các sản phẩm công nghệ sinh học đã được áp dụng tại thời điểm
Ban hội thẩm được thành lập, ví dụ: tháng Tám năm 2003. Nhìn chung thì lệnh cấm
được áp dụng cho mọi hình thức phê chuẩn đang chờ xử lý theo luật pháp liên quan
của Ủy ban châu Âu. Lệnh cấm là tạm thời vì vẫn chưa được áp dụng chính thức. Sự
phê chuẩn các sản phẩm công nghệ sinh học bị cản trở bởi các hành động/ sự loại trừ
từ một nhóm 5 quốc gia thành viên của Ủy ban châu Âu và/hoặc Ủy ban châu Âu.
• Khoản 1 điều 5 (đánh giá rủi ro) và khoản 2 điều 2 (đủ bằng chứng khoa
học) của SPS: Ban hội thẩm xét thấy việc Ủy ban châu Âu quyết định áp dụng lệnh
cấm chung có liên quan đến việc áp dụng/ tiến trình của thủ tục phê chuẩn, ví dụ: thủ
tục nhằm trì hoãn quyết định phê chuẩn chính thức cuối cùng. Thủ tục này không được
áp dụng nhằm đạt quy chuẩn của Ủy ban châu Âu về vệ sinh an toàn thực phẩm hay
kiểm dịch động thực vật, vì thế đây không phải là một “biện pháp SPS” theo khoản 1
điều 5 và khoản 2 điều 2. Do đó kết luận là liên minh châu âu không vi phạm điều
khoản 5.1 và 2.2 của hiệp định SPS
 Khuyến nghị của ban hội thẩm: Dựa vào kết luận trên, ban hội thẩm không
đưa ra khuyến nghị theo điều 19.1 DSU.
Các biện pháp dành riêng cho sản phẩm:

• Phụ lục C(1): (a) và điều 8 (thủ tục kiểm soát, kiểm tra và phê chuẩn) của
SPS: Ban hội thẩm xét thấy 24 trên 27 thủ tục phê chuẩn dành riêng cho sản phẩm
được điều tra không hoàn thành nếu không có trì hoãn không đáng có. Vì thế, nếu xét


theo các thủ tục này, Ủy ban châu Âu đang không tuân thủ Phụ lục C(1)(a) đính kèm
điều 8 của SPS đối với các sản phẩm cụ thể có mã sản phẩm sau đây: ….
 Khuyến nghị của ban hội thẩm: Dựa vào kết luận trên, ban hội thẩm khuyến
nghị DSB yêu cầu liên minh châu Âu thay đổi các biên pháp thương mai đối với các
sản phẩm cụ thể nêu trên cho phù hợp với các nghĩa vụ của liên minh châu âu theo
hiệp định SPS.
Các biện pháp tự vệ của thành viên Ủy ban châu Âu:
• Khoản 1 điều 5, khoản 2 điều 2 và khoản 7 điều 5 (biện pháp tạm thời): Theo
Ban hội thẩm, hồ sơ không chỉ ra rằng không có đủ bằng chứng để tiến hành đánh giá
rủi ro theo khoản 1 điều 5 và Phụ lục A (4) cho các sản phẩm công nghệ sinh học chịu
các biện pháp tự vệ. Vì thế, khoản 1 điều 5 và khoản 2 điều 2 đã được áp dụng. Về vấn
đề này, Ban hội thẩm xét thấy không có biện pháp tự vệ nào được đưa ra dựa trên việc
đánh giá rủi ro được quy định ở khoản 1 điều 5 và phụ lục A(4). Vì duy trì những biện
pháp trái với khoản 1 điều 5, suy ra Ủy ban châu Âu đã không tuân theo khoản 2 điều
2.
 Khuyến nghị của ban hội thẩm: Dựa vào kết luận trên, ban hội thẩm khuyến
nghị DSB yêu cầu liên minh châu Âu chỉnh sửa các biện pháp tự vệ của các quốc gia
thành viên cho phù hợp với các nghĩa vụ quy định theo hiệp định SPS.
2.3. Nhận xét
Có thể thấy, tranh chấp trên khẳng định lại nhận xét về mức độ tuân thủ phán
quyết của các thành viên trong WTO. Tranh chấp DS293 trên giữa Argentina và EC có
thể thấy rằng mặc dù kết luận của ban hội thẩm cho thấy những vi phạm rõ ràng của
EC liên quan tới việc chấp thuận và marketing các sản phẩm công nghệ sinh học, song
thành viên phát triển EC này lại không thể hiện thiện chí nghiêm túc thực thi phán
quyết của DSB mà không lo bị trả đũa. Điều này được thể hiện ở việc sau khi DSB



thông qua báo cáo của ban hội thẩm, hai bên đã liên tục thông báo có những thay đổi
trong việc thoả thuận thời gian hợp lý để EC thực hiện nghĩa vụ của mình. Cụ thể, sau
10 lần thông báo với DSB về thời gian hợp lý thực hiện nghĩa vụ kể từ lần đầu tiên là
21/6/2007 cho đến lần cuối cùng là vào ngày 26/2/2010.
So sánh với một vụ tranh chấp tương tự mã DS291 do Hoa Kì khởi kiện EC cũng
liên quan đến vấn đề chấp thuận và marketing các sản phẩm công nghệ sinh học, EC
cũng có những động thái kéo dài thời gian hợp lý để thực thi nghĩa vụ của mình như
DSB yêu cầu. Tuy nhiên, với vị thế là một nước lớn, Hoa Kì sẵn sàng yêu cầu trả đũa
bằng việc yêu cầu DSB tạm ngừng các ưu đãi và các trách nhiệm khác của EC.
Tóm lại, qua ví dụ về vụ tranh chấp thương mại trên giữa Argentina – một nước
đang phát triển và EC - đại diện cho thành viên phát triển của WTO, có thể thấy việc
tuân thủ và thực thi kết luận của DSB vẫn còn là một vấn đề tương đối lớn và cần có
những biện pháp cứng rắn hơn khác để bảo vệ quyền lợi của bên thắng kiện, đặc biệt là
các nước thành viên đang phát triển.



×