Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận tăng trưởng và phát triển quá trình vượt qua bẫy thu nhập trung bình của hàn quốc và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.42 KB, 32 trang )

CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH
1.1. Khái niệm bẫy thu nhập trung bình
Theo Indermit Gill, chuyên gia kinh tế trưởng của World Bank, Viện Brookings (2007),
bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “bẫy thu nhập trung bình” là tình trạng không đáp
ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền kinh tế đã đạt đến mức thu nhập trung bình.
Thu nhập quốc dân (GNI, trước đây là GNP) của các nền kinh tế, được xác định vào đầu
năm tài chính của Ngân hàng thế giới vào tháng 7 và cố định trong 12 tháng với điều chỉnh
lạm phát. Kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2018, các ngưỡng mới để phân loại theo thu nhập đó là:
Bảng 1.1: Ngưỡng phân loại các nền kinh tế
Ngưỡng
Thu nhập thấp
Thu nhập trung bình
Thu nhập trung bình cao
Thu nhập cao

GNI/đầu người (theo USD)
< 995
996 – 3.896
3.896 – 12.055
> 12.055
Nguồn: World Bank (2018)

Theo giáo sư Kenichi Ohno của Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản (2009),
bẫy thu nhập trung bình là tình huống mà một quốc gia bị mắc kẹt tại mức thu nhập được quyết
định bởi một nguồn lực nhất định và lợi thế ban đầu, và không được vượt quá mức thu nhập đó.
Có thể thấy rằng, có rất nhiều quan niệm khác nhau về “bẫy thu nhập trung bình”. Tuy nhiên, ta có
thể hiểu đơn giản khái niệm về “bẫy thu nhập trung bình” đó là khi một quốc gia thoát khỏi mức
thu nhập thấp, bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình, nhưng trong một thời gian dài vẫn
không thể vươn lên hàng các quốc gia có mức thu nhập cao, các quốc gia phát


triển.
Vây theo các hiểu như trên thì đối tượng của “bẫy thu nhập trung bình” là các quốc gia
có mức GNI từ trên 996 USD đến 12.055 USD. Tuy nhiên, phạm vi này chỉ có tính chất tương
đối và có thể thay đổi tùy thuộc vào việc hàng năm, Ngân hàng Thế giới sẽ điều chỉnh lại cách
phân lại các nền kinh tế theo mức thu nhập bình quân đầu người như thế nào.


1.2. Nguyên nhân sập bẫy thu nhập trung bình
Như một lẽ tất nhiên, bất kì quốc gia nào, với xuất phát điểm là một nền kinh tế chủ yếu dựa
vào khai thác các nguồn lực sẵn có, xuất khẩu nông sản độc canh, nông nghiệp tự cấp tự túc, và
mong chờ vào viện trợ, thì để tăng trưởng, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, quốc gia đó cần
tiến hành phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ và tính cạnh tranh cao, là
những nghành có tính cạnh tranh lớn. Việc sử dụng lao động trong nước sẽ giúp nâng cao giá trị
nội tại cho nền kinh tế. Tuy nhiên, sự thay đổi này sẽ khó có thể thực hiện được trong một thời
gian ngắn do những nguyên nhân trực tiếp theo giáo sư Kenichi Ohno (2009) là:
-

Nhân lực trong thời kì thu nhập thấp chủ yếu được khai thác ở phần thô (lao động cơ

bắt, thủ công) mà chưa được chú trọng về mặt kỹ năng, trình độ, dẫn đến mặt bằng chất lượng
kém. Lao động sẽ không đủ khả năng để sáng tạo và sử dụng công nghệ mới trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Nền tảng khoa học – công nghệ lạc hậu so với thế giới.
- Hiệu quả sử dụng vốn kém gây lãng phí vốn, đồng thời làm giảm đi sức hấp dẫn của
nền kinh tế đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài.
- Các nhà quản lý kinh tế vĩ mô có tư tưởng chủ quan, thỏa mãn. Họ ngộ nhận những
thành quả đã đạt được là kết quả của sức mạnh nội lực nên không kịp thời có các biện pháp,
chính sách phù hợp với điều kiện và yêu cầu mới của nền kinh tế.
Bốn nguyên nhân chính trên đã cản trở quá trình công nghiệp hóa, cũng như mở rộng
đường dẫn nền kinh tế tự sa vào “bẫy thu nhập trung bình”.

Trên thực tế, có nhiều nền kinh tế ở khu vực châu Á từ nghèo chuyển thành nước có thu
nhập trung bình, nhưng rất ít trong số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan, Hàn Quốc.
Philippines là một quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình, nước
này đã không thể vượt được ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên. Indonesia cũng đã mất
hơn một thập niên để cải thiện từ 1.000 USD lên hơn 2.000 USD/người. Thái Lan cũng đã
mất hơn hai thập niên để vượt được con số 3.000 USD do bất ổn kéo dài.
Theo giáo sư Kenichi Ohno (2009) đã phân tích 6 khía cạnh dùng để đánh giá liệu một
quốc gia đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay chưa, cụ thể như sau:
- Thu nhập bình quân đầu người thấp.
- Tăng trưởng kinh tế chậm biểu hiện ở sự tăng trưởng chậm lại của GDP.
- Năng suất lao động thấp.
- Thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng nghĩa, nặng tính hình thức.


- Không có sự cải thiện về chỉ số xếp hạng kinh tế.
- Xuất hiện, nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến tăng trưởng như lạm phát, bong bóng
chứng khoán và bất động sản, tắc nghẽn giao thông, suy thoái môi trường, nợ xấu của nhà
nước,…
Những dấu hiệu trên bao quát toàn bộ các lĩnh vực của một quốc gia như kinh tế, chính
trị cho đến văn hóa, môi trường. Cần lưu ý những dấu hiệu của bẫy thu nhập trung bình trên
để nhanh chóng đưa ra các giải pháp khắc phục kịp thời.

1.3. Tác động của bẫy thu nhập trung bình lên nền kinh tế
Theo giáo sư Kenichi Ohno (2009), “bẫy thu nhập trung bình” được coi như “chiếc trần
thủy tinh vô hình” ngăn cản sự phát triển kinh tế đến với sự phát triển bằng nội lực. Các ảnh
hưởng xấu khi “mắc kẹt” trong “bẫy thu nhập trung bình” tới các yếu tố cơ bản tạo động lực
phát triển nền kinh tế làm suy giảm khả năng tăng trưởng kinh tế cao và lâu dài, đủ để thoát
khỏi bẫy và đạt tới mức sống cao hơn.

1.3.1. Đối với nền kinh tế vĩ mô

Thứ nhất, đối với khả năng tích lũy vốn của nền kinh tế. Khi quốc gia rơi vào bẫy thu
nhập trung bình, thu nhập bình quan giảm, làm giảm tiết kiệm nội địa dẫn tới mất khả năng
tích lũy vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, đất nước bị mất dần lợi thế cạnh tranh trong việc
thu hút FDI, không huy động được đủ vốn cần thiết cho tái xuất đầu tư và duy trì đà tăng
trưởng. Vay nợ và viện trợ có thể sẽ không khả thi do bị phụ thuộc về các mặt kinh tế, chính
trị hoặc rơi vào tình trạng “lãi mẹ đẻ lãi con”. Do đó, khi một đất nước bị rơi vào bẫy thu nhập
càng lâu thù càng khó thoát khỏi nó.
Thứ hai, thu nhập thấp dẫn tới người lao động không có nhiều cơ hội được tiếp xúc với
giáo dục và đào tạo bài bản, trình độ lao động không được cải thiện. Thiếu hụt lao động
chuyên môn cao gây khó khăn với các ngành cần nhiều chất xám tạo giá trị gia tăng lớn, chỉ
được tiếp cận công nghệ lạc hậu mà không tạo ra được các sản phẩm mới mang tính bứt phá,
tạo động lực cho nền kinh tế.

1.3.2. Đối với cá nhân trong nền kinh tế
Nền kinh tế tăng trưởng thấp không đủ khả năng tạo việc làm và thu nhập cho người dân,
tạo thành một vòng luẩn quẩn. Tốc độ gia tăng các loại phí tăng nhanh hơn nhiều so với tốc độ
tăng trưởng của lao động. Sự phụ thuộc vào các quốc gia khác, đặc biệt là vào các khoản vay nước
ngoài sẽ mang tới gánh nặng trả nợ lên vai người dân và doanh nghiệp khiến tỷ lệ phá sản


của doanh nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp và đói nghèo tăng cao. Thất nghiệp gia tăng còn dẫn tới tệ
nạn xã hội, bất ổn về chính trị. Khả năng hưởng thụ của con người giảm, không được đảm bảo
các điều kiện tối thiểu cho cuộc sống bình thường, bị hạn chế các quyền tự do và quyền tiếp
cận với hàng hóa công cộng như ý tế, giáo dục, nước sạch,…


CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH VƯỢT QUA BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH CỦA HÀN QUỐC
2.1. Hàn Quốc trong giai đoạn thu nhập trung bình ( 1978-2001)
Theo dữ liệu của World Bank, năm 1978 Hàn Quốc chính thức trở thành một nước có

mức thu nhập trung bình với mức GNI bình quân đầu người là 1.270 đô la Mỹ.
Hình 2.1: GNI bình quân đầu người của Hàn Quốc giai đoạn 1978-2002
Đơn vị: Đô la Mỹ

Thu nhập bình quân đầu người
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000

2002

2001

2000

1998
1999

1997

1996

1995

1994


1992

1993

1991

1990

1989

1988

1987

1986

1985

1984

1983

1982

1981

1980

1979


1978

0

Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank.
Tốc độ tăng trưởng GNI bình quân đầu người trong giai đoạn 1978-1996 trung bình
khoảng 7%/năm. Từ năm 1986 đến năm 1996, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu
người luôn duy trì trên 6%, cao nhất là năm 1987 là 12,63%. Trong đó, Hàn Quốc phải trải
qua hai cuộc suy thoái vào năm 1980 và năm 1998 với mức tăng trưởng GNI bình quân đầu
người âm: năm 1980 là -3,99% và năm 1998 là -6,96% ( Ngân hàng thế giới World Bank).
Theo hình 2.1, GNI bình quân đầu người của Hàn Quốc chỉ thật sự tăng nhanh về giá trị kể
từ sau năm 1986. Năm 1996, Hàn Quốc đạt mức thu nhập cao thoát khỏi mức thu nhập trung bình
là 13.040 đô la Mỹ. Tuy nhiên sau đó do ảnh hưởng của cuộc khoảng hoảng kinh tế năm 1997, thu
nhập bình quân đầu người giảm. Năm 1998, Hàn Quốc trở lại mức thu nhập trung


bình cao, thu nhập bình quân đầu người là 1.070 đô la Mỹ. Hàn Quốc mất bốn năm để hồi
phục nền kinh tế và trở lại mức thu nhập cao vào năm 2002 (12.460 đô la Mỹ).
Về cơ cấu nền kinh tế, tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm thay vào đó là sự tăng lên
trong tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 2.1: Tỷ lệ đóng góp trong GDP của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
Năm

1978

1996

Nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh cá

19,82%


5%

Công nghiệp (bao gồm cả xây dựng)

29,81%

34,81%

Dịch vụ

39,49%

50,45%

Ngành

Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank.
Lưu ý: dữ liệu không bao gồm tỷ trọng toàn bộ các ngành trong nền kinh tế
Trong 18 năm, tỷ lệ đóng góp trong GDP của các ngành có sự thay đổi rõ rệt. Nông nghiệp,
lâm nghiệp và đánh cá giảm 14,68%; năm 1996 tỷ lệ đóng góp chỉ bằng khoảng một phần tư so với
năm 1978. Về công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) và dịch vụ, tỷ lệ đóng góp trong GDP lần lượt
tăng 5% và 10,96%. Điều này cho thấy Hàn Quốc trong quá trình phát triển nền kinh tế nhằm vượt
qua mức thu nhập trung bình đã có sự chuyển dịch phù hợp, giảm tỷ lệ về nông nghiệp, tăng tỷ lệ
công nghiệp và dịch vụ - những ngành đem lại giá trị gia tăng cao hơn.

Tổng vốn của cả nền kinh tế thể hiện tiềm lực phát triển của nền kinh tế. Khi Hàn Quốc
bắt đầu vào giai đoạn đầu của mức thu nhập trung bình, tỷ lệ vốn so với GDP là tương đối
cao, năm 1978 là 34,53% với giá trị là khoảng 17,85 tỷ đô la Mỹ. Tỷ lệ này vẫn tiếp tục tăng,
cao nhất là năm 1991 (41,37%) với 134,77 tỷ đô la Mỹ (Ngân hàng thế giới World Bank). Đây

có lẽ là một trong những yếu tố quyết định giúp Hàn Quốc có thể nhanh chóng thoát khỏi bẫy
thu nhập trung bình.
Đầu tư nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng giúp Hàn Quốc có thể “nhảy qua”
mức thu nhập trung bình.
Chất lượng nguồn nhân lực của Hàn Quố c dần được cải thiện và nâng cao trong giai đoạn thu nhập
trung bình này. Điều này được thể hiện thông qua trình độ học vấn của người dân (cụ thể ở đây là người dân
trên 25 tuổi). Năm 1980, tỷ lệ dân số trên 25 tuổi có trình độ học vấn ít nhất là trung học cơ sở là 45,81% và
trình độ học vấn ít nhất sau trung học cơ sở là 8,91%. Tỷ


lệ này vẫn tiếp tục tăng qua các năm và đến năm 1995 thì tỷ lệ này lần lượt là 71,92% và
20,82%( Ngân hàng thế giới World Bank).
Hình 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Hàn Quốc giai đoạn 1978-2002
Đơn vị: Tỷ đô la Mỹ
14000

12000

10000

8000

6000

4000

2000

2002


2001

2000

1998
1999

1997

1995

1996

1994

1993

1992

1991

1990

1988
1989

1987

1986


1985

1984

1983

1982

1981

1980

1979

1978

0

Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank.
Hình 2.2. cho thấy từ năm 1985 Hàn Quốc đã rất thành công trong việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài mặc dù năm 1978 đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ đạt 89 triệu đô la Mỹ.

Hàn Quốc cũng rất chú trọng vào đầu tư công nghệ. Năm 1988, xuất khẩu công nghệ
cao chiếm 15,94% sản xuất xuất khẩu và năm 1996 con số này là 24.06%. Tỷ lệ xuất khẩu
công nghệ cao trên tổng sản xuất xuất khẩu cao nhất là năm 2000 đạt 35,07%.
Tuổi thọ trung bình của người dân là một trong những tiêu chí thể hiện mức sống của
một đất nước. Tuổi thọ trung bình được cải thiện từ 65,2 tuổi năm 1978 đến 74,2 năm 1996 và
76,4 năm 2001 (Ngân hàng thế giới World Bank) . Tuổi thọ trung bình tăng thể hiện Hàn
Quốc không chỉ quan tâm đến giáo dục mà còn quan tâm đến sức khoẻ người dân – yếu tố
quan trọng quyết định trực tiếp đến năng suất lao động.



2.2. Hàn Quốc sau khi vượt qua bẫy thu nhập trung bình
Từ năm 2002 đến nay, theo số liệu của Ngân hàng thế giới World Bank, thu nhập bình
quân đầu người của người dân Hàn Quốc tăng dần, tính đến năm 2017 đạt 28.380 đô la Mỹ.
Mặc dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007-2009 nhưng Hàn Quốc vẫn nằm
trong nhóm nước có thu nhập cao từ năm 2002 đến nay.
Hình 2.3: GNI bình quân đầu người của Hàn Quốc giai đoạn 2002-2017
Đơn vị: Đô la Mỹ

Thu nhập bình quân đầu người
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
2000

2002

2004

2006

2008

2010


2012

2014

2016

2018

Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank.
Tốc độ tăng trưởng GNI bình quân đầu người trong giai đoạn này nằm trong khoảng 25%, riêng năm 2009 là -0,039% do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và năm 2010 là
6,325%(Ngân hàng thế giới World Bank).
Tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP không có thay đổi
nhiều so với những năm cuối của giai đoạn thu nhập trung bình. Năm 2017, tỷ lệ đóng góp
của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP lần lượt là 1,96%; 35,87% và 52,84%
(Ngân hàng thế giới World Bank).
Tỷ lệ tổng vốn trên GDP không còn cao như những năm 1990-1997 nhưng tỷ lệ này cũng không thấp,
luôn dao động khoảng 27-33%. Cùng với giá trị GDP ngày càng lớn, tổng vốn của


nền kinh tế Hàn Quốc ngày càng cao. Năm 2017 tổng vốn của nền kinh tế đạt 475 tỷ đô la Mỹ
( tương đương với 31,08%GDP) (Ngân hàng thế giới World Bank).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hàn Quốc vẫn có xu hướng tăng.
Hình 2.4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hàn Quốc giai đoạn 2002-2017
Đơn vị: Tỷ đô la Mỹ

FDI
18000
16000
14000
12000

10000
8000
6000
4000
2000
0
2000

2002

2004

2006

2008

2010

2012

2014

2016

2018

Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank.
Hình 2.4. cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có những khoảng thời gian sụt giảm rất
nhiều, chẳng hạn như năm 2015 đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh chỉ còn 4.104 tỷ đô la
Mỹ. Tuy nhiên sau đó FDI tăng nhanh trở lại, năm 2017 đạt 17.053 tỷ đô la Mỹ.

Nhờ có các chính sách của nhà nước quan tâm đến giáo dục mà chất lượng nguồn nhân
lực ngày càng được cải thiện. Lao động với trình độ tiên tiến là 77,87%. Tỷ lệ dân số trên 25
tuổi đạt trình độ ít nhất là cử nhân hoặc tương đương năm 2010 là 24,36% và con số này vẫn
tiếp tục tăng lên đến 28,68% năm 2015. Tỷ lệ dân số trên 25 tuổi đạt trình độ ít nhất là thạc sỹ
hoặc tương đương năm 2010 là 3,54% và năm 2015 là 4,45%. Tỷ lệ dân số trên 25 tuổi đạt
trình độ ít nhất là trung học cơ sở và trình độ đạt ít nhất là sau trung học cơ sở tăng đáng kể so
với những năm giai đoạn có mức thu nhập trung bình. Tỷ lệ này năm 2015 lần lượt là 85,72%
và 40,3%(Ngân hàng thế giới World Bank).


Về công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu công nghệ cao trên tổng sản xuất xuất khẩu không cao
như năm 2000, dao động từ 26-33%. Riêng năm 2017 tỷ lệ này giảm chỉ còn 14%. Xét về mặt
giá trị, xuất khẩu công nghệ cao của Hàn Quốc vẫn tăng từ năm 2002, đạt giá trị cao nhất vào
năm 2014 là 133,45 tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, từ năm 2015 đến năm 2017 giá trị xuất khẩu công
nghệ cao của Hàn Quốc lại giảm. (Ngân hàng thế giới World Bank).
Sức khoẻ của người dân cũng được cải thiện đáng kể. Tuổi thọ trung bình tăng, năm
2017 là 82,6 tuổi. Hàn Quốc là một trong những nước có tuổi thọ trung bình của người dân
thuộc nhóm cao (Ngân hàng thế giới World Bank).

2.3. Chính sách kinh tế - xã hội giúp Hàn Quốc vượt qua bẫy thu nhập trung bình
2.3.1. Chính sách công nghiệp
a. Đề cao xuất khẩu, trợ cấp cho các ngành công nghiệp xuất khẩu
Trong giai đoạn 1950-1960, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc được đặc trưng bởi
chính sách đề cao xuất khẩu, trợ cấp cho các ngành công nghiệp xuất khẩu, áp dụng chính
sách thay thế nhập khẩu tập trung chủ yếu vào các mặt hàng tiêu dùng. Chính phủ sử dụng
triệt để các hàng rào thuế quan và hạn chế nhập khẩu tới mức tối đa nhằm bảo hộ các ngành
công nghiệp trong nước và thúc đẩy sản xuất trong nước.
Giữa những năm 1960, chính phủ đưa ra các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như miễn,
giảm thuế và hỗ trợ tài chính, chính phủ còn cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển
kinh tế, thành lập các tổ chức để thúc đẩy xuất khẩu như: Cơ quan xúc tiến thương mại đầu tư

Hàn Quốc (KOTRA) và Hiệp hội Thương mại quốc tế Hàn Quốc (KITA).
Năm 1964, chính sách định hướng xuất khẩu ra đời với khẩu hiệu “xuất khẩu là trước
hết”. Chính phủ gia tăng trợ cấp trực tiếp cho các ngành xuất khẩu, đặc biệt là những ngành
công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như dệt may, tơ sợi và giày dép – là những ngành
Hàn Quốc có lợi thế cạnh tranh.
Theo nghiên cứu thị trường của Song Byung – Nak (2002) đối với các yếu tố đóng góp
cho tăng trưởng kinh tế ở Hàn Quốc, về mặt cầu, sự thay đổi trong lĩnh vực sản xuất ở Hàn
Quốc được tạo ra nhiều hơn bởi xuất khẩu (33%), hơn là nhu cầu nội địa cuối cùng (31,5%)
trong giai đoạn từ 1963 đến 1973, còn từ năm 1980 đến 1983 xuất khẩu đóng góp 23,9% sản
lượng công nghiệp chế tạo.


b. Dịch chuyển từ các ngành công nghiệp nhẹ sang các ngành công nghiệp nặng, sau đó là
các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Từ 1972-1981, bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, Hàn Quốc tiếp tục thay đổi chiến
lược, tập trung vào 3 nội dung chính là: công nghiệp nặng và hóa chất; đa dạng hóa sản phẩm
xuất khẩu; phát triển nông nghiệp để tự túc một số nông phẩm. Vốn đầu tư phát triển cũng
được tập trung cho các hướng chiến lược này.
Những năm 1970, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc chuyển hướng từ các ngành
công nghiệp nhẹ sang phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất (HCI) có giá trị gia
tăng cao.
Năm 1973, chính phủ đã ban hành kế hoạch phát triển công nghiệp nặng và hóa chất,
chọn ra sáu ngành công nghiệp chiến lược, bao gồm: thép, đóng tàu, máy công cụ, điện tử,
kim loại, và công nghiệp hóa dầu. Gắn liền với chính sách này là sự gia tăng của các tập đoàn
công nghiệp lớn (Chaebol). Chính phủ thúc đẩy phát triển các ngành HCI thông qua các chính
sách như: cung cấp các khoản vay ưu đãi, bảo hộ có chọn lựa, các quy định đầu vào và miễn,
giảm thuế…
Từ năm 1982-1995, Hàn Quốc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, tham gia
APEC, WTO, NAFTA, AFTA, mở rộng hợp tác khu vực với ASEAN, Trung Quốc; tiếp tục
điều chỉnh cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp, xác định một số ngành công nghiệp chủ

đạo và đầu tư phát triển nâng cấp, cơ cấu lại ngành nghề, cải thiện môi trường đầu tư, duy trì
ổn định giá đất, tạo nguồn cung cấp lực lượng lao động, cải cách tiền lương; thông qua thu
hút FDI thúc đẩy chuyển giao kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, nâng cao sức cạnh tranh.
Theo Đoàn Thị Kim Tuyến (2017), với sự giúp đỡ về nhiều mặt của chính phủ như trên,
tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng ở Hàn Quốc gia tăng nhanh chóng từ 38% năm 1973 lên
tới 54,4% năm 1980 và chiếm tới 50% tổng giá trị xuất khẩu năm 1980.
c. Bảo hộ những ngành công nghiệp nặng, then chốt của quốc gia
Chính phủ thực hiện sự bảo hộ mạnh mẽ đối với các ngành công nghiệp ngay từ những
ngày đầu phát triển. Tất cả các công cụ chính sách về tiền tệ, tài chính đều được sử dụng để


hỗ trợ cho các ngành công nghiệp then chốt như xi măng, phân bón hay công nghiệp lọc
hóa dầu…
Thực hiện cơ chế kết hợp linh hoạt “Chính phủ cứng và thị trường mềm” trong việc
thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc gắn kết chặt chẽ với các tập
đoàn tài phiệt Chaebol, khuyến khích và ủng hộ mọi mặt cho sự phát triển của Chaebol. Theo
“Sáng kiến phát triển công nghiệp nặng và hóa chất” vào những năm 1970, Hàn Quốc cung
cấp tín dụng ưu đãi cho các Chaebol (tập đoàn) lớn, thậm chí áp dụng lãi suất âm, để tạo điều
kiện cho ngành công nghiệp bán dẫn nói riêng và ngành điện tử nói chung lớn mạnh.
d. Phát triển theo cơ chế thị trường, tăng cường vai trò của doanh nghiệp tư nhân
Trong những năm 1980 và 1990, do ảnh hưởng của khủng hoảng dầu mỏ và kinh tế giai
đoạn 1973-1975 gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu công nghiệp và giảm sức cạnh tranh, chính
phủ Hàn Quốc buộc phải thực hiện sự điều chỉnh chính sách công nghiệp theo hướng tăng cường
tự do hóa thị trường, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho khu vực tư nhân và phát triển các ngành
công nghiệp kỹ thuật cao như công nghiệp bán dẫn, ô tô, đóng tàu, hàng không.

Cho phép khu vực tư nhân tham gia thu hút đầu tư nước ngoài. Với những doanh nghiệp
có tiềm năng nhưng thiếu vốn liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài hay những dự án liên
kết được dự báo có hiệu quả cao nhưng thiếu vốn sẽ được nhà nước hỗ trợ vốn.


2.3.2. Chính sách thu hút vốn đầu tư của Hàn Quốc
a. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhằm để phát triển sản xuất trong nước
(Giai đoạn 1960 – 1979)
Những năm sau 1960: Tập trung thu hút viện trợ của nước ngoài và vay nợ để phục hồi
nên kinh tế từ sau chiến tranh Triền Tiên, ban hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng chính phủ, giảm bớt các thủ
tục hành chính rườm rà phù hợp với nguyên tắc quốc tế, chú trọng đến việc cung cấp thông
tin cho các nhà đầu tư quốc tế.
Tháng 7 năm 1962, luật đặc biệt khuyến khích vốn đầu tư dài hạn bắt đầu có hiệu lực, ở
thời điểm này, Hàn Quốc mời chỉ khuyến khích đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực nhất định


như: công nghiệp đóng tàu, hóa dầu, ô tô… Hạn chế đầu tư nước ngoài vào nhiều lĩnh vực,
chủ yếu là dịch vụ như: viễn thông, tài chính, ngân hàng, truyền hình… chỉ cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài được góp vốn dưới 50% trong các công ty liên doanh.
Huy động nguồn vốn trong nước bằng các chính sách như tăng lãi suất tiền gửi lên 12%
(năm 1965), đa dạng hóa hệ thống tài chính...
Luật Ngân hàng Hàn Quốc ra đời với mục tiêu đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế công
nghiệp hóa. Năm 1967, chính phủ đã cho phép thành lập ngân hàng ngoại hối và ngân hàng
xuất nhập khẩu. Hàn Quốc tự do hóa hệ thống tài chính của mình tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn.
Hàn Quốc cho phép khu vực tư nhân tham gia thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khai thác
tối đa tư nhân tham gia đầu tư phát triển, cùng với nguồn vốn trong nước, FDI, viện trợ. Hàn
Quốc đã xây dựng và ban hành bộ luật đầu tư; thay thế chế độ tỷ giá cố định bằng chế độ linh
hoạt; ban hành đạo luật tổng hợp về thúc đẩy FDI, nâng lãi suất tiền gửi để thu hút tiết kiệm
của dân cư.
Đầu những năm 1970 chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc có nhiều thay
đổi trong đó có sự xuất hiện của các tập đoàn lớn (Cheabol). Các Cheabol được xác định là
xương sống của nền kinh tế và hưởng những ưu đãi đặc biệt từ chính phủ, tiếp thu công nghệ
tiên tiến từ các quốc gia phát triển và có sức cạnh tranh quốc tế trong một số ngành công

nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế tạo.
Thay thế chế độ tỷ giá cố định bằng tỷ giá linh hoạt, đồng Won bị phá giá do nó gắn với
đồng USD và bị chi phối bởi những quy định của IMF vì thế các nhà đầu tư có thể an tâm đầu
tư vào đây.



Thành tựu: Nền kinh tế từng bước được ổn định và có những dấu hiệu tích
cực: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng 4%/năm
Các ngành công nghiệp được khuyến khích đầu tư có sự tăng trưởng mạnh mẽ, năm
1965 tỷ trọng công nghiệp trong GDP là 19,8% và chiếm 22,8% năm 1970 và có xu hướng gia
tăng, tuy nhiên trong ba ngành, công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, công nghiệp ở thời kỳ này
vẫn là ngành có tỷ trọng nhỏ nhất.


Ngành dịch vụ mặc dù vẫn còn bị hạn chế về mặt đầu tư nước ngoài nhưng vẫn giữ tỷ trọng
cao nhất trong GDP ghi nhận sự tăng trưởng từ 41,8% (năm 1965) đến 49,2% (năm 1970).

Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 9,8% (năm 1962) xuống chỉ còn 4,1% (năm 1975).
Tỷ lệ đầu tư nước ngoài tăng từ 11,8% (năm 1962) lên đến 35,8% (năm 1979)
b. Chính sách kết hợp khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài và từng bước tự do hóa kinh tế
(giai đoạn 1980 – nay)
Đạo luật xúc tiến đầu tư nước ngoài FIPA, có hiệu lực từ tháng 11 năm 1998, cho phép các
nhà đầu tư nước ngoài tận dụng dịch vụ một cửa và đãi ngộ đồng nhất. Đạo luật này cũng tạo ra
môi trường đầu tư nước ngoài hấp dẫn hơn với các tiện ích như: ưu đãi về thuế, tiền thuê nhà máy
rẻ hơn, quy trình thủ tục hành chính đơn giản, các dịch vụ hỗ trợ, đào tạo nhân lực…
Đối với các nhà đầu tư công nghệ cao, thời gian miễn thuế thu nhập doanh nghiệp tăng từ 8
năm lên đến 10 năm. Hủy bỏ các lệnh cấm nhập khẩu, giảm các hạng mục chịu thuế quan.

Bất động sản thuộc sở hữu Nhà nước có thể cho các hãng đầu tư từ nước ngoài thuê với

thời gian lên đến 50 năm với giá cả thuận lợi và còn có thể miễn phí trong các trường hợp cụ
thể. Các khu vực đầu tư tự do được hình thành để phù hợp với đầu tư trực tiếp nước ngoài quy
mô lớn.
Chính phủ từng bước hủy bỏ các lệnh cấm nhập khẩu, giảm các con số hạng mục chịu
thuế quan, thực hiện chính sách mở cửa cho đầu tư nước ngoài đối với hầu hết các lĩnh vực
của thị trường trong nước, chỉ có 21 lĩnh vực trong tổng số 195 lĩnh vực kinh tế còn đóng cửa,
7 lĩnh vực trong số đó chỉ bị đóng cửa một phần.
Chính quyền địa phương cũng được phép tự quy định mức ưu đãi và miến thuế từ 8 –
15 năm và được phép lập và điều hành các khu công nghiệp đầu tư nước ngoài để thu hút đầu
tư FDI. Các thủ tục hành chính rườm rà được xóa bỏ và đơn giản hóa.
Nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư chuyển đổi tiền tệ, thanh toán hợp đồng dễ dàng, Hàn Quốc ban
hành các biện pháp đơn giản hóa thị trường tài chính, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
qua thị trường chứng khoán. Hàn Quốc đầu tư xây dựng và nâng cấp các khu công nghiệp cho các
công ty có vốn nước ngoài; điều chỉnh hệ thống luật pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, hỗ
trợ cấp giấy phép nhanh cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực công


nghệ cao. Các nhà đầu tư nước ngoài chỉ mất 45 ngày để nhận được giấy phép thành lập xí
nghiệp trong khi thời gian tối thiểu trước kia là 200 ngày.
Vào đầu những năm 80 trong bối cảnh giá nhân công thế giới tăng vọt thì giá nhân công
tại Hàn Quốc vẫn giữ nguyên thậm chí còn giảm ở một số ngành công nghiệp có vốn nước
ngoài. Để ổn định giá nhân công, chính quyền đã ban hành nhiều chính sách ổn định giá
lương thực, điện nước...
Ngày 15/2/1995, đạo luật mang tính bước ngoặt được ban hành khi Hàn Quốc cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần báo cáo hoạt động đầu tư cho cơ quan quản lý địa phương,
không cần phải nộp đơn xin phê duyệt từ Chính phủ như trước.
Sau khủng hoảng kinh tế năm 1997, Hàn Quốc ban hành đạo luật thúc đẩy đầu tư nước
ngoài mới vào năm 1998. Tính đến tháng 5/2000, có đến 1.140/1.148 lĩnh vực ở Hàn Quốc
được phép thu hút FDI.
Ngoài những chính sách cắt giảm thủ tục hành chính, Hàn Quốc còn miễn thuế cho các

hoạt động nghiên cứu, giảm tối đa 18% thuế thu nhập cho nhân sự của các công ty nước ngoài
và không ngừng cải thiện môi trường sống cho các lao động nước ngoài.
Từ tháng 9 năm 2014 những người người nước ngoài đầu tư trên 500.000 USD (trước
đó là 2 triệu USD vào Hàn Quốc sẽ nhận được thẻ cư trú vĩnh viễn.


Kết quả

Với tỷ lệ tự do hóa kinh tế đứng thứ 4, hệ số biến thiên của FDI là 0,81. Hàn Quốc là
một trong những quốc gia thu hút FDI nhiều nhất thế giới, quốc gia này đã chứng mình họ là
một thị trường năng động, là mảnh đất có tiềm năng thu được lợi nhuộn cao.
Trước những năm 1980, dòng vốn FDI vào Hàn Quốc rất nhỏ do đây không phải quốc
gia giàu tài nguyên và các chính sách hạn chế của chính phủ. Tuy nhiên với những thay đổi
như trên, dòng vốn FDI đã tăng từ 143.140.00 USD ở năm 1980 đến 422.350.000 USD vào
năm 1984 và sau khi quốc gia này mở cửa thêm 26 ngành sản xuất và vẫn hạn chế lĩnh vực
dịch vụ, con số này đã tăng gần gấp đôi từ 532.200.000 USD vào năm 1985 lên 1.063.851.000
USD vào năm 1987.
Năm 1993, với chính sách cho phép các quốc gia thành viên OECD được tiếp cận với thị
trường Hàn Quốc cùng với đó là việc mở cửa cho nhiều ngành công nghiệp bị hạn chế trước


đó, dòng vốn FDI đã tăng từ 1.044.270.000 USD năm 1993 lên 1.970.430.000 năm 1995 và
3.205.480.000 USD năm 1996.
Năm 1997 – 1998, trong bối cảnh khủng khoảng tài chính tiền tệ Châu Á, FDI Hàn
Quốc vẫn tăng mạnh từ 6.971.140.000 (1997) gấp đôi so với năm 1996.
Ngày 3/1/2018 Bộ Công nghiệp, thương mại và tài nguyên Hàn Quốc cho biết đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Hàn Quốc trong năm 2017 đã đạt 22,94 tỷ USD, tăng 7,7% so
với năm 2016. Đây là mức cao nhất từ trước đến nay, đồng thời cũng đánh dấu năm thứ ba
liên tiếp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hàn Quốc vượt ngưỡng 20 tỷ USD.
Trong đó, đầu tư từ Liên minh châu Âu (EU) trong năm 2017 là 7,06 tỷ USD, tăng 4,5%

so với năm 2016.
Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Hàn Quốc cũng tăng 21,5% so với năm 2016, đạt 4,71 tỷ USD.

FDI từ Nhật Bản cũng tăng 47,9% so với năm 2016, đạt 1,84 tỷ USD.
Xét quy mô đầu tư trên từng lĩnh vực thì đầu tư trang thiết bị, đầu tư vào nguyên liệu
mới, vào sinh hóa học đã đăng 41,2% so với năm 2016, đạt 7,25 tỷ USD.
Về ngành dịch vụ, FDI đối với các phân phối lưu thông, kinh tế kỹ thuật số và bất động
sản tăng lên nhưng đối với tài chính, bảo hiểm lại giảm xuống. Tổng FDI cho ngành dịch vụ
của Hàn Quốc năm 2017 là 15,46 tỷ USD, giảm 0,3% so với năm 2016.
Đầu tư thông qua hình thức bán lại và sát nhập (M&A) cũng tăng 15,4% đạt 7,24 tỷ USD.

c. Xu hướng đầu tư ra nước ngoài
Kể từ năm 1980 chính phủ nới lỏng, bãi bỏ các đạo luật, điều lệ gây hạn chế đầu tư ra
nước ngoài trước đây.
Từ năm 1991 đến nay, chính phủ đã mở rộng vai trò hoạt động của các tổ chức xúc tiến
thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ tích cực hơn các công ty Hàn Quốc đầu tư ra nước ngoài
thông qua việc cung cấp thông tin về thị trường đầu tư.
Trong cải cách hành chính, để tạo thuận lợi, nhanh chóng, tránh làm lỡ mất các cơ hội
đầu tư của các công ty, chính phủ đã ủy quyền phê chuẩn cấp giấy phép đầu tư cho Ngân
Hàng Hàn Quốc với những dự án có quy mô vốn từ 100.000 USD trở xuống.


19
Từ năm 2005, để giảm bớt áp lực lên hoạt động xuất khẩu do sự tăng giá đồng Won,
Hàn Quốc đã có nhiều động thái để khuyến khích các doanh nghiệp nước này đầu tư ra nước
ngoài. Cụ thể chính phủ sẽ miện thuế 3 năm cho các nhà đầu tư địa phương khi thực hiện đầu
tư ra nước ngoài, cho phép tăng mức đầu tư vào bất động sản, nới lỏng mức hạn chế trong
việc thành lập các chi nhánh nước ngoài của các doanh nghiệp tài chính trong nước.



Kết quả:

Vốn OFDI Hàn Quốc tăng nhanh từ xấp xỉ 22 tỷ USD năm 2007 lên hơn 28 tỷ USD
năm 2010, tương đương mức tăng từ 1% lên 2% tổng vốn OFDI thế giới.
Trong giai đoạn 2010 - 2014, Hàn Quốc luôn duy trì mức đầu tư ra nước ngoài cao trên 28
tỷ USD, trong đó đạt mức kỉ lục 30 tỷ USD năm 2012. Tuy sau đó mức đầu tư ra nước ngoài của
Hàn Quốc sụt giảm xuống chỉ còn 23,7 tỷ USD năm 2015, nhưng đã hồi phục nhanh chóng lên
mức xâp xỉ 30 tỷ USD năm 2016, tương đương 1,9% tổng vốn OFDI thế giới.

Theo Báo cáo đầu tư thế giới 2017 (UNCTAD), với mức đầu tư này, Hàn Quốc hiện giữ
vịtrí thứ 13 trong Top các nước có đầu tư ra nước ngoài lớn nhất năm 2016, tăng 3 bậc so với
năm 2015.
Theo báo cáo đầu tư quốc tế lần thứ VII của OECD 2018, tính đến hết quý III/2017,
Hàn Quốc đã đầu tư ra nước ngoài hơn 25,6 tỷ USD, tương đương gần 86% tổng vốn OFDI
của Hàn Quốc năm 2016.
Xét theo khu vực đầu tư, trong giai đoạn 1980 – 2016, Châu Á thu hút được nhiều nhất
vốn OFDI từ Hàn Quốc (40%), tiếp theo là Bắc Mỹ (26%) và Châu Âu (16%). Số lượng doanh

nghiệp Hàn Quốc được thành lập mới tại khu vực châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất với
47.394 doanh nghiệp, chiếm khoảng 67%. Số lượng doanh nghiệp Hàn Quốc tại Bắc Mỹ là
14.411, chiếm 21%.
Từ năm 1980 đến nay, đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào các
ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo; Khai khoáng; Tài chính và bảo hiểm; Bán buôn bán lẻ;
Bất động sản và cho thuê. Đây đều là những ngành phù hợp với thế mạnh và nhu cầu của kinh
tế Hàn Quốc. Năm lĩnh vực này chiếm đến hơn 80% vốn đầu tư của Hàn Quốc. Trong đó, các
doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đạt gần 153 tỷ
USD, chiếm 30%, khai khoáng là 100 tỷđô la Mỹ, chiếm 20% tổng OFDI của Hàn Quốc.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, Việt Nam là một thị trường ưa thích của các nhà đầu tư
Hàn Quốc. Tính đến tháng 6 năm 2018, Hàn Quốc đứng đầu trong số các quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư vào Việt Nam. Tổng vốn đăng ký của Hàn Quốc là 61,67 tỉ USD, chiếm 18,6%



20
tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp Hàn Quốc hiện
chiếm tới một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (với vai trò chủ đạo của
Samsung).
Những khoản đầu tư khổng lồ đã bước đầu mang lại lợi nhuận cho quốc gia này. Đáng chú
ý là con lợi nhuận từ nước ngoài của các Ngân hàng Hàn Quốc cao kỷ lục trong năm 2018.

Trong nửa đầu năm 2018, bốn ngân hàng thương mại Hàn Quốc gồm Shinhan, Woori,
KEB Hana và KB Kookmin đã ghi nhận 527,2 tỷ won (471,4 triệu USD) lợi nhuận ròng từ
chi nhánh nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài thông qua ngân hàng đầu tư và quản lý tài sản.
Con số này đã tăng 5% so với nửa đầu năm 2017, chủ yếu là nhờ mức tăng 20% trong
thu nhập ròng của các chi nhánh nước ngoài, tổng cộng 77,1 tỷ won.
Lợi nhuận ở nước ngoài của 4 ngân hàng thương mại và số lượng của các chi nhánh
mạng của họ đã được tăng lên ổn định. Thu nhập ròng hàng năm của bốn ngân hàng này tăng
25% trong 2 năm lên 865,1 tỷ won trong năm 2017. Từ năm 2015 đến năm 2017, lợi nhuận
ròng từ hoạt động kinh doanh ở nước ngoài chiếm 14,2%.
Cũng trong hai năm tới 2017, số lượng chi nhánh nước ngoài - bao gồm các tập đoàn,
chi nhánh và văn phòng - của tất cả các ngân hàng Hàn Quốc đã tăng 8,8% lên 185. Trong đó,
số lượng chi nhánh ở các nước châu Á là 129. Tổng tài sản của tất cả các tổ chức này tăng
18,8% đạt 104,9 tỷ USD.

2.3.3. Chính sách giáo dục
Một nguyên nhân khác nữa lý giải cho sự phát triển kinh tế mạnh mẽ đó là Hàn Quốc
đã có một nền giáo dục tốt và một đội ngũ lao động có trình độ. Xuất phát điểm là một quốc
gia nghèo tài nguyên, Hàn Quốc không có gì ngoài nguồn nhân lực dồi dào. Tận dụng lợi thế
này cùng với truyền thống hiếu học của dân tộc, ngay từ đầu Chính phủ Hàn Quốc đã đề cao
vai trò của giáo dục, coi giáo dục như một ưu tiên chiến lược hàng đầu, là nền tảng để xây
dựng đất nước.

Từ trước khi nền kinh tế cất cánh, giáo dục ở Hàn Quốc đã khá được coi trọng. Nhờ việc
thực thi luật giáo dục bắt buộc năm 1948, tỷ lệ nhập học các cấp đã gia tăng nhanh chóng trong
giai đoạn 1945-1961. Tính đến năm 1960, có khoảng 56% dân số trưởng thành ở Hàn Quốc tiếp
cận với giáo dục tiểu học và 20% đạt được giáo dục trung học, cao hơn nhiều so với


21
con số của các nước đang phát triển lúc bấy giờ (lần lượt là 26% và 5%). Kết quả là, lực
lượng lao động ở Hàn Quốc được trải qua đào tạo cơ bản từ rất sớm. Sau đó, mặc dù bị ảnh
hưởng nặng nề bởi chiến tranh, song vai trò của giáo dục không vì thế mà bị lơ là. Kể từ
những năm 1960, chính sách giáo dục của Hàn Quốc liên tục thay đổi để có thể đạt được các
mục tiêu đề ra trong các kế hoạch kinh tế và đáp ứng sự thay đổi nhu cầu của thị trường.
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Chính phủ Hàn Quốc đặt nhiều sự quan tâm đến giáo
dục trung học cơ sở nhằm cung cấp một đội ngũ lao động thích hợp và kịp thời cho sản xuất
quy mô lớn trong các ngành chế tạo. Tuy nhiên, kể từ đầu những năm 1980, chính phủ lại
hướng sự tập trung vào phát triển giáo dục phổ thông và đại học với mục đích tạo ra một đội
ngũ lao động chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao.
Điều này được thể hiện rõ trong chi tiêu của Chính phủ Hàn Quốc dành cho giáo dục. Theo
số liệu của Viện phát triển giáo dục Hàn Quốc, tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục đại học trong
GDP tăng từ 1% năm 1970 lên tới 1,9% năm 2000; trong khi đó, con số dành cho giáo dục
tiểu và trung học giảm từ 4,3% xuống còn 3,9% trong cùng kỳ.
Nhờ sự coi trọng đầu tư cho giáo dục, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Ngay từ
năm 1970, tỷ lệ gia nhập bậc tiểu học đã đạt 100%. Tỷ lệ mù chữ giảm từ trên 10% năm 1970
xuống gần như bằng không năm 1997. Tỷ lệ nhập học bậc trung học đạt mức 40% năm 1970 và
gần như phổ cập vào năm 1997. Còn đối với giáo dục phổ thông, Hàn Quổc đứng thứ 3 trong số
các quốc gia OECD về trình độ đạt được, và có tới 84% số học sinh tốt nghiệp phổ thông gia
nhập các trường đại học và cao đẳng vào năm 1998. Như vậy, có thể thấy, giáo dục

ở Hàn Quốc phát triển khá nhanh chóng. Điều này giúp tăng năng lực cũng như trình độ của
người lao động, giúp họ có thể tiếp thu những tiến bộ công nghệ và đáp ứng kịp thời nhu

cầu của nền kinh tế.

2.3.4. Chính sách công nghệ
Ở Hàn Quốc, vai trò của khoa học và công nghệ đã được chú ý từ đầu những năm 1960.
Cùng với sự ra đời của kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ nhất là bản kế hoạch thúc đẩy công
nghệ 5 năm đầu tiên. Qua thời gian, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện những điều chỉnh chính
sách sao cho phù hợp với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, chính phủ chú
trọng đến xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghệ trong giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hóa và chuyển hướng sang phát triển những công nghệ mũi nhọn về sau này.


22
Đầu những năm 1960, hai cơ quan được thành lập, bao gồm cơ quan nghiên cứu Viện
Khoa học – Kỹ thuật Hàn Quốc (KIST) (1966) và Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST)

(1967) đã mở đường cho công cuộc phát triển khoa học công nghệ ở Hàn Quốc. Chiến lược
chính của thời kỳ này là tăng cường nhập khẩu công nghệ nước ngoài, xây dựng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và thúc đẩy giáo dục, đào tạo. Trong những năm 1970, phát triển khoa học công
nghệ vẫn còn nhiều hạn chế do công nghệ dành cho các ngành công nghiệp xuất khẩu cần
nhiều lao động cũng như các ngành công nghiệp nặng và hóa chất có thể dễ dàng đạt được từ
nước ngoài. Nhìn chung, trong thời kỳ đầu, chính sách khoa học công nghệ của Hàn Quốc
chủ yếu tập trung vào việc giới thiệu, tiếp thu và áp dụng công nghệ nước ngoài. Chỉ từ
những năm 1980, chính sách khoa học công nghệ mới có những thay đổi đáng kể, hướng đến
nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc gia thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động
nghiên cứu và triển khai (R&D). Năm 1982, chương trình R&D quốc gia ra đời. Kể từ đó, các
hoạt đ ộng khoa học và công nghệ ở Hàn Quốc bắt đầu nở rộ. Điều này được thể hiện qua số
liệu về chi tiêu cho R&D. Nếu như năm 1963 chi tiêu cho R&D chỉ chiếm 0,25% GDP thì
đến năm 1991 con số này đã tăng lên tới 1,74% và tiếp tục gia tăng trong những năm sau đó.
Đến năm 1996, chi tiêu cho R&D chiếm tới 2,26% GDP, cao hơn so với mức trung bình của
các nước OECD (2,01%). Với sự đầu tư thích đáng cho khoa học công nghệ, hiệu suất của

nền kinh tế Hàn Quốc nhờ vậy mà tăng lên. Chúng ta có thể thấy rằng, năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP) đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1982- 1995 (44%) – gia
tăng vượt bậc so với con số chi 6% giai đoạn 1970-1982.
Giai đoạn Hàn Quốc tự cải tiến và phát triển công nghệ (giữa những năm 90 đến những
năm 2000). Hàn Quốc có được sức cạnh tranh trên thế giới trong các ngành công nghiệp chủ
lực và bắt đầu tự phát triển các công nghệ dẫn đầu thế giới, công nghệ tiên tiến vượt trội. Hàn
Quốc đặt ra tiêu chuẩn cho ngành thông tin di động không dây quốc tế (năm 1994) khi lần
đầu tiên trên thế giới phát minh ra 64M DRAM (năm 1992) và làm ra công nghệ CDMA.
Hơn nữa, thông qua việc liên tục nghiên cứu phát triển động cơ máy móc, Hàn Quốc bắt
đầu xuất khẩu động cơ với tính năng được cải tiến ra thị trường nước ngoài (năm 2004).
Trong giai đoạn này, cả doanh nghiệp tư nhân lẫn các trường đại học tất cả đều sở hữu năng
lực nghiên cứu phát triển công nghệ công nghiệp ở trình độ cao.


23
Hàn Quốc trải qua các giai đoạn thay đổi và củng cố “hệ thống đổi mới quốc gia” và đã
thành công trong việc phát triển như một nước theo sau nhưng tiến với tốc độ nhanh (fast
follower). Trong giai đoạn đầu, trình độ phát triển công nghệ định hướng đáp ứng nhu cầu của
các ngành công nghiệp; nhưng từ sau năm 2000, đã chứng kiến sự tiếp nối của việc nâng cao
năng lực nghiên cứu phát triển quốc gia và sự trưởng thành của các doanh nghiệp công nghệ
cao trong lĩnh vực ICT ở Hàn Quốc. Cùng với việc làm chủ công nghệ cao và đào tạo nguồn
nhân lực cao cấp, Hàn Quốc đã trở thành “đầu tàu” tiến bước vào nhóm các nước có thu nhập
trên trung bình. Từ năm 2000 về sau, Hàn Quốc được gọi là người theo sau thông minh (smart
follower) và người mở đường (path mover).


24

CHƯƠNG 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1. Việt Nam và thực trạng sập bẫy thu nhập trung bình

3.1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại
Theo Chu Văn Cấp và Nguyễn Đức Hải (2015), minh chứng đầu tiên về nền kinh tế rơi
vào bẫy thu nhập trung bình là tăng trưởng kinh tế chậm lại. Việt Nam bắt đầu quá trình đổi
mới toàn diện từ năm 1986 và bước đầu đạt được những thành công nhất định. Biểu hiện rõ
nét nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh. Như hình 3.1, giai đoạn 1986 – 1990, giai
đoạn đầu của công cuộc đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP đã tăng lên và đạt đỉnh 7,4%/năm
vào năm 1989. Giai đoạn 1991 – 1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, đặc biệt là năm 1995
Việt Nam gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN giúp tốc độ tăng trưởng đạt
9,5%/năm, đây cũng là tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất của Việt Nam từ trước đến nay.
Hình 3.1: Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Việt Nam giai đoạn 1985-2017
Đơn vị: Phần trăm (%)

Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của Việt Nam năm 1985-2017
12,0
10,0
8,0
6,0
4,0
2,0

2012
2013
2014
2015
2016
2017

1994
1995

1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011

1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993

1985

0,0


Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ số liệu của Ngân hàng Thế giới World Bank
Giai đoạn 1996 – 2000, tốc độ tăng trưởng giảm dần do chịu sự tác động của cuộc khủ ng
hoảng tài chính Châu Á, dù vậy vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP đạt 7%. Bình quân từ năm 1991
– 2000 GDP tăng 7,6%/năm. Sau khi khắc phục các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực giai đoạn 1997 – 1998, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ từ
khoảng năm 2000. Tăng trưởng dần dần tăng tốc từ năm 2001 và đạt mức cao nhất 7,55% trong
năm 2005. Nhịp độ sản xuất, tiêu dùng trong nước ở mức khá cao. Tuy nhiên sự tăng


25
trưởng này do bong bóng bất động sản, chính sách nới lỏng tín dụng, không phải do tăng năng
suất hay tăng năng lực cạnh tranh. Từ năm 2006 trở đi, tăng trưởng của Việt Nam không ổn
định và có xu hướng giảm sút. Trong khi đó Việt Nam lại là một nền kinh tế tương đối trẻ với
tiềm năng phát triển cao hơn nữa, thì tăng trưởng 5 – 6% là một vấn đề đáng báo động. Cùng
với xu hướng giảm tăng trưởng, Việt Nam sẽ sớm phải đối mặt với vấn đề gì hóa dân số, gánh
nặng an sinh xã hội và các vấn đề xã hội khác.

3.1.2. Năng suất lao động thấp
Theo Lê Hà Thanh (2015), năng suất lao động là một dấu hiệu của việc mắc bẫy thu nhập
trung bình. Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng
tăng đều qua các năm nhưng hiện nay vẫn là rất thấp so với nhiều nước trong khu vực.

Theo Nguyễn Mạnh Hùng (2019), tính theo mức tương đương năm 2011, năng suất lao
động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7% mức năng suất của Singapore;
bằng 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; bằng 42,3% của Indonesia, bằng 56,7% của
Philippines. Đặc biệt là mức chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước
vẫn tiếp tục gia tăng. Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) cho tăng
trưởng GDP của Việt Nam còn ở mức rất thấp. So sánh với các quốc gia khác, giai đoạn 2001
– 2010, Việt Nam chỉ đạt tỷ lệ 4,3%, trong khi tỷ lệ này ở Hàn Quốc là 51,3%; Malaysia đạt
36,2%; Thái Lan đạt 36,1%; Trung Quốc đạt 35,2%; Ấn Độ đạt 31,1%.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động của Việt Nam thấp so với các
nước trong khu vực là do người lao động Việt Nam chỉ đảm nhận các công việc gia công,
nguồn lao động giá rẻ là lợi thế của nền kinh tế. Bên cạnh đó, Doanh nghiệp Việt hiện nay
phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 90%, với công nghệ sản xuất thấp. Vì vậy,
nâng cao năng suất lao động là một bài toán khó của chính phủ và toàn xã hội Việt Nam.

3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm lại
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia vừa là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng
trưởng kinh tế vừa phản ánh bản chất của quá trình công nghiệp hoá. Trong điều kiện hội nhập
kinh tế toàn cầu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh bản chất quá trình công nghiệp hoá, khả
năng thích nghi và mức độ hội nhập quốc tế của quốc gia về kinh tế.
Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP trong những năm gần đây, cơ
cấu ngành kinh tế ở Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực. Tỉ trọng


26
ngành công nghiệp có xu hướng giảm dần qua các năm, cùng với đó là tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ đã có sự cải thiện.
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, tính đến hết năm 2018, đóng góp vào tăng trưởng
của hai ngành Công nghiệp và Dịch vụ chiếm khoảng 90% tăng trưởng toàn kinh tế. Điều này
chứng tỏ xu thế tiến bộ, phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và củng cố tiềm
lực kinh tế đất nước.
Bảng 3.1: Cơ cấu GDP theo ngành qua các năm ở Việt Nam
Năm

Cơ cấu GDP (%)
Nông nghiệp

Công nghiệp


Dịch vụ

2001

23,24

38,13

38,63

2010

20,30

41,10

38,60

2011

19,57

32,24

36,74

2012

19,22


33,55

37,27

2013

17,96

33,20

38,74

2014

17,70

33,22

39,40

2015

17,00

33,25

39,73

2016


16,32

32,72

40,92

2017

15,34

33,34

41,33

2018

14,57

34,28

41,17

Nguồn: Tổng cục thống kê
(2018)
Lưu ý: dữ liệu không bao gồm tỷ trọng toàn bộ các ngành trong nền kinh tế
Có thể thấy, quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam thiên về chiều rộng, thiếu những thay
đổi về chất đặc biệt là sự thay đổi cơ bản cơ cấu. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam vẫn
chưa thật sự có những chuyển biến rõ rệt khi tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp và công
nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Mặc dù không có sự đảo lộn lớn do chuyển dịch cơ cấu quá



27
nhanh nhưng việc chuyển dịch chậm tiềm ẩn yếu tố không bền vững trong tăng trưởng đòi hỏi
chi phí điều chỉnh lớn.

3.1.4. Không có sự cải thiện trong các bảng xếp hạng kinh tế toàn cầu
Vị trí của Việt Nam trong bảng xếp hạng dựa trên ba chỉ số của hoạt động kinh tế: khả
năng cạnh tranh, môi trường kinh doanh và tự do kinh tế. Có thể thấy, Việt Nam không được
xếp hạng cao như kỳ vọng đối với một nước có thu nhập trung bình thấp.
Bảng 3.2: Xếp hạng Việt Nam dựa trên 3 chỉ số hoạt động kinh tế từ 2 006-2013
Xếp hạng tính cạnh
tranh toàn cầu - Diễn
đàn kinh tế Thế giới
(World Economic
Forum)

Mức độ dễ dàng thực

Chỉ số tự do kinh tế -

hiện hoạt động kinh

Tự do kinh tế thế giới

doanh - Ngân hàng Thế

(Economics Freedom of

giới (World Bank)


the World)

Số quốc gia

144

Số liệu phía dưới

154

2006

77

99/155

99

2007

68

104/175

105

2008

70


91/178

107

2009

75

92/181

93

2010

59

93/183

102

2011

65

78/183

122

2012


75

98/183



2013

70

99/183



2017

77



Ghi chú: Số liệu trong bảng thể hiện mức độ xếp hạng của Việt Nam. Chỉ số càng thấp
thể hiện hiệu quả của nền kinh tế càng cao. Chỉ số xếp hạng tính cạnh tranh toàn cầu giai
đoạn 2007 - 2013 được tính cho các năm 2007 - 2008, 2008 – 2009... theo các báo cáo chính
thức. Đối với Chỉ số tự do kinh tế, quan sát mới đây nhất là năm 2011.


×