Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Sử dụng tư liệu lịch sử trong giảng dạy văn bản vợ nhặt của kim lân nhằm tạo sự hứng thú, chủ động, tích cực, nâng cao chất lượng học tập cho học sinh ở trường THPT cẩm thủy 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 43 trang )

MỤC LỤC
STT
1

CÁC NỘI DUNG CHÍNH

TRANG

Mở đầu

1

1.1

Lí do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4



Phương pháp nghiên cứu

3

1.5

Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

3

Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

4

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

4

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

7

2.3

Giải pháp đã thực hiện


8

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

12

Kết luận và kiến nghị

14

2

3


SỬ DỤNG TƯ LIỆU LỊCH SỬ (TƯ LIỆU THÀNH VĂN KẾT HỢP TƯ LIỆU
HÌNH ẢNH) TRONG GIẢNG DẠY VĂN BẢN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN
NHẰM TẠO SỰ HỨNG THÚ, CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC, NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỌC TẬP CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG CẨM THỦY 2.
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Từ trước tới nay, môn Ngữ văn luôn được xác định là một môn học cơ bản có vị
trí vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục của các nhà trường phổ thông
nói chung, trường trung học phổ thông nói riêng. Trong đó phân môn văn học
chiếm phần lớn thời lượng của bộ môn. Văn học không chỉ cung cấp cho học sinh

kiến thức về xã hội, phát triển cho học sinh năng lực sử dụng ngôn ngữ, rèn luyện
khả năng tư duy… mà còn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ tốt đẹp
cho học sinh, giúp các em tự hoàn thiện nhân cách nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục
mà Đảng và Nhà nước đề ra cho giáo dục là: “Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân;
yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả” [1].
Hiện nay mục tiêu giáo dục đang chú trọng việc tích cực rèn luyện kĩ năng
và năng lực cho học sinh bắt đầu từ việc vận dụng kiến thức liên môn để việc giải
quyết các vấn đề trong học tập. Rèn luyện kĩ năng, năng lực cũng là xu hướng học
tập chung của thế giới. Vì vậy việc sử dụng các tư liệu liên môn như lịch sử để khai
thác một tác phẩm văn học sẽ giúp học sinh hình thành được kĩ năng, năng lực vận
dụng kiến thức liên môn trong học tập từ đó có sự linh hoạt trong việc vận dụng
tổng hợp các kiến thức cơ bản đã được học tập trong nhà trường để giải quyết các
vấn đề trong cuộc sống.
Môn Ngữ văn trong nhà trường có vị trí quan trọng như vậy nhưng hiện nay
do nhiều nguyên nhân khác nhau mà học sinh không có nhiều hứng thú với môn
học: Ngại học văn, ngại viết văn, tiếp nhận tác phẩm hời hợt… là thực trạng chung
của học sinh trong việc học Văn ở các trường THPT. Vậy làm thế nào để kéo học
sinh trở lại với bộ môn Ngữ văn nói chung, để học sinh hứng thú, say mê với mỗi
tiết văn học nói riêng? Thay đổi phương pháp dạy học, tìm kiếm các cách tiếp cận
mới, tìm tòi, sử dụng phong phú các tư liệu dạy học liên môn … nhằm tạo ra sự
hứng thú cho học sinh trong các tiết học văn là nhiệm vụ mà mỗi giáo viên chúng
ta phải nghĩ tới và hành động trong bối cảnh hiện nay.
Kim Lân – một cây bút truyện ngắn danh tiếng của văn học Việt Nam hiện
đại. Nhà văn Nguyễn Khải đã từng coi Kim Lân là một trong số ít nhà văn có tài
năng thiên phú, dường như “không phải người viết mà là thần viết, thần mượn tay
người để viết nên những trang sách bất hủ”. Truyện ngắn Kim Lân không chỉ tạo
1.
1.1


1


nên một bản sắc rất riêng cho người sáng tạo ra nó mà còn đóng góp không nhỏ vào
việc hoàn thiện và hiện đại hóa một thể loại văn học vẫn còn mới mẻ của văn đàn dân
tộc từ những buổi đầu của thế kỉ XX. Kim Lân cũng là một trong số không nhiều nhà
văn luôn có tác phẩm được lựa chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông và được
chọn để ra đề thi văn cho các kì thi Quốc gia nhiều năm. Vợ nhặt – tác phẩm ưu tú của
nhà văn Kim Lân và cùng là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học cách
mạng. Với sự độc đáo về nghệ thuật và chiều sâu về nội dung, tư tưởng khiến Vợ nhặt
bền bỉ góp mặt trong văn học nhà trường: Trước thời kì thống nhất sách giáo khoa, Vợ
nhặt là tác phẩm đã có mặt trong cả ba bộ sách: Văn học 12 chưa phân ban; Ngữ văn 12
thí điểm ban Khoa học Xã hội và Nhân văn; Ngữ văn 12 thí điểm ban Khoa học Tự
nhiên. Ở thời điểm hiện nay, tác phẩm này vẫn có mặt trong hai bộ sách thuộc Chương
trình chuẩn và Chương trình nâng cao.
Vợ nhặt có tiền thân từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, ra đời năm 1948, là một
trong những tác phẩm nổi bật trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám 1945
của Kim Lân. Tác phẩm thực sự mở ra cho rất nhiều thế hệ bạn đọc một cái nhìn khác
về hình ảnh người nông dân trong cuộc sống. Truyện ngắn viết về một giai đoạn đau
thương trong lịch sử dân tộc: Nạn đói năm 1945 - Từ Quảng Trị đến Bắc Bộ. Tác phẩm
không chỉ có giá trị hiện thực sâu sắc mà còn mang giá trị nhân văn cao cả: niềm tin
không bao giờ tắt hướng về con người.
Do đặc điểm nội dung của tác phẩm có liên quan đến một giai đoạn lịch sử
quan trọng của đất nước - nạn đói lịch sử năm 1945 nên sự thật lịch sử được “Vợ nhặt”
đề cập hiện có nguồn tư liệu lịch sử vô cùng phong phú như: Tư liệu vật chất,tư liệu
phim ảnh, tư liệu truyền miệng… Trong đó nổi bật nhất là nguồn tư liệu thành văn và
tư liệu hình ảnh. Đây là nguôn tư liệu vô cùng quý giá mà khi giảng dạy những văn bản
văn học có những đơn vị kiến thức liên quan đến lịch sử giáo viên đang còn bỏ ngỏ.
Qua tìm hiểu thực tế giảng dạy của đồng nghiệp ở nhiều đơn vị trong tỉnh, qua tìm hiểu
các công trình nghiên cứu, sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp… tôi cũng nhận

thấy một thực tế là: Đa số giáo viên khi giảng dạy tác phẩm “Vợ nhặt” đều ý thức được
tầm quan trọng và có sử dụng tư liệu lịch sử khi giảng dạy. Song, đại đa số giáo viên
đều chỉ quan tâm dạng tư liệu trực quan như tranh, ảnh, các thước phim tái hiện nạn
đói…còn việc sử dụng tư liệu thành văn chưa được quan tâm.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này, tôi hướng tới một số mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất: Góp một phương pháp giảng dạy văn học vào hệ thống phương pháp dạy
văn nói chung góp phần đổi mới phương pháp, giúp truyền tải hiệu quả kiến thức văn
học để học sinh hiểu vấn đề nhanh hơn, sâu sắc hơn.

2


Thứ hai: Vận dụng vào giảng dạy giúp bài học sinh động, phong phú, tạo hứng
thú cho học sinh, giúp học sinh tích cực, tự giác trong các tiết học văn học từ đó
nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung.
Thứ ba: Giúp học sinh hiểu được mối liên hệ mật thiết giữa các môn học đặc biệt
là giữa văn học và lịch sử từ đó nâng cao năng lực vận dụng kiến thức liên môn để
giải quyết các tình huống trong học tập- một trong những mục tiêu mà giáo dục
đang hướng tới, góp phần giáo dục toàn diện học sinh.
Thứ tư: Qua nghiên cứu đề tài bản thân sẽ tự bồi dưỡng được thêm về kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao kĩ năng sử dụng các phương pháp dạy học, nâng
cao trình độ nghiên cứu khoa học trong dạy học.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Bài “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân, chương trình Ngữ văn 12- cơ bản (tiết
58,59 theo kế hoạch giáo dục nhà trường đã được chuyên viên bộ môn của Sở
GDDT tỉnh Thanh Hóa phê duyệt cho phép lưu hành nội bộ năm 2019)
Để nghiên cứu đề tài, tôi tiến hành khảo sát thực nghiệm trên đối tượng là
lớp 12C3 năm học 2019-2020 trường THPT Cẩm Thủy 2. Đối chứng là học sinh
lớp 12A năm học 2019-2020 trường THPT Cẩm Thủy 2

Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng thực nghiệm: Lớp 12C3 là lớp học chương trình cơ bản, đa số
học sinh có đầu vào thấp, khả năng tư duy và cảm thụ văn học của học sinh hạn
chế, nhiều học sinh không có động lực và thiếu hứng thu trong học tập, đặc biệt là
đối với bộ môn văn. Do đó các giờ học văn học sinh đều tỏ ra không tích cực:
Không hào hứng trong tiếp nhận nhiệm vụ, không tích cực trong hoạt động thực
hiện nhiệm vụ , thiếu tập trung trong tiếp thu bài và kết quả ghi nhớ kiến thức của
học sinh đều không tốt.
Đối tượng đối chứng: Lớp 12A, là lớp học chương trình cơ bản có học nâng
cao các môn khoa học tự nhiên. Là lớp có đầu vào khá, phần lớn các em có khả
năng tiếp thu tốt
Có ý thức học tập cao.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng sự kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp quan sát đối tượng
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Để nghiên cứu đề tài này, tôi có kế thừa và phát triển dựa trên sáng kiến
kinh nghiệm mà bản thân đã viết trong năm học 2017-2018 với đề tài: Sử dụng tư
liệu lịch sử trong giảng dạy văn học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường
3


THPT Cẩm Thủy 2. Tuy nhiên, ở đề tài này, tôi thu hẹp đối tượng và phạm vi
nghiên cứu hơn: Chỉ tập trung nghiên cứu việc sử dụng hai dạng tư liệu lịch sử
chính là: Tư liệu thành văn và tư liệu tranh ảnh trong giảng dạy một tác phẩm văn
học cụ thể - tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đặc biệt, trong đề tài này
tôi chú trọng tới việc sử dụng tư liệu thành văn, một dạng tư liệu chưa được giáo

viên quan tâm sử dụng khi giảng dạy. Mục đích của phương pháp dạy học này là
hướng tới việc tạo sự húng thú, tích cực cho học sinh trong học tập, từ đó giúp học
sinh tiếp nhận nội dung, ý nghĩa của tác phẩm và tư tưởng của tác giả một cách sâu
sắc hơn,nâng cao chất lượng dạy và học.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Khái niệm, phân loại tư liệu lịch sử.
Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá trình phát triển của xã hội loài người,
đồng thời nó tồn tại khách quan với chúng ta. Do lịch sử là cái đã trải qua nên con
người không thể trực tiếp quan sát vì vậy việc nhận thức phải dựa vào nguồn tư liệu
lịch sử. Vậy tư liệu lịch sử là gì? Hiện nay khái niệm tư liệu lịch sử vẫn còn có
nhiều cách phát biểu: Theo Chi- khơ- mi-rốp, nhà sử học Nga: “Tư liệu lịch sử là
tất cả những gì còn sót lại của cuộc sống đã qua…tư liệu lịch sử là một phương tiện
để bảo tồn, lưu giữ và truyền bá”. Còn Rê- ban lại cho rằng: “ Tư liệu lịch sử là
tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người được lưu
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bằng phương diện xã hội”. Trong cuốn “Bách
khoa toàn thư” cũng nêu khái niệm: “Tư liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp
của quá khứ” . Dù có nhiều cách phát biểu khác nhau, nhưng tựu chung lại đều giúp
ta nhận thức được rằng: Tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như
sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định [2].
Phân loại tư liệu lịch sử
Khoa học lịch sử có nguồn tư liệu hết sức phong phú và đa dạng, người ta có
nhiều cách để phân loại tư liệu lịch sử. Dựa vào nội dung phản ánh và tính chất, tư
liệu lịch sử được chia thành 7 nhóm sau:
- Nhóm tư liệu thành văn
- Nhóm tư liệu vật chất
- Nhóm tư liệu truyền miệng dân gian
- Nhóm tư liệu ngôn ngữ
- Nhóm tư liệu dân tộc học.
- Nhóm tư liệu phim ảnh, băng ghi hình.

- Nhóm tư liệu băng ghi âm.[3]
Bên cạnh cách phân loại trên cũng có tài liệu chia tư liệu lịch sử làm hai loại
là:
-Tư liệu trực tiếp (xuất hiện cùng với sự kiện, thuộc về sự kiện và thường được coi
là nguồn tư liệu gốc có giá trị)
4


- Tư liệu gián tiếp (là phản ánh lịch sử qua thông tin gián tiếp, với mục đích
truyền đạt thông tin- qua tác giả sử liệu, ở đó các sự kiện xảy ra không đồng thời
với tư liệu).
Nhưng dù là loại hình tư liệu nào cũng đều nhằm mục đích làm rõ, sinh động
và cụ thể sự kiện lịch sử đang tìm hiểu. Tùy đặc thù từng chương, bài, mục, phần
trong bài dạy mà giáo viên có cách vận dụng tư liệu cho phù hợp.
2.1.2 Khái niệm tư liệu thành văn
Tài liệu lịch sử thành văn là những tư liệu cho ta những thông tin về các
sự kiện đã xảy ra được ghi lại bằng chữ viết qua các kênh thông tin khác nhau.
Nguồn tài liệu này chiếm số lượng lớn và đặc biệt quan trọng đôi khi chiếm vị trí
chủ yếu trong các nguồn sử liệu.
Tư liệu thành văn là tư liệu hết sức phong phú và có vị trí quan trọng đối với
các công trình nghiên cứu. Thông qua tài liệu này nhà sử học biết được toàn diện về
đời sống chính trị, kinh tế- xà hội của quá khứ.
Tư liệu thành văn ra đời cùng với chữ viết. Sự xuất hiện của chữ viết cùng
với sự ra đời của nghề in đã làm cho tư liệu thành văn ngày càng đa dạng, phong
phú.
Phân loại tư liệu thành văn
Hiện nay, có nhiều cách phân loại tư liệu thành văn khác nhau dựa trên các tiêu chí
khác nhau. Theo Nguyễn Thị Côi- Trịnh Đình Tùng trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng
nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” NXB Đại học quốc gia Hà Nội 1995 có phân tư
liệu thành văn thành 3 loại sau:

- Tư liệu giáo khoa: Tư liệu cơ bản dàng cho học sinh và cả cho giáo viên trong nhà
trường. Đây là tư liệu đã được biên soạn, chỉnh lí và qua nhiều lần cải cách giáo
dục. Do vậy ngoài tài liệu giáo khoa hiện hành giáo viên có thể sử dụng các tài liệu
giáo khoa trước đó.
- Tài liệu tham khảo: Gồm nhiều loại tư liệu khác nhau: Tư liệu lịch sử như trích
dẫn tư liệu gốc, sách báo, bài viết chuyên khảo về một sự kiện lịch sử trong nước
và thế giới.
- Các loại tài liệu thực tế sưu tầm trong đời sống xã hội thuộc các lĩnh vực tư tưởng,
triết học, đạo đức, tư liệu xã hội, xã hội học…
Qua sự phân loại trên có thể thấy nguồn tư liệu lịch sử thành văn liên quan
đến nạn đói năm 1945, bối cảnh trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là rất
phong phú và đa dạng.
2.1.3. Khái niệm tư liệu phim ảnh
Tư liệu phim ảnh là là những tư liệu cho ta những thông tin về các sự kiện lịch
sử đã xảy ra được ghi lại bằng hình ảnh với sự hỗ trợ của các máy móc thiết bị như
máy quay phim, máy chụp ảnh, hoặc được tái hiện lại bằng tranh vẽ.
2.1.4. Mối quan hệ giữa lịch sử và văn học
5


Văn học và lịch sử có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, từ xưa đã có
quan niệm “Văn sử bất phân” xem lịch sử và văn học là một môn khoa học không
thể tách rời. Thực tế có thể thấy, văn học ra đời, tồn tại và phát triển trong một điều
kiện hoàn cảnh xã hội nhất định, văn học chịu sự chi phối của điều kiện xã hội ấy.
Có thể nói điều kiện xã hội ảnh hưởng đến mọi mặt của văn học: Từ tiến trình vận
động, phát triển đến nội dung phản ánh, thậm chí ảnh hưởng đến cả hình thức nghệ
thuật của tác phẩm. Nói về sự ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử- xã hội đến văn
học, giáo sư Phan Trọng Luận đã cho rằng: “Văn học cũng như tác phẩm văn
chương luôn được ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội văn hóa cụ thể; những
yếu tố đó được thẩm thấu, chắt lọc thông qua lăng kính của nhà văn để đi vào tác

phẩm” [4]. Xét trên chức năng của văn học, có ý kiến đã khẳng định: “Văn học
là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội” (Standa). Vì vậy khi nói về vai trò của
nhà văn Banlzac đã cho rằng: “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”,
người có chức năng phản ánh trung thực hiện thực của xã hội theo lăng kính chủ
quan của mình bằng tài năng và tâm hồn, trái tim của người nghệ sĩ. Mà hiện thực
xã hội ấy chính là lịch sử.
Hơn nữa giữa bộ môn văn học và lịch sử cũng có nhiều mối tương đồng nhất
định, tất nhiên bên cạnh đó là những khác biệt do đặc trưng bộ môn quy định. Văn
chương và lịch sử đều tuân thủ một cách thú vị hai trục thời gian đồng đại và lịch
đại. Trước hết dù nói gì đi nữa thì văn chương và lịch sử đều là câu chuyện của thời
điểm hiện tại, tại thời điểm đó mọi sự được mã hoá bằng văn bản. Đối với tác phẩm
văn chương dưới sự tác động của tâm lí học về sáng tạo và xã hội học về các thiết
chế đã làm cho nó trong thời điểm hiện tại phải là nó, nghĩa là nó được tồn lưu. Giá
trị tồn lưu ấy là giá trị một thời và mãi mãi, giá trị bị quy định bởi lịch sử và có
quyết định tới lịch sử. Như vậy bản thân văn chương trong sự sống động đã là vấn
đề của lịch sử nếu ta xem lịch sử là một quá trình tiếp biến. Cả văn chương và lịch
sử đều tồn tại trên cơ sở tính kế thừa. Thế nhưng lịch sử là sự kế thừa đơn thuần
nếu lịch sử ấy được các sử gia xem xét một cách nghiêm ngặt, nghĩa là các sử gia
đồng tình với quá khứ, còn văn chương là sự kế thừa có tính xét lại, nghĩa là vừa
tiếp thu quá khứ vừa phải đối thoại với quá khứ, nếu không đối thoại với quá khứ
văn chương mãi mãi nằm trong chết cứng, trong một trạng thái tĩnh ngột ngạt. Văn
chương và lịch sử còn có mối tương đồng trong bản chất, trong sự “viết”. Lịch sử là
sự tiếp nối của những biến động, những biến động ấy được lưu lại bằng văn bản, dù
rằng văn chương là sân chơi của hư cấu còn lịch sử là khoa học của kỹ thuật ghi
chép khách quan (văn chương thuộc về vấn đề chủ quan, lịch sử thuộc về khách
quan). Trên cơ sở này có thể nói rằng: lịch sử là tiểu thuyết đã được hiện thực hoá,
còn tiểu thuyết là một lịch sử đáng lẽ xảy ra.[5]
2.1.4. Ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học văn
6



Trong giảng dạy môn lịch sử, tư liệu lịch sử được xem là điều kiện cơ
bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ, giúp bài học sinh động, thuyết phục . Sử dụng
tư liệu lịch sử góp phần tạo biểu tượng lịch sử, giúp các em hình dung quá khứ lịch
sử phong phú, đa dạng và chính xác. Hơn thế nữa, sử dụng tư liệu thành văn còn để
làm sáng tỏ bản chất của sự kiện lịch sử.
Trong dạy học văn, tư liệu lịch sử thành văn sẽ là nguồn minh họa chân thực
cho một đơn vị kiến thức có liên quan của một giai đoạn văn học, một tác phẩm văn
học … giúp bài học sinh động, hấp dẫn, thuyết phục, góp phần giúp học sinh hiểu
kiến thức nhanh và sâu hơn, góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo
đức và giá trị thẩm mĩ, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà
nước đã đề ra.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
“Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm có vị trí quan trọng trong
chương trình ngữ văn lớp 12. Là một tác phẩm hay, chứa đựng nhiều giá trị nội
dung sâu sắc với những độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật . Bởi vậy, trong việc
giảng dạy và học tập văn bản này, ở cả hai phía giáo viên và học sinh vẫn còn
những tồn tại nhất định:
Khi giảng dạy tác phẩm “Vợ nhặt”, giáo viên luôn tập trung phân tích tình
huống truyện độc đáo nhằm làm nổi bật đặc điểm số phận, tích cách của các nhân
vật, qua đó giúp học sinh hiểu ý nghĩa tư tưởng mà Kim Lâm gửi gắm trong tác
phẩm. Trong việc phân tích nội dung tác phẩm,giáo viên cần hướng dẫn để học sinh
tiếp nhận hai vấn đề cơ bản:
Một là: Hiện thực mà nhà văn phản ảnh trong tác phẩm, hiện thực ấy chính là tình
cảnh của con người trong nạn đói lịch sử năm 1945
Hai là: Từ chỗ hiểu tình cảnh mà lí giải được hành động, tâm lí của nhân vật qua
đó giúp học sinh biết cảm thông và trân trọng đối với nhân vật. Hiểu được tư tưởng
nhân đạo,nhân văn sâu sắc mà nhà văn muốn thể hiện trọng tác phẩm đó là ca ngợi
vẻ đẹp tình người và niềm lạc quan, yêu đời của người lao động trên bờ vực của cái
chết.

Với mục tiêu cần đạt như trên, giảng dạy để học sinh vừa hiểu một cách
đầy đủ, sâu sắc nội dung, vừa cảm nhận vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật, vừa có sự
hứng thú, tích cực trong các hoạt động học là một việc không hề dễ đối với giáo
viên- người tổ chức, điều khiển các hoạt động học tập. Sau nhiều năm trực tiếp
giảng dạy tác phẩm, qua việc quan sát, dự giờ của đồng nghiệp tôi nhận thấy một số
khó khăn cơ bản khi giảng dạy tác phẩm “vợ nhặt” ảnh hưởng đến việc tiếp thu
kiến thức cũng như sự hứng thú học tập của học sinh như sau:
Thứ nhất: Khó khăn trong việc giúp học sinh hiểu thấu đáo tình cảnh thê thảm của
người lao động trong nạn đói năm 1945. Từ những miêu tả về nạn đói của Kim
Lân: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào… Người chết như ngả rạ,không
7


buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây
nằm còn queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây
của xác người”. Do độ lùi lịch sử khá xa, do đối tượng học sinh của chúng ta ngày
nay phần lớn sinh ra và lớn lên trong đủ đầy, không có sự trải nghiệm của đói khổ,
thiếu thốn nên các em cảm nhận tình cảnh này khá hời hợt. Qua những miêu tả
trong văn bản, các em chỉ nhận thức được rằng: cái đói sẽ dẫn đến cái chết chứ các
em không hiểu được trước khi đối mặt với cái chết con người phải trải qua nỗi đau,
sự dày vò về thể xác và tinh thần do đói khát.
Thứ hai : Do chưa cảm nhận được hiện thực khốc liệt nên học sinh sẽ không có
được sự thấu hiếu và cảm thông sâu sắc cho nhân vật: Cảm thấy buồn cười bởi sự
vô duyên, trơ trẽn của thị, sự liều lĩnh của Tràng hơn là thương cảm, xót xa…Chưa
rung động trước tình cảnh của nhân vật nên học sinh khó cảm nhận những tư tưởng
nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Thứ ba: Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi cũng như sự ảnh hưởng của thời đại sống.
Học sinh hiện nay thường có xu hướng thích những cái mới mẻ, thời thượng, không
thích tìm hiểu những cái đã cũ,đã thuộc về quá khứ. Thực tế đó được thể hiện ở
cách học sinh tiếp nhận văn bản một cách thụ động, thiếu sự hứng thú, tích cực,

không đáp ứng được mục tiêu giáo dục hiện nay.
Để khắc phục tình trạng trên, giáo viên cần có sự đổi mới phương pháp và
kĩ thuật dạy học. Đặc biệt cần tìm kiếm các nguồn tư liệu bổ trợ, minh họa để một
mặt giúp học sinh hứng thú học tập, mặt khác tạo điều kiện để học sinh dễ cảm thụ
ý nghĩa tư tưởng của văn bản hơn.
2.3. Giải pháp đã thực hiện
Để giải quyết các thực trạng của vấn đề đã được phân tích ở trên trong dạy học tác
phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, là một giáo viên giảng dạy lâu năm, đã
từng thử nghiệm nhiều phương pháp, nhiều cách thức khi giảng dạy tác phẩm, tôi
cho rằng sử dụng nguồn tư liệu thành văn kết hợp với tư liệu hình ảnh để giảng
dạy tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân sẽ là một cách giúp giờ học trở nên
sinh động, hấp dẫn hơn, khơi gợi được hứng thú, tích cực cho học sinh trong quá
trình học tập, cung cấp thêm cho học sinh những kiến thức thú vị giúp học sinh
lĩnh hội thấu đáo những giá trị nội dung nổi bật của văn bản: Hiện thực mà nhà văn
phản ánh và tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả. Qua đó, học sinh có những rung
động chân thành với tình cảnh của nhân vật, bồi dưỡng được những tình cảm thẩm
mĩ nhân văn tốt đẹp cho tâm hồn các em.
Giải pháp dạy học này được tôi tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Xác định mục đích sử dụng tư liệu
Căn cứ vào mục tiêu của bài học,có thể xác định được việc sử dụng tư liệu
thành văn nhằm các mục đích sau:
8


- Làm nổi bật hiện thực mà tác phẩm đề cập: Nạn đói năm 1945 với sự tàn khốc của
nó biểu hiện ở góc độ rộng trên toàn xã hội và ở góc độ hẹp trong số phận của mỗi
con người.
- Làm sâu sắc thêm tư tưởng của nhà văn, tư tưởng nhân đạo sâu sắc: Cảm thông,
thương xót cho số phận nhỏ bé của con người trong nạn đói, ngời ca vẻ đẹp và sức
mạnh của tình người trong nạn đói cũng như vẻ đẹp của tinh thần lạc quan,tin

tưởng vào tương lai của người lao động. Cuối cùng là tiếng nói phê phán sâu sắc tội
ác của những kẻ đã gây ra nạn đói thảm khốc đó.
- Tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh,giúp học sinh hứng thú từ đó tiến tới tích cực,tự
giác trong học tập.
Bước 2: Xác định yêu cầu của tư liệu
- Ngắn gọn,vừa phải
- Tiêu biểu
- Sát hợp với mục đích đã xác định.
Bước 3: Tìm kiếm tư liệu
- Trước tiên cần xác định cách thức tìm kiếm tư liệu: Từ các tài liệu giáo khoa, các
bài chuyên khảo…
- Xác định các kênh tìm kiếm: Tìm kiếm trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành, tìm
kiếm trên mạng internet.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng của tư liệu để xác định đối tượng tìm kiếm tư liệu:
Giáo viên tìm kiếm; học sinh tìm kiếm theo hình thức giao nhiệm vụ học tập về
nhà. Đối với những tư liệu do học sinh tìm kiếm, giáo viên sẽ giao học sinh tự trình
bày trong tiết học.
Bước 4: Xác định các hoạt động, các nội dung cần sử dụng tư liêu trong bài
giảng:
Trong khuôn khổ nội dung và thời gian phân phối của bài học, tôi xác định lựa
chọn 3 hoạt động cần Sử dụng tư liệu:
- Sử dụng tư liệu trong hoạt động khởi động.
- Sử dụng trong hoạt động hình thành kiến thức.
- Sử dụng trong hoạt động vận dụng sáng tạo.
Tiến trình giảng dạy và sử dụng tư liệu lịch sử sẽ được thể hiện rõ trong giáo án
thực nghiệm (Được tập hợp ở phần phụ lục). Sau đây, tôi chỉ tóm tắt cơ bản các
hoạt động có sử dụng tư liệu lịch sử trong bài học:
Thứ nhất: Sử dụng trong hoạt động khởi động:
Trong hoạt động này tôi chỉ sử dụng tư liệu hình ảnh, các tấm ảnh liên
quan đến các sự kiện lịch sử của năm 1945với yêu cầu học sinh nhận biết các sự

kiện lịch sử qua ảnh, sâu chuỗi được các sự kiện để đưa ra nhận định về thời điểm
được nhắc tới từ các tấm hình. Mục đích của hoạt động này là để hứng thú ban đầu
9


cho học sinh, giúp giáo viên giới thiệu bài mới được tự nhiên, logic. (Những hình
ảnh được sử dụng trong phần này sẽ được tập hợp trong phần phụ lục.
Thứ hai: Sử dụng trong hoạt động hình thành kiến thức:
Sử dụng tư liệu lịch sử trong phần phân tích tình huống truyện độc đáo: Cụ
thể ở phần này, tôi chủ yếu sử dụng tư liệu lịch sử để làm rõ hoàn cảnh chung của
cả xã hội trong tình huống Tràng nhặt vợ. Đó là hoàn cảnh cả xã hội đang rơi vào
tình cảnh hiểm nghèo do nạn đói, sự hiểm nghèo ấy được Kim Lân miêu tả: “Cái
đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào… Người chết như ngả rạ,không buổi sáng nào
người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còn queo bên
đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.
- Trước tiên, giáo viên sẽ sử dụng tranh ảnh do bản thân tìm kiếm, trình chiếu trên
màn hình nhằm minh họa thêm cho những miêu tả của nhà văn. Những tranh ảnh
được dùng để minh họa phải làm nổi bật được hai đặc điểm: Thứ nhất, diễn tả được
cảnh thê thảm của người sống (; Thứ hai, diễn tả được cảnh tồi tệ của sự chết chóc.
Trong quá trình trình chiếu hình ảnh, giáo viên đồng thời nhấn mạnh để học sinh
thấy cảnh: Vì đói mà người sống “Vật vờ, xanh xám như những bóng ma”, người
chết đói thì “Như ngả rạ” - Tiếp theo, giáo viên sẽ sử dụng tư liệu thành văn giúp
học sinh hiểu được sự dày vò về thể xác và tinh thần của người đói (Cái mà những
tấm ảnh của những nhiếp ảnh gia, những bức tranh của các họa sĩ lúc bấy giờ khó
có thể ghi lại). Điểm đặc biệt là những tư liệu thành văn này sẽ do học sinh trình
bày từ nguồn tư liệu đã tìm kiếm được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị
bài đã được giao (2 tổ thực hiện,mỗi tổ 2 dữ liệu). Giáo viên sau khi nhận xét sẽ bổ
sung thêm một đoạn tư liệu thành văn do mình sưu tầm: Trong cuốn sách “Nạn đói
năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta
Moto viết: “ ở xã Tây Lương (thuộc Tiền Hải- Thái Bình) nơi nạn đói diễn ra kinh

khủng nhất, 66,66 % số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả
nhà, nhiều dòng họ chết cả họ.”
Cuốn sách này cũng ghi những tác động sâu sắc của nạn đói đến nhân cách
của con người: “ Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm con người, làm cho con người
mất nhân tính. Trong khi người Việt Nam vốn sống có đạo lý, vậy mà nạn đói ập tới
đã khiến: Cha bỏ con, vợ bỏ chồng, anh em bỏ nhau, đặc biệt có người còn hủy
hoại cả người thân để giành lấy phần cơm thoát chết, nhưng cuối cùng rồi cũng
chết”.
Những tư liệu lịch sử đã được sử dụng ở phần này sẽ là cơ sở để giáo
viên định hướng, dẫn dắt học sinh đi vào phân tích các nhân vật trong văn bản, là
cơ sở để học sinh có nhận thức đúng đắn về nhân vật từ đó có những tình cảm tích
cực đối với nhân vật:
- Hiểu thị là nạn nhân của cái đói, thị đáng thương chứ không đáng trách trong
những hành động vô duyên và trơ trẽn của cô, cảm nhận được lòng ham sống, khát
khao được sống trong con người thị
10


- Hiểu nỗi bất hạnh của nhân vật Tràng, thấy được sự liều lĩnh của anh chàng không
hề buồn cười mà nó xuất phát từ niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi tha thiết của
một con người từng chịu nhiều thiệt thòi, cảm nhận những phẩm chất tốt đẹp của
nhân vật: Niềm khao khát hạnh phúc, lòng thương người, trân trọng con người và
trân trọng niềm hạnh phúc giản dị.
Sử dụng tư liệu lịch sử vào việc phân tích cảnh gia đình Tràng trong buổi sáng
hôm sau.
Trong phần này, giáo viên chủ yếu sử dụng những tư liệu diễn tả về cái
ăn của con người trong nạn đói nhằm minh họa thêm cho cảnh bữa ăn của gia đình
Tràng:
- Trước tiên, giáo viên trình chiếu những hình ảnh do mình sưu tầm được cho học
sinh quan sát (Bức tranh về cô gái làm thịt chuột để ăn, ảnh “Những đứa trẻ đói

ngồi mút vỏ ốc thối trên hè phố nam Định của Nguyễn An Ninh…) (Hình ảnh sẽ
được tập hợp trong phần phụ lục)
- Tiếp đến giáo viên cho học sinh minh họa thêm bằng những đoạn tư liệu thành
văn do học sinh sưu tầm được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị bài ở
nhà đã được giao (2 tổ, mỗi tổ 2 dữ liệu): Học sinh đại diện trình bày.(Những tư
liệu này sẽ được tập hợp trong phần phụ lục.)
- Sau khi nhận xét, giáo viên có thể bổ sung thêm một đoạn tư liệu thành văn do
mình sưu tầm được: Có những câu chuyện được nhân dân ghi nhớ và kể lại rằng:
Người đói thậm chí còn đem phân ngựa của phát xít Nhật ra đãi lại, tìm kiếm
những hạt ngô mà ngựa chưa tiêu hóa hết để ăn cầm cự qua nạn đói.
Những tư liệu lịch sử trên sẽ là cơ sở để giáo viên định hướng, dẫn dắt học
sinh lí giải được nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của những con người trong gia
đình Tràng ở phần sau: Từ sự định hướng tìm hiểu của giáo viên, học sinh hiểu,
hạnh phúc của gia đình Tràng vẫn bị bủa vây bởi cái đói, vẫn bị đe dọa bởi cái chết
nhưng vượt lên trên hoàn cảnh con người vẫn thay đổi tích cực: Thị trở nên “Hiền
hậu đúng mực”,đảm đang chu đáo hơn, Tràng cảm thấy “Nên người” cảm thấy
yêu thương, trân trọng, có trách nhiệm hơn với gia đình của mình. Bà cụ Tứ thì
tươi tỉnh, lạc quan, tin tưởng vào tương lai hơn. Sự thay đổi ấy chỉ có thể có được
nhờ tình người, đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Kim Lân
thể hiện trọng tác phẩm. Qua đó học sinh hiểu sâu sắc tư tưởng sâu xa của tác
phẩm: Kim Lân nói về cái đói là để ngợi ca vẻ đẹp tình người và niềm tin vào cuộc
sống, bộc lộ niềm tin của tác giả vào những phẩm chất tốt đẹp không bao giờ bị
hủy diệt dù trong mọi hoàn cảnh của người lao động.
Thứ ba: Sử dụng trong hoạt động vận dụng sáng tạo:
Trong hoạt động này, giáo viên sẽ giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà sưu tầm thêm
tranh, ảnh,những đoạn phim, những đoạn ghi chép về nạn đói chưa được phổ biến
rộng rãi.
11



2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Bằng phương pháp quan sát đối tượng kết hợp với phương pháp thu
thập, xử lí dữ liệu tôi nhận thấy việc vận dụng kinh nghiệm sử dụng tư liệu lịch sử
vào giảng dạy tác phẩm đã đem lại những hiệu quả nhất định trong việc tạo sự sinh
động, hấp dẫn cho giờ học, kích thích sự hứng thứ cho học sinh, giúp học sinh hiểu
nhanh và sâu kiến thức, chất lượng bộ môn có tiến bộ, năng lực vận dụng kiến thức
liên môn để giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống của học sinh được
nâng cao. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Hiệu quả trong việc tạo sự hứng thú, tự giác, tích cực cho học sinh
trong học tập.
Từ việc khảo sát hoạt động học của học sinh: Qua quan sát hoạt động
của học sinh trong tiết học thực nghiệm có thể thấy, học sinh khá hào hứng khi
nhận nhiệm vụ , tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ như sưu tầm tư liệu, thảo
luận nhóm để trả lời câu hỏi mà giáo viên đặt ra, tích cực trong hoạt động học khác
như: Báo cáo kết quả hoạt động, luyện tập và vận dụng. Có được sự hào hứng và
tích cực đó là bởi giờ học đã trở nên sinh động hơn nhờ các tư liệu lịch sử được sử
dụng, với việc giao nhiệm vụ cho học sinh tìm kiếm các tư liệu lịch sử để thực hiện
các hoạt động học tập, học sinh đã hoàn toàn trở thành chủ thể của hoạt động chứ
không còn là đối tượng. Đặc biệt khả năng phân tích sự ảnh hưởng của hoàn cảnh
đến nội dung, tư tưởng của tác phẩm văn học có sự cải thiện, học sinh hiểu sâu hơn
về nội dung, ý nghĩa, vấn đề xã hội, thời đại mà nhà văn muốn phản ánh trong tác
phẩm văn học chứ không phải là sự cắt nghĩa, lí giải câu từ một cách đơn thuần
nữa.
Bằng phương pháp thu thập thông tin qua phiếu điều tra: sau khi hoàn
thành bài học, tôi tiến hành phát phiếu điều tra để điều tra thông tin về mức độ
hứng thú của học sinh, phiếu điều tra gồm 3 mức độ: Không hứng thú, hứng thú và
rất hứng thú.
Mẫu phiếu điều tra:
PHIẾU ĐIỀU TRA THÔNG TIN VỀ MỨC ĐỘ HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH

SAU KHI HỌC VĂN BẢN “ VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN
LỚP: 12C3
Học sinh đánh dấu x vào cột tương ứng với cảm nhận của bản thân về mức độ
hứng thú học tập
STT
Họ và tên
Các mức độ hứng thú học tập
Không hứng
Có hứng thú
Rất hứng thú
thú
1
2
12


(Phiếu điều tra cụ thể đã được tập hợp trong phần phụ lục)
Kết quả:
Sĩ số
39

Các mức độ hứng thú học tập
Không hứng thú
Có hứng thú
Rất hứng thú
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %

0
0
17
43.6
22
56.4

Thứ 2: Hiệu quả đánh giá bằng phương pháp, thống kê xử lí số liệu:
Tôi tiến hành thu thập số liệu bằng cách cho học sinh làm một bài kiểm tra sau
bài học với đề bài: Cảm nhận của em về những thay đổi của nhân vật thị sau khi
theo làm vợ Tràng (Tác phẩm “Vợ nhặt). Qua đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo
của Kim Lân.
Sau khi thu bài kiểm tra bản thân tiến hành chấm điểm, thống kê điểm
và xử lí điểm của học sinh, sau khi xử lí tôi tiến hành so sánh kết quả giữa lớp đối
chứng và lớp thực nghiệm Kết quả được thể hiện trong bảng thống kê và tổng hợp
sau:
Bảng thống kê chất lượng bài kiểm tra của học sinh tiến hành sau bài học
Lớp

Sĩ số Điểm số
HS
1-4
Số
Tỉ lệ
lượng %
39
1
2.6

12C3(Thực

nghiệm)
Lớp
12A 44
(Đối chứng)

1

2.3

5-6
Số
lượng
21

7-8
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
%
lượng
53.8
16
41.0

9-10
Số
lượng
1

30


68,2

2

11

25

Tỉ lệ
2,6
4,5

Quan sát bảng thống kê có thể thấy lớp thực nghiệm, dù là lớp có chất lượng
đầu vào thấp hơn lớp đối chứng, khá năng tiếp thu cũng như ý thức học tập đều
thấp hơn lớp đối chứng nhưng tỉ lệ điểm từ trung bình trở lên ở bài kiểm tra đã đạt
97.4%, tỉ lệ thấp hơn không đáng kể so với lớp đối chứng là 97.7%. Đặc biệt tỉ lệ
điểm khá ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng đáng kể với 16%. Số liệu trên
chứng tỏ học sinh trong bài học có sử dụng tư liệu lịch sử để giảng dạy đã có sự
chú ý khi học tập dẫn đến việc nắm kiến thức cơ bản vững vàng hơn, hiểu nội dung
tư tưởng của tác phẩm sâu sắc hơn. Điểm số là một trong những tiêu chí quan
trọng để đánh giá chất lượng giáo dục, từ bảng thống kê trên có thể thấy, chất lượng
học tập của học sinh có sự cải thiện rõ rệt khi giáo viên có sự đầu tư, vận dụng kiến
thức liên môn mà ở đây là sử dụng các loại tư liệu lịch sử hợp lí vào hoạt động dạy
học. Kết quả trên có thể còn do tác động của một số yếu tố chủ quan và khách quan
13


khác. Tuy nhiên, sự chênh lệch về kết quả học tập của hai đối tượng nghiên cứu
trên chắc chắn là nhờ sự tác động lớn của tư liệu liên môn đã được sưu tầm, chuẩn
bị kĩ lưỡng.

Thứ ba: Hiệu quả trong việc vận dụng kiến thức liên môn:
Qua hoạt động chấm bài kiếm tra của học sinh lớp thực nghiệm tôi nhận
thấy học sinh có tiến bộ nhiều trong việc biết vận dụng kiến thức lịch sử vào bài
làm văn. Việc vận dụng kiến thức lịch sử ấy nhằm nhiều mục đích như: Mở bài,
liên hệ… Nhưng điểm đáng ghi nhận nhất là học sinh đã biết vận dụng kiến thức
lịch sử để lí giải những đổi thay trong tâm lí nhân vật,làm nổi bật tư tưởng của tác
phẩm văn học.
Sau khi chấm bài, tôi tiến hành thống kê số liệu về chất lượng vận dung kiến
thức liên môn của học sinh theo 3 mức độ như sau:
- Không vận dụng
- Vận dụng mức độ thấp: Đó là những bài chỉ vận dụng trong việc mở bài, trong
giới thiệu hoàn cảnh nhân vật…
- Vận dụng mức độ cao: Đó là những bài vận dụng để lí giải hành động, tâm lí nhân
vật, vận dụng để nhận thức đầy đủ về phẩm chất nhân vật và tư tưởng của nhà văn.
Bảng thống kê chất lượng học sinh vận dụng kiến thức liên môn sau bài học:
Sĩ số
Các mức độ vận dụng
HS
Không vận dụng
Vận dụng mức độ thấp
Vận dụng mức độ cao
Số Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
lượng
39
03
7.7

20
51.3
16
41.0
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Đổi mới phương pháp giáo dục là một mục tiêu lớn của ngành, thiết nghĩ việc
đổi mới ấy cần bắt đầu từ những việc làm cụ thể của giáo viên trong quá trình giáo
dục học sinh. Giống như việc sử dụng các phương pháp, tư liệu dạy học khác, việc
Sử dụng tư liệu lịch sử (Tư liệu hình ảnh và tư liệu thành văn) trong giảng dạy
cũng cần sự tâm huyết, tỉ mỉ của người giáo viên, sự đầu tư thời gian và công sức
trong việc tìm kiếm, chọn lọc, xử lí thông tin. Không chỉ dừng lại ở đó, người giáo
viên cần phải có kĩ năng, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng
dạy học hiện đại nhằm thiết kế giáo án, cung cấp nguồn tư liệu đã thu thập được
đến học sinh một cách hiệu quả nhất. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu học tập của học
sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục, người giáo viên phải không ngừng học tập, trau
dồi kiến thức không chỉ chuyên môn mà cả các kiến thức liên môn, kĩ thuật dạy
14


học, các kĩ thuật sử dung, khai thác công nghệ thông tin…Theo đánh giá của bản
thân, sáng kiến kinh nghiệm về việc “Sử dụng tư liệu lịch sử (Tư liệu hình ảnh kết
hợp tư liệu thành văn) trong giảng dạy tác phẩm vợ nhặt của Kim Lân nhằm tạo
sự hứng thú, chủ động, tích cực, cho học sinh trong học tập ở trường trung học phổ
thông Cẩm Thủy 2” đã góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh,nâng
cao chất lượng giảng dạy của giáo viên Vì vậy sáng kiến này có thể vận dụng để
giảng dạy ở nhiều tác phẩm văn học khác trên tất cả các đối tượng học sinh ở các
khối lớp, tất nhiên khi vận dụng giáo viên cần có sự linh hoạt trong việc giao
nhiệm vụ cho học sinh trong từng hoạt động sao cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh . Để tạo sự hấp dẫn nhằm nâng cao chất lượng bài dạy, giáo viên cũng có

thể kết hợp sử dụng tư liệu lịch sử thành văn với các tư liệu trực quan khác một
cách phù hợp
3.2. Kiến nghị:
- Các cấp quản lí trong ngành cần có chương trình nghiên cứu, sáng tạo thêm thiết
bị dạy học cho bộ môn sao cho phong phú, đa dạng hơn về nội dung và thể loại.
- Nhà trường cần quan tâm đầu tư trang bị thêm thiết bị, đồ dùng dạy học như:
Phim ảnh, tài liệu tham khảo, băng ghi âm …
- Nhà trường, các đơn vị lớp nên tổ chức các hoạt động ngoại khóa, thăm quan các
khu di tích lịch sử, văn hóa, các bảo tàng… giúp học sinh có điều kiện tiếp cận hiện
vật lịch sử, văn hóa nhằm nâng cao hiểu biết, nhận thức cho học sinh.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thanh hóa, ngày 7/5/2020
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Quách Thị Hà

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phan Trọng Luận- Phương pháp dạy học văn học- Giáo trình đào tạo từ xa,
Đại học Huế.
[2] Nghị quyết TƯ 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục.
[3] Phan Ngọc Liên – Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi, Phương pháp dạy
học lịch sử, tập 1, NXB Đại học Sư phạm 2002.
[4] Phan Trọng Luận- Phương pháp dạy học văn học- Giáo trình đào tạo từ xa,
Đại học Huế.
[5] Nguyễn Mạnh Hà- Tiểu luận Văn chương và lịch sử, phác thảo một cách nhìn.

[7] Văn bản hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo về tiến trình dạy học theo mô
hình Trường học mới Việt Nam.


DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Quách Thị Hà
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Cẩm Thủy 2

TT

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
Tên đề tài SKKN
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
Xây dựng hệ thống câu hỏi giúp Sở GD- ĐT
học sinh soạn bài nhằm nâng cao
tính tự giác, tích cực trong dạy học
tiết đọc văn ở trường THPT Cẩm
Thủy 2

Kết quả đánh
Năm học
giá xếp loại
đánh
giá

(A, B, hoặc
xếp loại
C)
Loại B

2013-2014


PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM:
SỬ DỤNG TƯ LIỆU LỊCH SỬ (TƯ LIỆU THÀNH VĂN KẾT HỢP TƯ LIỆU
HÌNH ẢNH) TRONG GIẢNG DẠY VĂN BẢN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN
NHẰM TẠO SỰ HỨNG THÚ, CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC, NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỌC TẬP CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG CẨM THỦY 2.
Tiết (PPCT): 60,61

VỢ NHẶT
(Kim Lân)

I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Về kiên thức.
- Thấy được một cách thấm thía nạn đói khủng khiếp năm 1945 nềm khát khao
hạnh phúc gia đình, niềm tin vào cuộc sống của những người lao động.
- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.
2. Về kĩ năng.
- Đọc - hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại.
- Kĩ năng phân tích tình huống truyện, phân tích nhân vật và diễn biến tâm lí của
nhân vật

3. Về giáo dục.
- GDHS tình yêu thương, sự đồng cảm đối với con người
- Bồi đắp tình yêu và niềm lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống, vào tương lai.
4. Về năng lực:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến tác giả, tác phẩm của Kim Lân
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn 19451975.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về giá trị tư tưởng và nghệ
thuật của truyện.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành công nội dung, nghệ thuật
truyện Vợ nhặt .
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của các nhân vật trong truyện, các nhân vật
có cùng đề tài với các tác giả khác;
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học.
II.CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Phương pháp: Nêu vấn đề, thảo luận nhóm, thuyết trình, thu thập dữ liệu theo
nhóm...


- Thiết bị dạy học: Máy chiếu, nam châm, tranh ảnh…
- Học liệu: Giáo án, tài liệu tham khảo, sách GK, chuẩn kiến thức, kĩ năng…
2. Chuẩn bị của học sinh:
- Đọc văn bản.
- Sưu tầm các tư liệu lịch sử đã được giáo viên giao.
- Soạn bài theo hệ thống câu hỏi giáo viên đã xây dựng.
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC :
1.Ổn định lớp, Kiểm tra bài cũ : 5’
HĐ1: Thuật lại diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân?
TIẾT 1:
2. Tiến trình bài học:

Hoạt động 1: Khởi động (7 phút)
- Mục tiêu: Giới thiệu bài mới, tạo tâm thế hào hứng cho học sinh.
- Phương pháp: Hoạt động cá nhân
- Hình thức tổ chức hoạt động: Tổ chức trò chơi.
- Phương tiện: Phiếu học tập, máy chiếu.
- Cách thức tổ chức trò chơi: Giáo viên chuẩn bị các tư liệu lịch sử bằng hình ảnh
về một số sự kiện tiêu biểu của năm 1945 (Gồm: Nạn đói, Mít tinh phát động khởi
nghĩa, nhân dân đánh chiếm Bắc Bộ phủ, Nhân dân Sài Gòn nổi dậy giành chính
quyền Tháng Tám 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Hồ đọc “Tuyên
ngôn độc lập”, trình chiếu lên màn hình cho học sinh quan sát. Học sinh được chia
làm hai đội chơi (Theo hai dãy bàn của lớp học), chọn học sinh giơ tay trả lời
nhanh nhất, đúng nhất. Phần thưởng là một tràng pháp tay to cho đội chiến thắng.
- Yêu cầu một học sinh xác định thời điểm lịch sử được nhắc tới trong các bức ảnh.
Tứ đó GV giới thiệu bài mới: Năm 1945 là năm của nhiều sự kiện lịch sử của dân
tộc ta, có hào hùng, có bi thương. Nhắc đến năm 1945, người ta không thể không
nhắc tới sự kiện cách mạng Tháng Tám thành công, sự ra đời của nước Việt nam
mới, nhưng người ta càng không thể không nhắc tới sự kiện hơn hai triều đồng bào
đã chết trong một nạn đói khủng khiếp. Nạn đó ấy đã trở thành nỗi ám ảnh của dân
tộc, và sau nay là chất liệu cho nhiều tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu trong số ấy
chính là truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức mới: 33 phút
Mục tiêu: Tổ chức, dẫn dắt học sinh phát hiện, hiểu hệ thống kiến thức của bài học
(Đặc sắc về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm) ; Rèn luyện kĩ năng
đọc
hiểu tác phẩm theo đúng đặc trưng thể loại; Hình thành năng lực ngôn ngữ.
- Phương pháp: Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống và
hiện đại: Thuyết trình, thảo luận nhóm, cắt mảnh ghép, vấn đáp…
- Hình thức tổ chức dạy học: Kết hợp tổ chức hoạt động nhóm và hoạt động cá
nhân.



- Phương tiện thực hiện: Máy chiếu, phiếu học tập
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
* Tổ chức tìm hiểu phần tiểu dẫn
Bước 1: Gv yêu cầu học sinh theo
dõi SGK và trả lời các câu hỏi:
-Tóm tắt kiến thức cơ bản về tác giả
và tác phẩm?
- Em hãy trình bày hiểu biết của
mình về nạn đói năm 1945 xảy ra ở
nước ta?
Bước 2: HS làm việc cá nhân: trả lời
vấn đáp, các HS khác có thể bổ sung
thêm các thông tin mà mình biết
Bước 3: Giáo viên nhận xét, tổng
hợp:

NỘI DUNG CẦN ĐẠT ĐƯỢC
I.TIỂU DẪN
1. Tác giả:
- Kim Lân (1920-2007) tên thật là Nguyễn
Văn Tài, quê từ Sơn Bắc Ninh.
- Xuất thân trong một gia đình nông dân
nghèo, bản thân chỉ học hết bậc tiểu học rồi
vừa làm thợ vừa viết văn
-Năm 1944 tham gia Hội văn hóa cứu quốc,
từ đó hoạt động văn nghệ phục vụ cách
mạng.
-Sáng tác của Kim Lân tập trung vào khung
cảnh nông thôn và người nông dân.

- Là người am hiểu sâu sâu sắc cảnh ngộ và
tâm lí của người nông dân nghèo.
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ: Là tác phẩm xuất sắc nhất của
Kim Lân rút từ tập “Con chó xấu xí”
- Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm được viết
năm 1954 dựa trên tiểu thuyết “Xóm ngụ
cư” viết sau năm 1945. Bối cảnh của truyện
là nạn đói lịch sử năm 1945.

GV: Nạn đói là hậu quả của nhiều
chính sách tàn bạo của thực dân
Pháp và phát xít Nhật: Vơ vét thóc
gạo chuẩn bị cho chiến tranh, bắt
dân nhổ lúa trồng đay… Bên cạnh
đó hạn hán, lũ lụt làm mùa màng
thất bát. Nạn đói bao trùm từ
Quảng Bình trở ra khiến hơn hai
triệu đồng bào ta chết đói.
II.ĐỌC- HIỂU
* Đoc- hiểu khái quát
* Giáo viên tổ chức cho Hs đọc - Tóm tắt tác phẩm:
hiểu khái quát tác phẩm:
- Bố cục:
Bước 1: Gv yêu cầu học sinh tóm tắt * Đọc- hiểu chi tiết
cốt truyện?
Bước 2: HS tái hiện kiến thức, làm
việc cá nhân nhận xét, bổ sung hoàn
thiện câu trả lời.
Bước 3: GV nhận xét, tổng hợp kiến

1. Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm.
thức
- “Vợ”: Người được cưới hỏi theo nghi lễ


1. Phân tích ý nghĩa nhan đề của
tác phẩm.
Bước 1: Giáo viên nêu câu hỏi vấn
đáp
- Hãy giải thích nghĩa của từ “Vợ
nhặt”
- Nhan đề tác phẩm gợi những ý
nghĩa gì? Nêu tác dụng của cách đặt
nhan đề?
Bước 2: HS nghiên cứu câu hỏi
Bước 3: HS trả lời vấn đáp
Bước 4: Gv nhận xét, tổng hợp.

2.Tổ chức phân tích tình huống
truyện.
Bước 1: Gv nêu câu hỏi cho HS trả
lời vấn đáp
Hỏi: Hãy cho biết tình huống độc đáo
nhất trong truyện là gì? Phân tích sự
độc đáo của tình huống ấy? Từ đó
nêu ý nghĩa của tình huống?
(GV có thể chia nhỏ câu hỏi, gợi ý trả
lời khi HS gặp khó khăn) như:
- Kim Lân đã miêu tả cảnh nạn đói
như thế nào?

-Miêu tả cái đói nhằm mục đích gì?
Bước 2: HS nghiên cứu câu hỏi, trả
lời vấn đáp, nhận xét, bổ sung cho
nhau hoàn thiện câu trả lời.
Bước 3: GV nhận xét, tổng hợp.
- GV trình chiếu một số hình ảnh tư
liệu về nạn đói cho HS quan sát kết
hợp giới thiệu về các bức ảnh.(Sử
dụng bài giảng điện tử)- Các hình

về để cùng chung sống, gắn bó với người
đàn ông.
- “Nhặt”: Hành động ngẫu nhiên mà có
được một cách dễ dàng. Cái nhặt được
thường kém giá trị.
 “Vợ nhăt”: Không phải động từ mà là
danh từ chỉ về một kiểu vợ: Người vợ bỗng
dưng có được dễ dàng mà không phải cưới
xin, lễ nghĩa.
- Ý nghĩa: Nhan đề gợi ra thân phận và
tình cảnh tội nghiệp, nhỏ bé của con người
trong nạn đói, gợi sự hứng thú cho người
đọc, đồng thời gợi ra được tư tưởng chủ đạo
mà tác giả muốn bộc lộ trong toàn bộ tác
phẩm: tư tưởng nhân đạo.
2. Tình huống truyện độc đáo
- Tình huống độc đáo: Tràng bỗng dưng
nhặt được vợ.
- Tình huống độc đáo ở chỗ:
+ Tràng vốn là một thanh niên thô kệch,

xấu xí (Dẫn chứng) nhà nghèo lại là dân
ngụ cư  Điều kiện hoàn cảnh riêng của
Tràng khó có cô gái nào chịu cưới hỏi chứ
chưa nói đến theo không.
+ Việc Tràng “Nhặt” vợ lại diễn ra trong
hoàn cảnh chung vô cùng hiểm nghèo: Nạn
đói hoành hành dữ dội khắp nơi: Người
sống thì “Xanh xám như những bóng ma”,
người chết thì: “Như ngả rạ” khiến cho
không khí cũng đặc quánh “mùi gây của
xác người. Trong hoàn cảnh ấy lấy vợ là
một việc liều lĩnh mà ít ai dám lựa chon.
 Bởi vậy việc Tràng lấy vợ nhặt khiến
dân xóm ngụ cư người ngạc nhiên, kẻ thích
thú, người lo lắng, ái ngại cho Tràng.


ảnh tập trung làm rõ cảnh của
người sống và người chết trong nạn
đói đêù vô cùng đau đớn, khổ sở do
nạn đói dày vò.
- GV cho HS của 2 nhóm trình bày
một số tư liệu thành văn đã sưu
tầm được (Gv đã giao nhiệm vụ
chuẩn bị ở nhà)
(Các tư liệu này sẽ được tập hợp
trong phần mục lục của sáng kiến
kinh nghiệm)
- Sau khi quan sát và lắng nghe các
tư liệu lịch sử GV đặt câu hỏi tình

huống giả định cho HS tự do trả lời
theo quan điểm của mình: Trong
hoàn cảnh đó, nếu là em em sẽ quan
tâm đến vấn đề nào nhất (Gợi ý: Vấn
đề để được tồn tại hay vấn để để có
cuộc sống hạnh phúc)?
- Từ những câu trả lời của HS GV
nhận định: Trong hoàn cảnh đó hầu
như con người đều chỉ nghĩ đến việc
làm sao để sống sót qua khỏi nạn
đói. Nhưng Tràng lại ngược lại:
Chọn hạnh phúc đôi lứa, chấp nhận
đèo bòng thêm một miệng ăn.
(Hết tiết 1, chuyển tiết 2)
- Tiếp hoạt động hình thành kiến
thức mới (20p)
3. Phân tích đặc điểm các nhân vật
qua tình huống truyện
Bước 1: GV tổ chức cho HS thảo
luận, chia lớp làm 4 nhóm thảo luận
các nội dung theo phiếu học tập.
- Nhóm 1,2: Phân tích nhân vật Tràng
khi nhặt vợ và đưa vợ về nhà.
- Nhóm 3: Phân tích nhân vật người
vợ nhặt.
- Nhóm 4: Phân tích nhân vật bà cụ

- Ý nghĩa của tình huống:
+ Làm nổi bật hiện thực đen tối của người
lao động trong nạn đói

+ Tình huống truyện giúp làm nổi bật đặc
điểm tính cách của nhân vật: Niềm khao
khát sống, khao khát hạnh phúc lứa đôi…
của con người trong hoàn cảnh nguy kịch
khi con người phải đối diện với cái chết
ngay bên cạnh. Đó cũng là chiều sâu tư
tưởng nhân đạo của Kim Lân “Những
người đói họ không nghĩ đến cái chết, họ
nghĩ về cái sống”

3.Đặc điểm các nhân vật qua tình huống
truyện
a. Nhân vật Tràng.
- Bối cảnh nhặt được vợ: Qua một câu hò
vu vơ khi đang đẩy xe bò, hai lần gặp gỡ
chớp nhoáng chưa kịp để nhớ mặt với bốn
bát bánh đúc bị bắt mời, vài lời đối thoại,
một lời rủ rê tựa như đùa: “ Này nói đùa
chứ… cùng về”.
- Tâm trạng ban đầu: “Chợn nghĩ…”: Cũng
lo sợ, đắn đo bởi hoàn cảnh. Sau đó tặc lười
“Chậc, kệ” Cho thấy sự khát khao hạnh
phúc lứa đôi bất chấp hoàn cảnh của Tràng.
- Trước khi ra về: Tràng đưa thị vào chợ
mua cho thị cái thúng đựng vài thứ lặt vặt,
vào hàng cơm đánh một bữa thật no, không
quên mua thêm hai hào dầu (Thứ xa xỉ phẩn


Tứ.


Bước 2: Các nhóm thảo luận hoàn
thiện câu trả lời theo phiếu học tập
(5-7 phút).
- HS đại diện cho nhóm trình bày kết
quả thảo luận, HS khác nhận xét, bổ
sung.

Bước 3: GV nhận xét, bổ sung, tổng
hợp.

GV trích dẫn một đoạn tư liệu lịch sử
thành văn ghi chép về sự tác động
mạnh mẽ của cái đói đến nhân cách
con người:
“Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm
con người, làm cho con người mất
nhân tính. Trong khi người Việt

lúc bấy giờ)vì “Vợ mới vợ miếc cũng phải
cho nó sáng sủa”  Những hành động, việc
làm cho thấy sự hào phóng, chu đáo và tinh
tế của Tràng ẩn đằng sau sự xấu xí, thô
kệch của ngoại hình và ngôn ngữ.
- Trên đường về: Gương mặt “Phớn phở…
lấp lánh”, không đùa cợt lại với bọn trẻ như
mọi khi mà biết nghiêm nét mặt không
bằng lòng vì sợ bị chúng trêu đùa, thích chí
và tự đắc bên cạnh sự ngượng ngùng của
thị, thỉnh thoảng trò chuyện và “Trong phút

chốc Tràng như quên hết mọi tăm tối ê chề,
chỉ còn tình ngĩa với người phụ nữ đi bên
cạnh”  Hành động, tâm trạng đó cho thấy
sự chững trạc, nghiêm túc, niềm hạnh phúc
vui sướng của Tràng bởi có người vợ nhặt
bên cạnh, thể hiện niệm trân trọng mà
Tràng dành cho người vợ nhặt, trân trọng
niềm hạnh phúc nhỏ bé mà Tràng tình cờ có
được.
b. Nhân vật người vợ nhặt:
- Ngoại hình: “Gương mặt lưỡi cày xám
xịt”, “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, nom thị
“Gầy sọp hẳn đi” Cái đói hiển hiện nơi
thể xác con người.
- Tính cách: Ăn nói cong cớn, chao chát
chỏn lỏn, hành động vô duyên thiếu thể
diện: Gợi ý được ăn thẳng thừng “Ăn gì thì
ăn chả ăn giầu”, được mời ăn hai mắt sáng
lên, ăn liền một chập bốn bát banh đúc…,
Liều lĩnh bất chấp theo không một người
đàn ông xa lạ mới gặp chóng vánh hai lần.
 cái đói như giày vò tâm hồn làm tha hóa
nhân cách con người, không còn biết đến tự
trọng, thể diện. Đó cũng là niềm khát khao
được sống một cách mãnh liệt của con
người khi đứng trước cái chết.
- Trên đường về: Rón rén, e thẹn, trước đôi
mắt của mọi người nơi xóm ngụ cư nhìn



Nam vốn sống có đạo lý, vậy mà
nạn đói ập tới đã khiến: cha bỏ con,
vợ bỏ chồng, anh em bỏ nhau, đặc
biệt có người còn hủy hoại cả người
thân để giành lấy phần cơm mong
thoát chết, nhưng cuối cùng rồi
cũng chết...” (Nạn đói năm 1945 ở
Việt Nam - Những chứng tích lịch
sử - GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng
Viện Sử học Việt Nam và GS Furuta
Moto (người Nhật)

mình khiến thị càng ngượng nghịu “Chân
nọ bước díu cả vào chân kia” Thị không
phải là con người trơ trẽn, không biết tự
trọng như những gì ta thấy.
- Khi về đến nhà: Nén tiếng thở dài trước
căn nhà rúm ró, chỉ dám ngồi mớm nơi mép
giường khi chờ đợi mẹ Tràng về. Cất tiếng
chào U và khép nép đứng một chỗ nghe bà
cụ dặn dò, khuyên răn.  Rõ ràng thị cũng
là một cô gái có ý tứ, biết ý thức rõ ràng về
thân phận của mình- Thân phận của một
nàng dâu “Nhặt”.
 Nhân vật người vợ nhặt có tác dụng
phản ảnh sâu sắc tình cảnh đói khát: cái đói
dày vò cả thể xác và tinh thần con người,
làm biến chất về nhân cách… Qua đó có tác
dụng lên án sâu sắc tội ác của kẻ thù.
Nhưng hơn hết vượt lên hoàn cảnh con

người vẫn tiềm tàng những phẩm chất tốt
đẹp không gì hủy hoại được.
c. Nhân vật bà cụ Tứ
- Nhân vật chủ yếu được khắc họa ở diễn
biến tâm trạng đầy phức tạp.
- Ban đầu khi chưa hiểu rõ sự tình lòng bà
đầy băn khoăn, ngạc nhiên với bao phỏng
đoán.
- Sau khi hiểu rõ sự tình: bà vừa ai oán xót
thương cho số kiếp con mình, vừa lo lắng
cho tương lai các con, cảm thông, thương
cho cô gái gặp tao đoạn khó khăn này mới
lấy con mình…Lòng bà mừng vui, lo lắng
lẫn lộn.
 Diễn biến tâm trạng cho thấy tấm lòng
vị tha, nhân hậu bao la của người mẹ giữa
cái đói, cái chết đe dọa.
4.Gia đình Tràng vào buổi sáng hôm sau
sau khi có vợ.
a. Cái đói vẫn bủa vây hạnh phúc của
4.Tìm hiểu những đổi thay của gia Tràng, gia đình Tràng sau khi Tràng có
đình Tràng sau khi có vợ


×