Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vấn đề môi trường trong TPP và vấn đề đặt ra với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.2 KB, 30 trang )

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TPP.
Lịch sử hình thành.
Nguồn gốc.
Đàm phán Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn gốc từ
Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp định thương mại tự do
được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 nước Singapore, Chile,
New Zealand, Brunei.

Quá trình tham gia của các nước vào TPP.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp
định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả năng
nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu tiến hành
nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về vấn đề này.
Tháng 9/2008, USTR1 thông báo quyết định của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở
rộng và chính thức tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính với các nước P4. Từ thời điểm này, Hiệp định P4 chính thức được đổi tên thành
TPP – Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans Pacific Partnership).
Tháng 11 năm 2008, Australia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP. Kể từ đó, các vòng
đàm phán TPP được lên lịch và diễn ra cho đến nay.

1Văn phòng đại diện thương mại Hoa Kỳ


Tuy nhiên, đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối 2009 do phải chờ đợi Hoa Kỳ
hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng thống Obama tham
vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009, USTR mới thông báo
quyết định của Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này
đàm phán TPP mới được chính thức khởi động.
Từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực mời Việt Nam tham gia TPP –
P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam chưa nhận lời


mời này của Singapore.
Tuy nhiên, trước khi tuyên bố tham gia TPP, Hoa Kì đã mời Việt Nam cùng tham gia
Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc lại việc tham gia hay không tham gia TPP.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách thành viên
liên kết. Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách này,
Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP.
Trước đó, tháng 10 năm 2010, Malaysia cũng chính thức tham gia vào TPP.
Tính đến nay đã có 12 quốc gia tham gia đàm phán TPP gồm: Australia, Brunei,
Canada, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Việt Nam, Hoa Kì và
thành viên mới nhất là Nhật Bản (15/3/2013).


Phạm vi, nội dung và xu hướng đàm phán trong TPP.
Phạm vi đàm phán .
TPP là sự tham gia của nền kinh tế lớn nhất thế giới (Hoa Kỳ) vào một khu vực có tốc
độ phát triển thương mại cũng như tự do hóa thương mại thuộc bậc nhất thế giới (châu
Á – Thái Bình Dương). Hoa Kỳ kì vọng đây sẽ là “Hiệp định thương mại tự do của thế
kỉ 21” với mong muốn đằng sau đó là TPP sẽ có phạm vi lớn nhất có thể, và mức độ
mở cửa rộng nhất có thể.
Hiệp định được dự đoán là sẽ bao gồm các vấn đề: thuế quan, dịch vụ, đầu tư, sở hữu
trí tuệ, các hàng rào phi thuế quan (như biện pháp SPS, TBT), lao động và một số vấn
đề phi thương mại khác. Ngoài ra, TPP dự kiến sẽ bao trùm cả những cam kết về
những vấn đề xuyên suốt như sự hài hòa giữa các quy định pháp luật, tính cạnh tranh,
vấn đề hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi cung ứng, hỗ trợ phát triển…

Xu hướng đàm phán của TPP.
Xu hướng đàm phán của TPP được dự đoán là “đầy tham vọng” với nội dung cụ thể
được dự đoán như sau:



Thuế quan: Cắt giảm hầu hết các dòng thuế (ít nhất 90%), thực hiện ngay hoặc



thực hiện với lộ trình rất ngắn.
Dịch vụ: Tăng mức độ mở cửa các lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài

chính.
 Đầu tư: Tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài và bảo vệ


nhà đầu tư.
Quyền sở hữu trí tuệ: Tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cao hơn so
với mức trong WTO (WTO+).




Các biện pháp SPS, TBT (Bảo vệ tính mạng, sức khỏe) : Siết chặt các yêu cầu về



vệ sinh dịch tễ và rào cản kĩ thuật.
Cạnh tranh và mua sắm công: Tăng cường cạnh tranh, đặc biệt trong lĩnh vực

mua sắm công.
 Các vấn đề lao động: Đặc biệt là các vấn đề về quyền lập hội (công đoàn),
quyền tập hợp và đàm phán chung của người lao động, quy định cấm sử dụng
mọi hình thức lao động cưỡng bức, quy định cấm khai thác lao động trẻ em, quy
định không phân biệt đối xử trong lực lượng lao động.

 Các vấn đề phi thương mại khác: Tăng yêu cầu về môi trường.

Sơ lược diễn biến đàm phán của TPP.
Về diễn biến đàm phán của TPP, tính đến nay đã trải qua 19 vòng. Vòng đàm phán TPP
đầu tiên được tiến hành tại Melbourn, Australia vào tháng 3/2010. Năm 2010 đã chứng
kiến 4 vòng đàm phán trong khuôn khổ TPP. Mặc dù trải qua 4 Vòng đàm phán chính
thức (và một Vòng đàm phán giữa kỳ tại Peru tháng 8/2010), nhưng chưa có sự thống
nhất nào về phạm vi đàm phán. Tuy nhiên, đó cũng được xem là một thành công tương
đối của TPP so với tốc độ đàm phán các FTA thường thấy. Các nước được xem là đã
đạt được nhất trí cơ bản trong các nguyên tắc đàm phán và đã thiết lập được khuôn khổ
cho các cam kết nền (kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cạnh tranh…).
Càng đi vào các vòng đàm phán sau thì các vấn đề càng trở nên phức tạp và nhiều mâu
thuẫn hơn nên đến vòng 16 các nước mới chỉ hoàn thành được 3 vấn đề là Hải quan,
Viễn thông, Hài hòa pháp lý và phát triển. Các vấn đề khác đều đang còn rất nhiều
tranh cãi mặc dù sau mỗi vòng đàm phán đều được tuyên bố là “đã đạt được những tiến
triển đáng kể”.
Năm 2013 được đánh giá là một năm quan trọng đối với đàm phán TPP lại với một
mục tiêu là kết thúc đàm phán vào cuối năm.Vì thế, lịch trình đàm phán được lên dày


đặc: vòng đàm phán thứ 16 vừa diễn ra vào tháng 3, vòng đàm phán thứ 17 vào tháng
5, vòng đàm phán thứ 18 vào tháng 7 và mới đây nhất là vào tháng 8 với vòng đàm
phán thứ 19 tại Brunei.
Vòng đàm phán thứ 19 mới đây nhất được xem là vòng đàm phán có tính quyết định
khi chỉ còn chưa đầy 2 tháng là đến hạn chót mà các bên phải hoàn tất đàm phán Hiệp
định. Tại vòng đàm phán này, các vấn đề được đàm phán là quy tắc xuất xứ, môi
trường, dịch vụ tài chính, mua sắm chính phủ và các quy định đối với doanh nghiệp
nhà nước. Tuy nhiên thì vấn đề dệt may, da giày vẫn chưa được chốt. Vòng đàm phán
TPP lần thứ 19 cũng ghi nhận sự tham gia lần thứ 2 của các thành biên mới là Nhật
Bản. Tuy nhiên, việc có thêm thành viên mới có thể sẽ ảnh hưởng tới tiến độ đàm phán

TPP như Nhật Bản. Bên cạnh Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines và Thái Lan
cũng đã bày tỏ quan tâm đến TPP.


CHƯƠNG 2 : VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TRONG TPP.
TPP – Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương, được đánh giá là một
trong những cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam trong năm 2014. Để có thể hội nhập sâu
hơn vào kinh tế thế giới, Việt Nam cần phải giải quyết hàng loạt những thách thức, rào
cản mà TPP đặt ra. Một trong số đó là vấn đề môi trường, vấn đề mà các nước TPP
đang tìm tiếng nói chung về hợp tác trong các đàm phán.
Chương về Môi trường do các Bên đề xuất sẽ là các quan điểm của họ về các vấn đề
môi trường bao gồm thương mại và đa dạng sinh học; các loài sinh vật ngoại lai;
thương mại và biến đổi khí hậu; dự trữ đánh bắt cá; bảo tồn và thương mại; thương mại
và đầu tư trong các hàng hóa và dịch vụ “môi trường”… Văn bản phác thảo tăng cường
từng được các Chủ tịch Nhóm Làm việc về Môi trường chuẩn bị, theo yêu cầu của các
Bộ trưởng TPP tại vòng đàm phán lần thứ 19 diễn ra từ ngày 23-30/8/2013 tại Bandar
Seri Begawan, Brunei. Các nội dung chuyên môn về Môi trường đang được xem xét
như sau:

Thương mại và đa dạng sinh học.
-

Thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo tồn và sử dụng bền vững sự đa dạng sinh học

-

và vai trò quan trọng của nó trong việc đạt được phát triển bền vững.
Cam kết khuyến khích, thúc đẩy việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học và
chia sẻ một cách công bằng, hợp lý các lợi ích phát sinh từ việc sử dụng tài nguyên di


-

truyền.
Các bên nhắc lại cam kết, tùy thuộc vào luật pháp quốc gia, tôn trọng, bảo tồn và duy
trì kiến thức, đổi mới, tập quán của dân bản địa và cộng đồng địa phương, lối sống
truyền thống có liên quan để bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, và khuyến
khích việc chia sẻ công bằng lợi ích phát sinh từ việc sử dụng các kiến thức, đổi mới và
thực tiễn.


-

Thừa nhận quyền chủ quyền của các quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên của họ, và
thẩm quyền xác định tiếp cận nguồn gen thuộc về các chính phủ quốc gia và luật pháp

-

quốc gia.
Tùy thuộc vào luật pháp quốc gia về việc tiếp cận nguồn gen cho việc sử dụng của họ,
thì nơi cấp nên được sự đồng ý thông báo trước của bên cung cấp nguồn tài nguyên
này, trừ trường hợp được xác định bởi bên đó. Hơn nữa, các bên nhận ra rằng lợi ích
phát sinh từ việc sử dụng các nguồn tài nguyên di truyền cần được chia sẻ một cách

-

công bằng và hợp lí.
Khẳng định tầm quan trọng của công chúng tham gia và tham vấn, như quy định của
pháp luật hay chính sách trong nước, về các vấn đề liên quan đến bảo tồn và sử dụng
bền vững đa dạng sinh học. Mỗi bên phải công bố công khai thông tin về các chương
trình và các hoạt động, bao gồm cả các chương trình hợp tác, liên quan đến bảo tồn và


-

sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
Cam kết tăng cường nỗ lực hợp tác trong các lĩnh vực, cũng quan tâm đến đa dạng sinh
học. Hợp tác có thể bao gồm trao đổi thông tin, và kinh nghiệm trong các lĩnh vực liên
quan đến:
• Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học;
• Bảo vệ và duy trì hệ sinh thái và các dịch vụ hệ sinh thái;
• Sự chia sẻ công bằng và hợp lý các lợi ích phát sinh từ việc sử dụng nguồn gen,
bao gồm cả tiếp cận phù hợp với nguồn tài nguyên di truyền.

Các loài xâm hại ngoại lai.
-

Diễn biến của các loài xâm hại ngoại lai trên cạn và dưới nước qua biên giới thông qua
con đường thương mại có thể ảnh hưởng xấu đến môi trường, hoạt động phát triển kinh
tế, sức khỏe con người nên việc phòng ngừa, phát hiện, kiểm soát và xóa bỏ các loài

-

ngoại lai xâm hại là những chiến lược quan trọng đối với quản lý các tác động này.
Theo đó, hội đồng thường trực sẽ phối hợp với Ủy ban vệ sinh xác định các cơ hội hợp
tác chia sẻ thông tin và kinh nghiệm quản lý về diễn biến, phòng ngừa, phát hiện, kiểm


soát và diệt trừ loài ngoại lai xâm lấn, nhằm tăng cường các nỗ lực để đánh giá, giải
quyết các rủi ro và tác động tiêu cực của các loài ngoại lai xâm hại.

Thương mại và biến đổi khí hậu.

-

Biến đổi khí hậu là một mối quan tâm toàn cầu đòi hỏi phải có sự hành động tập thể.
Các bên thừa nhận mong muốn rằng: Các chính sách thương mại và biến đổi khí hậu

-

tác động, hỗ trợ lẫn nhau, và các biện pháp đối phó nên được đầu tư hiệu quả
Các bên đồng ý rằng việc chuyển đổi và thích ứng phản ánh hoàn cảnh, khả năng trong
nước và những nỗ lực đạt được trong một loạt các diễn đàn quốc tế để: nâng cao hiệu
quả năng lượng, phát triển công nghệ các-bon thấp và nguồn năng lượng tái tạo; thúc
đẩy giao thông bền vững và phát triển cơ sở hạ tầng, đô thị bền vững; phát triển hành

-

động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thấy được sự phù hợp của các công cụ chính sách môi trường và kinh tế đóng vai trò
trong việc đạt được mục tiêu về thay đổi khí hậu trong nước và góp phần cho các mục
tiêu đó ở cấp độ quốc tế. Từ đó, các bên đã đồng ý đưa ra bàn luận 1 số vấn đề trọng
điểm như:
• Những bài học và kinh nghiệm thực tiễn trong việc xây dựng áp dụng & triển khai
các cơ chế để giảm thiểu khí thải cacbon, bao gồm các công cụ thị trường và phi thị
trường;
• Kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng, thi hành và củng cố công cụ luật pháp;
• Những bài học & kinh nghiệm thực tiễn để đẩy mạnh tính minh bạch và tính chính

-

xác của các công cụ đó.
Hợp lý hoá và loại bỏ trợ cấp trung hạn cho nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả cái mà

khuyến khích tiêu thụ lãng phí.

Khai thác thủy sản biển.
-

Các bên thừa nhận vai trò của họ như là người tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh sản
phẩm thủy sản lớn, và nhận ra tầm quan trọng của ngành thủy sản biển đối với sự phát


triển và với kế sinh nhai của cộng đồng ngư dân, bao gồm cả đánh bắt thủ công hoặc
-

đánh bắt thủy sản quy mô nhỏ.
Về vấn đề này, các bên thừa nhận rằng việc quản lí nghề cá cùng với trợ cấp thủy sản
không đầy đủ góp phần vào việc đánh bắt quá mức, dư thừa và bất hợp pháp. Việc đánh
bắt cá không qua báo cáo và không được kiểm soát có thể tác động tiêu cực đến thương
mại, phát triển và môi trường; do đó, cần thiết những hành động của cá nhân và tập thể
để giải quyết những vấn đề về đánh bắt quá mức và sử dụng không bền vững nguồn lợi

-

thủy sản.
Theo đó, mỗi bên sẽ tìm cách vận hành một hệ thống quản lý nghề cá, tức những quy
định về vùng biển đánh bắt, những quy chế đặt ra để ngăn chặn đánh bắt quá mức và
dư thừa, giảm thiểu việc đánh bắt những loài không nằm trong mục tiêu và cá con, kể
cả thông qua những quy định về ngư cụ, những ngư cụ trong đánh bắt và khu vực đánh
bắt có khả năng dùng được, để thúc đẩy sự phục hồi của tất cả các loài hải sản bị khai

-


thác quá mức nơi các hoạt động đánh bắt cá diễn ra.
Dựa trên những bằng chứng khoa học tốt nhất sẵn có, hệ thống quản lý nghề cá của
mỗi bên cần thúc đẩy việc bảo tồn lâu dài các loài cá mập, rùa biển, chim biển, và các
loài động vật có vú, thông qua việc thực hiện và thực thi hiệu quả công tác bảo tồn và

-

các biện pháp quản lí thích hợp.
Các bên cũng nhận ra tầm quan trọng của việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển.

Bảo tồn và Thương mại.
-

Các bên khẳng định tầm quan trọng của cuộc chiến chống buôn bán và cất trữ thực vật
hoang dã bất hợp pháp và trái phép, và thừa nhận rằng thương mại như vậy sẽ làm suy
yếu những nỗ lực để bảo tồn và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, như vậy làm
biến dạng thương mại hợp pháp trong thực vật hoang dã, và làm giảm giá trị kinh tế và

-

môi trường của các tài nguyên thiên nhiên.
Khẳng định cam kết của mình để có biện pháp để đảm bảo rằng thương mại quốc tế
của hệ thực vật và động vật hoang dã không đe dọa sự tồn tại của loài đó bằng cách


thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực
-

vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES).
Các bên cam kết thúc đẩy bảo tồn và chống cất trữ, kinh doanh bất hợp pháp thực vật

hoang dã. Cuối cùng, các bên có trách nhiệm:
• Trao đổi thông tin và kinh nghiệm về các vấn đề cùng quan tâm liên quan đến chống
cất trữ trái phép, và buôn bán trái phép thực vật hoang dã, đấu tranh chống khai
thác gỗ bất hợp pháp và buôn bán trái phép liên quan
• Thực hiện các hoạt động chung thích hợp về các vấn đề bảo tồn quan tâm lẫn nhau,

-

kể cả thông qua các diễn đàn có liên quan trong khu vực và quốc tế.
Mỗi bên cam kết tiếp tục:
• Thực hiện các biện pháp thích hợp để bảo vệ và bảo tồn động thực vật hoang dã có ở
lãnh thổ của mình, bao gồm cả các biện pháp để bảo tồn tính toàn vẹn của các khu
bảo tồn thiên nhiên;
• Duy trì hoặc tăng cường năng lực của chính phủ và khuôn khổ thể chế để thúc đẩy
quản lý rừng bền vững và bảo tồn động thực vật hoang dã.
• Cố gắng để phát triển và tăng cường hợp tác, tham vấn với các tổ chức phi chính

phủ quan tâm nhằm tăng cường thực hiện các biện pháp chống lại cất trữ trái phép
-

hoặc buôn bán trái phép động vật hoang dã và thực vật.
Mỗi bên sẽ thông qua hoặc duy trì các biện pháp thích hợp cho phép hành động để
ngăn cấm việc buôn bán, trung chuyển hoặc giao dịch các loài động vật và thực vật
trên lãnh thổ của mìnhCác biện pháp đó phải bao gồm biện pháp trừng phạt hoặc hình
phạt ở mức có thể hoạt động như một hành động răn đe đối với thương mại, trung
chuyển, giao dịch các mặt hàng này.

Hàng hóa và dịch vụ môi trường
-


Thừa nhận tầm quan trọng của thương mại và đầu tư trong hàng hóa và dịch vụ môi
trường như một phương tiện cải thiện hiệu suất môi trường và kinh tế, cũng như giải
quyết các thách thức môi trường toàn cầu.


-

Theo đó, mỗi bên phù hợp với hoàn cảnh quốc gia mình, xóa bỏ tất cả các loại thuế
quan khi nhập cảnh trên một loạt các hàng hóa môi trường, và trên tất cả các sản phẩm

-

khác càng sớm càng tốt.
Công nhận tầm quan trọng của dịch vụ môi trường trong việc hỗ trợ thương mại hàng
hóa môi trường và cung cấp các lợi ích đúng đắn của riêng mình, phù hợp với hoàn

-

cảnh quốc gia.
Các bên sẽ nỗ lực để giải quyết bất kỳ rào cản tiềm năng thương mại được xác định bởi
một bên, bao gồm cả cách làm việc thông qua các hội đồng kết hợp với các bên TPP có

-

liên quan khác.
Các bên có thể phát triển các dự án hợp tác song phương và đa phương về môi trường
hàng hóa và dịch vụ để giải quyết các vấn đề thương mại hiện tại và tương lai liên quan
đến môi trường toàn cầu.
Nhìn toàn cục, các đàm phán về môi trường vẫn là một trong những lĩnh vực khó khăn
nhất trong các vòng đàm phán TPP do các quốc gia khác phản đối đề xuất của Hoa Kỳ

về những nghĩa vụ thực thi đầy đủ. Khi so sánh với các chương khác trong TPP, các
vấn đề về môi trường đáng lưu ý vì sự thiếu vắng các mệnh đề bắt buộc của nó hoặc
các biện pháp ép tuân thủ có ý nghĩa. Các cơ chế dàn xếp tranh chấp mà nó tạo ra là
hợp tác thay vì ràng buộc; không có các khoản phạt được yêu cầu và không có các biện
pháp trừng phạt tội phạm được đề xuất. Với ngoại lệ của ngành đánh bắt cá, thương
mại trong các hàng hóa “môi trường” và đưa vào tranh chấp của các thỏa thuận đa
phương khác, thì các điều lệ trong chương môi trường của TPP dường như để vận hành
như một bài tập về quan hệ công chúng.
Và trong lâu dài thì môi trường là vấn đề trước sau gì chúng ta cũng phải làm. Bảo vệ
môi trường là điều không cần ai gây sức ép, tự chúng ta cũng phải nghiêm khắc và
hành động. Vấn đề là thay đổi cách tư duy, không xem đó là thử thách mà chúng ta
phải đối phó; ngược lại, cần xem đó chính là nhiệm vụ của chúng ta, và xem đàm phán


TPP về những vấn đề này như một động lực tốt để chúng ta thực hiện nhiệm vụ của
mình tốt hơn, hiệu quả hơn và có công cụ kiểm soát đầy đủ hơn.


CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM KHI THAM GIA
VÀO TPP
Thực trạng môi trường ở Việt Nam.
Mới đây, hai trung tâm nghiên cứu môi trường thuộc Đại học Yale và Columbia của
Mỹ thực hiện báo cáo thường niên khảo sát ở 132 quốc gia. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt Nam đứng thứ 123/132 quốc gia
khảo sát; về ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe đứng vị trí 77; về chất lượng
nước Việt Nam được xếp hạng 80.
Đó là những đánh giá chung, còn nếu xem xét cụ thể trên từng khía cạnh thì sẽ càng
thấy rõ hơn bức tranh chung của môi trường Việt Nam hiện nay.

Rừng tiếp tục bị thu hẹp.

Trước năm 1945, nước ta có 14 triệu ha rừng, chiếm hơn 42% diện tích tự nhiên của cả
nước, năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm 29%), đến nay chỉ còn
khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Độ che phủ của rừng nước ta đã giảm sút
đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng bị hạ xuống mức quá thấp.
Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên sinh. Số liệu của Tổng cục Lâm
nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy đến hết năm 2012 có hơn
20.000 ha rừng tự nhiên bị phá để sử dụng vào nhiều mục đích, nhiều nhất là để làm
thủy điện, nhưng chỉ mới trồng bù được hơn 700 ha.

Đa dạng sinh học bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong 4 thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim bị tuyệt chủng và 120 loài
thú bị diệt vong. Và, mặc dù có vẻ nghịch lý nhưng có một thực tế là các trang trại gây
nuôi động vật hoang dã như nuôi những loài rắn, rùa, cá sấu, khỉ và các loài quý hiếm


khác vì mục đích thương mại ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á lại không hề làm
giảm bớt tình trạng săn bắt động vật hoang dã trong tự nhiên, mà thậm chí còn làm cho
vấn đề trở nên tồi tệ hơn bởi những trang trại này đã liên quan tới các hoạt động buôn
bán trái phép động vật hoang dã.
Hơn 100 loài sinh vật ngoại lai đang hiện diện tại nước ta cũng là mối nguy lớn cho
môi trường sinh thái, như: ốc bươu vàng, cây mai dương, bọ cánh cứng hại dừa, đặc
biệt là việc nhập khẩu 40 tấn rùa tai đỏ - một loài đã được quốc tế cảnh báo là một
trong những loài xâm hại nguy hiểm.

Ô nhiễm sông ngòi.
Các dòng sông đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề nhất là: sông Cầu,
sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai và hệ thống sông Tiền và sông Hậu ở Tây Nam Bộ,
đồng bằng sông Cửu Long. Những con sông này đã trở nên độc hại, làm hủy hoại
nguồn thủy sản và ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống, sức khoẻ của cộng đồng.


Bãi rác công nghệ và chất thải.
Nhiều dự án luyện, cán thép lớn đã, đang và sẽ xuất hiện, hứa hẹn đưa Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu thép lớn, song đồng thời cũng có nguy cơ biến Việt Nam thành
nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải. Bài học “xương máu” này đã từng xảy ra
với ngành sản xuất xi măng, song vẫn có khả năng lặp lại nếu những dây chuyền luyện
gang, thép bị loại bỏ ở Trung Quốc được đưa về lắp đặt ở Việt Nam.

Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp.
Báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, nguồn chất
thải vào môi trường từ trồng trọt và chăn nuôi đang có xu hướng gia tăng, trong khi
việc kiểm soát chưa đạt hiệu quả cao. Theo tính toán của Vụ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), lượng phân thải của bò khoảng


10 - 15 kg/con/ngày, trâu là 15 - 20 kg/con/ngày, lợn là 2,5 - 3,5 kg/con/ngày và gia
cầm là 90 gr/con/ngày. Như vậy, tính ra tổng khối lượng chất thải trong chăn nuôi của
nước ta hiện khoảng hơn 73 triệu tấn/năm.
Nuôi trồng thủy sản cũng đang gặp phải vấn đề tương tự. Việc đẩy mạnh các biện pháp
thâm canh, tăng năng suất tại các vùng nuôi tôm tập trung, trong đó chủ yếu là tôm sú
đã làm gia tăng ô nhiễm nguồn nước. Cùng với đó, tình trạng sử dụng phân bón và
thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt một cách tràn lan, không có kiểm soát đã gây ô
nhiễm môi trường đất, nước.
Kết quả điều tra năm 2006 cho thấy, khu vực nông thôn thải ra khoảng 10 triệu tấn/năm
chất thải rắn sinh hoạt, nhưng đến năm 2010 tăng lên tới 13,5 triệu tấn/năm.

Khai thác khoáng sản.
Cùng với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu, nguồn tài nguyên khoáng sản dưới lòng đất
của nước ta đã bị khai thác khá mạnh. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, từ năm
2009 - 2011, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 2,1 - 2,6 triệu tấn khoáng sản các loại
(không kể than, dầu thô) với điểm đến chủ yếu là Trung Quốc, nhưng chỉ mang lại giá

trị 130 - 230 triệu USD. Riêng năm 2012, lượng khoáng sản xuất khẩu vẫn gần
800.000 tấn thông qua đường chính ngạch. Nếu cộng cả số xuất lậu, xuất qua đường
biên mậu, số lượng xuất khẩu còn lớn hơn nữa (vào năm 2008, chỉ riêng xuất lậu quặng
ti-tan ước tính đã lên đến 200.000 tấn).
Và, hậu quả của ô nhiễm môi trường từ những hoạt động khai thác khoáng sản đã quá
rõ ràng. Qua điều tra, cứ 4.000 người dân Quảng Ninh có 2.500 người mắc bệnh, chủ
yếu là mắc bệnh bụi phổi, hen phế quản, tai mũi họng (80%). Kết quả quan trắc của các
cơ quan chuyên môn cho thấy nồng độ bụi ở khu vực Cẩm Phả vượt từ 3 - 4 lần tiêu
chuẩn cho phép, gần 0,3 mg/m3 trong 24 giờ (gồm bụi lơ lửng, bụi Pb, Hg, SiO2, khí
thải CO, CO2, NO2). Mỏ Đèo Nai phải xử lý lượng đổ thải chất cao thành núi trong


mấy chục năm qua. Mỏ Cọc Sáu với biển nước thải sâu 200m chứa 5 triệu m 3 có nồng
độ a-xít cao và độ PH 4 - 4,5mgđl/l sẽ phải tìm công nghệ phù hợp để xử lý.

Ô nhiễm không khí.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven
đường giao thông, trong đó chủ yếu là CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 (tức bụi có kích
thước bé hơn 10μ) tăng 1,07 lần. Kênh rạch ở khu vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ và
vi sinh ở mức độ cao. Phần lớn nước thải sinh hoạt chỉ mới được xử lý sơ bộ qua bể tự
hoại gia đình. Nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc
nếu có trang bị thì không vận hành thường xuyên.

Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong đàm phán và thực thi
các yêu cầu về môi trường của TPP.
Trước thực trạng môi trường đáng báo động như vậy, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn
trong đàm phán và thực hiện các yêu cầu về môi trường trong TPP. Từ đó ta có thể
nhận thấy những cơ hội và thách thức đặt ra với Việt Nam khi tham gia TPP như sau:

Cơ hội.

Các tiêu chuẩn cao về môi trường sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo
vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững. Đây là một sức ép lớn thúc đẩy Việt
Nam đầu tư và phát triển sản xuất các mặt hàng thân thiện với môi trường để bắt kịp xu
thế tiêu dùng trên thế giới.
Đồng thời việc cắt bỏ thuế quan với hàng hoá môi trường khi xuất khẩu sang các nước
trong TPP tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu các hàng hóa môi trường ở
Việt Nam.


Thách thức.
Việc tổ chức thực hiện các yêu cầu cao về bảo vệ môi trường sẽ là một gánh nặng lớn
đối với Nhà nước (trong việc gia .nhập các công ước liên quan, sửa đổi quy định pháp
luật nội địa, xây dựng các cơ chế, thủ tục ban hành thực thi mới…).
Việc thực thi cũng tạo ra nhiều chi phí cho doanh nghiệp để thực thi (ví dụ như thay
đổi công nghệ nuôi trồng – sản xuất, thay đổi nguồn cung nguyên vật liệu, bổ sung cơ
chế kiểm soát…).
Đặc biệt, nếu trợ cấp cho các hoạt động đánh bắt thủy sản quy mô nhỏ bị cấm trong
TPP, ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có thể gặp khó khăn. Phần lớn các hoạt
động đánh bắt của Việt Nam đều có quy mô nhỏ, các thiết bị hỗ trợ thô sơ; mặt khác,
việc đánh bắt xa bờ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy hiểm đến tính mạng người lao
động. Do đó, cần phải có trợ cấp cho hoạt động này để khuyến khích nó phát triển, đảm
bảo nguồn cung nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu. Nếu
trợ cấp bị cấm, nguồn cung nguyên liệu sẽ có nguy cơ giảm, dẫn đến sản lượng hàng
thủy sản xuất khẩu có thể giảm.
Một trong những khó khăn của những người tiêu dùng, người lao động, những người
hoạt động vì lợi ích cộng đồng và môi trường gặp phải đó chính là việc tìm kiếm sự
công bằng, minh bạch trong quá trình đàm phán TPP, mà vấn đề cụ thể ở đây là:
Hiện đã có nhiều văn bản dự thảo của hiệp định 26 chương được đưa ra, nhưng hầu hết
chỉ tập trung vào việc áp đặt các hạn mức đối với an toàn thực phẩm nội địa, y tế, môi
trường… thay vì đề cập đến vấn đề thương mại. Các chính phủ sẽ không công khai

những văn bản này, nhưng ở Hoa Kỳ, hơn 600 tập đoàn “cố vấn thương mại” cho chính
phủ lại có quyền tiếp cận đầy đủ đối với các văn bản này.
Chưa hết, khi tham gia TPP, Việt Nam còn phải đối mặt với nguy cơ vướng phải những
tranh chấp giữa “ nhà nước – nhà đầu tư” và những bất lợi khác gây ra từ việc trao các


đặc quyền và quyền tự thực thi pháp luật cho các nhà đầu tư mà đang được xem xét
đưa vào trong TPP.
Mục tiêu chính của các tập đoàn đa quốc gia của Hoa Kỳ trong TPP là việc áp đặt lên
nhiều quốc gia hơn nữa các đặc quyền của nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có quyền tự
thực thi pháp luật thông qua một hệ thống giải quyết tranh chấp giữa “nhà đầu tư – nhà
nước” đã từng gặp rất nhiều chỉ trích. Hệ thống này cho phép các tập toàn nước ngoài
có quyền kiện lên các tòa án quốc tế về vấn đề môi trường, sử dụng đất, y tế, và các
quy định và luật lệ khác của nước nhận đầu tư mà áp dụng đối với các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài như nhau. Kì quặc ở chỗ hệ thống này đã nâng vị thế của các nhà
đầu tư và các tập đoàn lên ngang hàng với các chính phủ quốc gia thành viên TPP, và
lên trên lợi ích của cộng đồng. Hệ thống này sẽ trao quyền cho các tập đoàn được kiện
các Chính phủ lên các tòa án tư hoạt động theo các quy định của Liên Hợp Quốc (UN)
và Ngân hàng Thế giới (World Bank) để yêu cầu bồi thường thiệt hại về thuế khi cho
rằng các chính sách và luật lệ tại nước nhận đầu tư đã làm ảnh hưởng tới “lợi nhuận dự
kiến trong tương lai” của họ.
Nếu một tập đoàn “thắng kiện” một chính phủ nào đó thì không ai khác mà chính là
người dân nước đó – những người đóng thuế sẽ phải thanh toán các khoản bồi thường
thiệt hại. Hơn 350 triệu USD tiền bồi thường đã được trả cho các tập đoàn trong chuỗi
các vụ kiện nhà đầu tư – nhà nước chỉ tính riêng trong khuôn khổ Hiệp định NAFTA,
trong đó bao gồm các vụ kiện về chính sách tài nguyên, cấm sử dụng chất nổ, khoanh
vùng và cấp giấy phép, các biện pháp đảm bảo sức khỏe, y tế và nhiều khía cạnh khác.


CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ HỘI VÀ

GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN VỀ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CHO
VIỆT NAM KHI THAM GIA ĐÀM PHÁN TPP.
Theo ông Võ Trí Thành, phó viện trưởng viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương:
“Nền kinh tế Việt Nam đang vừa làm, vừa sửa nên Hiệp định TPP rất phù hợp với Việt
Nam”. Nhằm tận dụng được các cơ hội mà Hiệp định TPP đem lại cho Việt Nam, đồng
thời đáp ứng đầy đủ các cam kết, vượt qua các thách thức, cần có sự gắn kết và cùng
hành động giữa Chính Phủ và doanh nghiệp trong từng vấn đề.

Vấn đề thứ 1: Thương mại và đa dạng sinh học.
Một trong những giải pháp hiệu quả được các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng và đã
cho thấy hiệu quả đáng kể đó là thực hiện việc “Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payments
for Ecosystems Services – PES)” hay còn gọi là chi trả dịch vụ môi trường là công cụ
kinh tế, sử dụng để những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho
những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó.
Tại các nước tiên tiến như Hoa Kỳ, khái niệm chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES) đã
được tổ chức và nghiên cứu sớm nhất. Hiện nay, cơ chế PES được áp dụng thành công
và hiệu quả, tạo cơ chế quản lý bền vững các tài nguyên thiên nhiên. Cơ chế này cũng
tạo ra một nguồn ngân sách cho việc đầu tư phục hồi và duy trì bền vững các giá trị hệ
sinh thái.
Tại Việt Nam năm 2008, Quyết định số 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho
phép thí điểm chương trình “Chi trả dịch vụ hệ sinh thái” tại hai tỉnh Sơn La và Lâm
Đồng. Năm 2010, Nghị định số 99/2010/NĐ-CP tiếp tục được ban hành nhằm triển
khai Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên phạm vi toàn quốc từ 1/1/2011.
Sau 5 năm được thực hiện ở Việt Nam, PES đã cho thấy tĩnh hữu dụng của nó trong
công tác bảo vệ rừng.


Bên cạnh đó, Chính phủ, cụ thể là các bộ ngành liên quan cần đẩy mạnh các chương
trình toàn diện và rộng lớn nghiên cứu các vấn đề thực tế bảo tồn đa dạng sinh học
thông qua nhiều tổ chức khoa học và kêu gọi sự tham gia của các doanh nghiệp trong

cả nước; phát động một chiến dịch truyền thông quốc gia nhằm nâng cao nhận thức
của toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường
và sự đa dạng sinh học.

Vấn đề thứ 2: Sự xâm hại của các loài ngoại lai.
Theo một thống kê gần đây, hầu hết sinh vật ngoại lai được phát hiện ở Việt Nam đều
nằm trong danh sách 100 sinh vật ngoại lai xâm lấn nguy hiểm trên thế giới. Trong khi
đó, các ngành chức năng lại thiếu cán bộ hiểu biết về sinh vật ngoại lai; chưa có đủ
phương tiện, thiết bị kỹ thuật cũng như nguồn lực tài chính... để nhận diện và đưa ra
những quy định cụ thể đối với từng loài sinh vật ngoại lai có lợi hay nguy hại.
Vì vậy, giải pháp khắc phục trước mắt là tăng cường năng lực, biện pháp quản lý (bao
gồm cả phân loại giám định và phát hiện sớm sự xâm nhập của sinh vật ngoại lai),
đồng thời nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và người dân về các loài sinh vật này.
Khi cho phép đưa một loài ngoại lai vào nước ta, dù bất cứ lý do gì, mục đích gì, trước
hết cần nghiên cứu kỹ lưỡng, nắm bắt thông tin đầy đủ, mới nhất về loài đó. Nếu cho
nhập cần phải nuôi khảo nghiệm thận trọng và kiểm soát chặt chẽ, xem xét hiệu quả
trước khi cho nhân rộng.
Điều quan trọng đầu tiên là kiểm soát chặt chẽ từ khâu nhập về sinh vật ngoại lai.
Việc cần làm thứ hai là xây dựng và hoàn thiện quy trình phân tích nguy cơ xâm hại
của sinh vật ngoại lai nhằm góp phần tạo thuận thợi và cơ sở cho việc phân loại để
kiểm soát việc nhập khẩu sinh vật.
Thứ 3, đó là cần có sự phối hợp đồng bộ, xác định tõ trách nhiệm giữa Bộ Tài Nguyên
& Môi trường, và Bộ NN & PTNT tránh việc quản lý trồng chéo.


Cùng với việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các trường
hợp vi phạm theo quy định pháp luật bảo vệ và kiểm dịch động thực vật, cần kết hợp
tuyên truyền để người dân hiểu rõ tác hại của các loài sinh vật ngoại lai, từ đó khuyến
khích người dân tham gia giám sát, phát hiện các hành vi vi phạm để báo cho chính
quyền địa phương xử lý, ngăn chặn kịp thời.


Vấn đề thứ 3: Biến đổi khí hậu.


Giải pháp đối với Nhà nước:
-

Thứ nhất: Trước hết phải xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường
trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với
thiên nhiên, môi trường trong xã hội và của mỗi người dân. Đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng các chuẩn mực, hình
thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện với thiên nhiên, môi
trường. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt
điểm các vụ việc về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Cần
tạo bước chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể. Lấy chỉ số
đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ môi trường

-

cụ thể để đánh giá.
Thứ hai: Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường
với phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường. Khắc phục suy thoái, khôi phục và nâng cao chất lượng môi trường;
Thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng,
cháy rừng, tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên; Khai thác có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, bảo đảm môi trường và cân bằng sinh thái; Chú trọng phát
triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; Thực hiện sản xuất và tiêu dùng
bền vững; từng bước phát triển “năng lượng sạch”, “sản xuất sạch”, “tiêu dùng
sạch”; Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp



đỡ của cộng đồng quốc tế cho công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng
-

phó với biến đổi khí hậu
Thứ ba: Coi trọng yếu tố môi trường trong tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận các xu thế
tăng trưởng bền vững và hài hòa trong phát triển ngành, vùng phù hợp với khả
năng chịu tải môi trường, sinh thái cảnh quan, tài nguyên thiên nhiên và trình độ
phát triển. Đã đến lúc “nói không” với tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá; Tăng
trưởng kinh tế phải đồng thời với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí

-

hậu.
Thứ tư: Dự báo, cảnh báo kịp thời, chính xác các hiện tượng khí tượng thủy văn,
chung sức và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tập trung triển khai thực
hiện Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn đến năm 2020 và hai đề án:
Hiện đại hóa công nghệ dự báo khí tượng thủy văn; Hiện đại hóa ngành khí
tượng thủy văn; Tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và
cộng đồng quốc tế trong việc tham gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu;
lồng ghép các yếu tố biến đổi khí hậu với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

-

10 năm (2011-2020) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015).
Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai; Quy hoạch sử dụng đất
cả nước đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 - 2015. Xác lập cơ
chế cung - cầu, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững tài nguyên nước và bảo đảm
an ninh nguồn nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước
và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo hướng

xác lập cơ chế quản lý tài nguyên nước đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi người dân tham gia bảo vệ môi trường,

-

làm kinh tế từ môi trường.
Thứ sáu: Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa” trong lĩnh vực địa chất và khoáng
sản theo hướng giảm cơ chế “xin - cho”, tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu
quyền thăm dò khoáng sản, đấu giá mỏ để tăng thu cho ngân sách Nhà nước và


lựa chọn được tổ chức, cá nhân có năng lực, kinh nghiệm tham gia hoạt động
thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản; nâng cao tính thống nhất, tránh chồng
chéo trong quản lý; tăng cường phân cấp cho các địa phương quản lý khoáng
sản; chú trọng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật...Đồng thời, tiếp tục
giảm xuất khẩu thô, đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo vệ và nâng cao giá trị tài
nguyên khoáng sản, hướng tới mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp khai
-

khoáng ổn định, bền vững. Phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh trên biển.
Thứ bảy: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, chuẩn bị cơ sở pháp lý
cho ứng phó với biến đối khí hậu theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và
hội nhập đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật Môi
trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập, khắc phục tình trạng
chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu khả thi

 Giải pháp với doanh nghiệp:


Những cam kết kể từ TPP mở ra kích thích sự tìm hiểu của doanh nghiệp và công
chúng Việt Nam. Khác với đàm phán gia nhập WTO, quá trình đàm phán TPP mở ra cơ
hội cho doanh nghiệp có tiếng nói. Song để kiểm soát được nguồn “tài nguyên kinh tế”,
bên cạnh giải pháp của nhà nước thì mỗi doanh nghiệp không thể không để ý đến các
nhóm giải pháp về môi trường cho chính mình.
-

Nhóm các giải pháp về nhận thức của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần thay
đổi nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường trong lĩnh
vực thương mại nói riêng, tiến tới thay đổi hành vi của doanh nghiệp trong quá

-

trình sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt áp dụng giải pháp công nghệ sạch.
Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp: nhằm mục đích
phát triển hoạt động của mình mà không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường,
ngoài ra còn có kinh phí đầu tư cho việc bảo vệ môi trường.


-

Nhóm giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý môi trường doanh nghiệp. Cụ thể là
cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về môi trường
nhằm áp dụng các quy định của pháp luật môi trường có khả năng vận hành các
hệ thống xử lý, phân tích kiểm tra mức độ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường của
các sản phẩm.

Vấn đề thứ 4: Bảo tồn môi trường.



Giải pháp đối với nhà nước:

Gia nhập TPP giúp nước ta có điều kiện hợp tác chung tay cùng các quốc gia khác đấu
tranh chống lại nạn buôn bán và động thực vật hoang dã bất hợp pháp.Vì vậy, Nhà
nước nên từng bước thực hiện các chính sách tăng cường bảo tồn và quản lý bền vững
nguồn tài nhiên thiên nhiên, không làm biến dạng, sai lệch trong thương mại hợp pháp
động thực vật hoang dã. Qua đó chúng ta có thể nâng cao giá trị kinh tế và môi trường
của các tài nguyên thiên nhiên.
Thực hiện các biện pháp để có thể khai thác tài nguyên thiên nhiên động thực vật một
cách hợp lí theo cam kết trong TPP là không đe dọa sự tồn tại của loài đó bằng cách
thực hiện các nghĩa vụ của mình theo Công ước về buôn bán quốc tế các loài động
thực vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES).
Tận dụng cơ hội trao đổi thông tin và kinh nghiệm với các quốc gia phát triển về các
vấn đề cùng quan tâm liên quan đến chống cất trữ trái phép, và buôn bán trái phép thực
vật hoang dã.
Tiếp tục duy trì các biện pháp thích hợp cho phép hành động để ngăn cấm việc buôn
bán, trung chuyển hoặc giao dịch các loài động vật và thực vật trên lãnh thổ. Các biện
pháp đó phải bao gồm biện pháp trừng phạt hoặc hình phạt ở mức có thể hoạt động như
một hành động răn đe đối với thương mại, trung chuyển, giao dịch các mặt hàng này.


Điều chỉnh các điều luật và chính sách để thúc đẩy hợp tác thực thi pháp luật và thông
tin chia sẻ với các quốc gia khác nhằm chống lại cất trữ trái phép hoặc buôn bán trái
phép động, thực vật hoang dã, Nhà nước cần xác định cơ hội phù hợp với pháp luật
trong nước và phù hợp với điều ước quốc tế áp dụng, để tăng cường pháp luật hợp tác
thực thi và chia sẻ, ví dụ bằng cách tạo ra thông tin và tham gia vào mạng lưới thực thi
pháp luật.



Giải pháp với doanh nghiệp:

Các doanh nghiệp cần nhận ra tầm quan trọng của môi trường của tài nguyên thiên
nhiên, vì các thành phần môi trường, đặc biệt là các nguồn tài nguyên, là một trong
những điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nguồn tài nguyên đó
là nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất. Tùy vào nguồn tài nguyên ở từng vùng mà
ở đó sẽ phát triển những hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở
Quảng Ninh, ngành công nghiệp khai thác than phát triển bởi đây là nơi có nhiều mỏ
than với trữ lượng lớn…Bảo vệ môi trường cũng là mang lại lợi ích cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược khai thác tài nguyên thiên nhiên theo các
quy định của Nhà nước, để khai thác chúng một cách hợp lí mà không đe dọa đến sự
tồn tại của động thực vật hoang dã và không làm ô nhiễm môi trường sinh thái.

Vấn đề thứ 5 : Hàng hóa & dịch vụ môi trường.


Giải pháp đối với nhà nước:

Chú trọng hơn vào đầu tư và thương mại trong hàng hóa và dịch vụ môi trường, vì nó
là phương tiện để cải thiện hiệu suất môi trường và kinh tế, cũng như giải quyết các
thách thức môi trường với nước ta cũng như thế giới.


×