Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

SKKN: Một số biện pháp tạo xúc cảm lịch sử trong dạy học Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 34 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO XÚC
CẢM LỊCH SỬ TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954
- 1975


A. SƠ YẾU LÝ LỊCH

Họ và tên: Khuất Thị Hồng
Sinh ngày: 08/04/1981
Năm vào ngành : 2003
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Ba Vì
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Hà Nội
Hệ đào tạo: Chính quy
Bộ môn giảng dạy: Lịch sử


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Thực hiện lời dạy đó của chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ môn Lịch sử đã
được Nhà nước và Chính phủ ta quan tâm chú trọng đưa vào chương trình


giảng dạy cho học sinh từ cấp tiểu học và cũng để môn học này phát huy được
vai trò là “cô giáo của cuộc sống”.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của các cuộc đấu tranh dựng nước
và giữ nước, đặc biệt giai đoạn 1954 – 1975, giai đoạn hào hùng nhất của lịch
sử dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, nhân dân Việt Nam đã tiến hành
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại
nhiều chiến lược chiến tranh của Mĩ : chiến lược Chiến tranh đơn phương,
Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh và Đông
Dương hóa chiến tranh. Những chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta trước kẻ thù
được coi là lớn mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ và cho đến tận ngày nay đã
nâng cao vị thế của dân tộc ta trên trường quốc tế. Hơn khi nào hết, nhân dân
Việt Nam luôn phải khắc sâu trong mình khí thế của một thời đại anh hùng đó.
Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn hiện nay là chất lượng giáo dục nói
chung, bộ môn lịch sử nói riêng ngày càng bị giảm sút. Trong giai đoạn xã hội
phát triển nhanh theo hướng hiện đại hóa, cơ chế thị trường đã làm xuất hiện
lối sống thực dụng, một bộ phận không nhỏ học sinh ở trường phổ thông không
còn coi trọng kiến thức lịch sử, dẫn đến việc học sinh học chống đối, học trước
quên sau, có thái độ hời hợt khi học lịch sử. Bộ môn lịch sử bị mất dần vị trí,
trở thành môn học phụ trong khi trước đây lịch sử là môn học quan trọng để
tuyển chọn nhân tài, muốn đỗ đạt ra làm quan giúp nước phải “sôi kinh nấu
sử”. Do đó, một bộ phận không nhỏ giới trẻ ngày nay quên mất khí thế hào
hùng của dân tộc, không còn thấy được công lao to lớn của cha ông đã ngã
xuống để có được nền hòa bình độc lập hôm nay.
Bộ môn lịch sử có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục thái độ, tư
tưởng, tình cảm và hình thành thái độ đúng đắn với sự phát triển hợp quy luật


xã hội và xác định nhiệm vụ cho thế hệ trẻ trong hiện tại và tương lai… Vì vậy,
việc tạo xúc cảm lịch sử cho HS là một trong những biện pháp góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục bộ môn Lịch sử một cách có hiệu quả.

Với đặc trưng, lịch sử chính là bản thân cuộc sống rất phong phú, đa
dạng và sinh động bao trùm mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, đấu
tranh giai cấp, đấu tranh chính trị... cho nên học lịch sử không đơn thuần là ghi
nhớ ngày tháng, sự kiện. Do đó, yêu cầu việc giảng dạy lịch sử của giáo viên
phải rõ ràng, sinh động và có cảm xúc để tạo ra sức hấp dẫn với chủ thể nhận
thức, dựng lại bức tranh quá khứ một cách chính xác nhất, học sinh có được
cảm giác như chính mình được tham gia vào sự kiện đó.
Căn cứ vào ảnh hưởng của xúc cảm người ta chia xúc cảm thành hai loại:
tích cực và tiêu cực. Những đối tượng thỏa mãn được nhu cầu của con người
gây nên những xúc cảm tích cực như: vui sướng, hạnh phúc, tự tin… loại xúc
cảm này sẽ có tác dụng nâng cao hoạt động của đời sống con người. Trái lại,
những gì cản trở cho việc thỏa mãn nhu cầu sẽ gây nên những xúc cảm tiêu cực
như: buồn bã, chán nản, sợ hãi…những xúc cảm này sẽ làm hạ thấp hoạt động
sống của con người, làm yếu đi nghị lực của họ.
Trong quá trình dạy học lịch sử giáo viên đóng vai trò chủ đạo bởi giáo
viên là người chủ động về nội dung kiến thức giảng dạy và lựa chọn phương
pháp truyền đạt, tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học, điều khiển giờ
học một cách linh hoạt, sinh động. Muốn quá trình dạy học đạt được kết quả
cao giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh diễn ra trong quá
trình nhận thức để có những tác động phù hợp về mặt sư phạm nhằm kích thích
hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Việc tạo được những xúc cảm lịch sử sẽ
tạo được động cơ tích cực thúc đẩy học sinh hăng hái học tập.
Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản của giáo viên là phải hình thành ở học sinh nhu
cầu với kiến thức và khi nhu cầu đó được thỏa mãn nghĩa là đã gây được xúc
cảm tích cực, kích thích hoạt động học tập độc lập, sáng tạo của học sinh.
2.Cơ sở thực tiễn
Qua quá trình giảng dạy của bản thân và dự giờ đồng nghiệp ở trường phổ
thông nơi tôi công tác, tôi nhận thấy các giáo viên đã ý thức được vai trò của
việc sử dụng các biện pháp tạo xúc cảm lịch sử trong dạy học lịch sử nói chung
và dạy học lịch sử dân tộc nói riêng để nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.

Nhưng xúc cảm là một lĩnh vực khó và tinh tế của con người nên việc sử dụng
các biện pháp tạo xúc cảm còn gặp nhiều khó khăn.


Việc tạo xúc cảm lịch sử cho học sinh, các giáo viên sử dụng biện pháp
trình bày miệng là chủ yếu nhưng việc trình bày miệng chưa đem lại hiệu quả
cao vì lời nói của giáo viên chưa sinh động, chưa gợi cảm., những câu chuyện,
nội dung trình bày chưa thực sự tạo xúc cảm cao.
Một số giáo viên có sử dụng đồ dùng trực quan để tạo hứng thú học tập
cho học sinh, tuy nhiên nhiều đồ dùng trực quan còn chưa phù hợp với nội
dung bài học. Giáo viên có khi chỉ đưa ra hình ảnh mà chưa cung cấp cho học
sinh kiến thức lịch sử qua hình ảnh đó và cũng chưa rút ra ý nghĩa mang tính
giáo dục tư tưởng.
Về phía học sinh: Đa số học sinh rất ngại học lịch sử vì quá dài, khó nhớ
các sự kiện và nhàm chán, khô khan. Mặc khác, trong sự phát triển của xã hội,
đa số học sinh coi Lịch sử là bộ môn phụ, các em còn để giành thời gian cho
các môn học chính, môn dự thi vào Đại học, cao đẳng. Học sinh có học cũng
chỉ mang tính chất đối phó với các bài kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định
kì nên chất lượng không cao.
Thực tế, tôi đã tiến hành khảo sát, điều tra 3 lớp 12 tôi giảng dạy ( 126
học sinh trường THPT Ba Vì) thông qua bài khảo sát chất lượng đầu năm và
thu được kết quả như sau:
LỚP

SĨ SỐ

GIỎI

KHÁ


TRUNG BÌNH

YẾU, KẾM

12A5

43

1

9

23

10

12A8

41

0

10

26

5

12A9


42

2

15

23

2

Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, bản thân tôi là một giáo viên dạy lịch sử
đã luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm để đổi mới phương pháp
dạy học nâng cao chất lượng giảng dạy. Tôi nhận thấy, việc sử dụng các biện
pháp tạo xúc cảm lịch sử có tác dụng không nhỏ đến quá trình tiếp thu tri thức,
giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cũng như phát triển tư duy cho học sinh.
Song để sử dụng các biện pháp tạo xúc cảm như thế nào để góp phần nâng cao
hiệu quả bài học? Tôi xin trình bày một số kinh nghiệm của mình ở phần nội
dung.
II. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Qua việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần định hướng
nhận thức đúng đắn cho học sinh, giáo dục tình yêu đất nước, tinh thần tự hào
dân tộc, lòng biết ơn với các thế hệ cha ông đã ngã xuống cho hòa bình, độc lập


hôm nay, từ đó ý thức được trách nhiệm của mình với quê hương đất nước.
Việc sử dụng một số biện pháp tạo xúc cảm học tập lịch sử của giáo viên cũng
làm cho tiết học có hiệu quả, học sinh yêu thích môn Lịch sử hơn, qua đó nâng
cao chất lượng bộ môn Lịch sử nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung,
từng bước đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục của Đảng và nhà nước.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, tôi đã thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận cơ bản về cảm xúc và việc dạy học tạo xúc
cảm cho HS trong dạy học lịch sử.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử.
- Nghiên cứu các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
- Nghiên cứu, khai thác nội dung sách giáo khoa phần lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1954 – 1975.
- Khai thác, sử dụng tài liệu về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954– 1975.
- Dự giờ đồng nghiệp, rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh , bổ sung
hợp lý.
IV. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về việc tạo xúc cảm học tập lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1975 nằm trong 3 bài: Baì 21 “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam
(1954- 1965)”;Bài 22 “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 – 1973)”;
Bài 23 “Khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội ở miền Bắc,giải phóng hoàn
toàn miền Nam (1973-1975)” thuộc chương IV, phần 2 Lịch sử Việt Nam từ
năm 1919 đến năm 2000 chương trình Lịch sử lớp 12 (Chương trình chuẩn).
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài là học sinh lớp 12A5,
12A8, 12A9 - Trường THPT Ba Vì – Huyện Ba Vì- Thành phố Hà Nội


B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO XÚC CẢM LỊCH SỬCHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1954 – 1975

1. Những xúc cảm có thể tạo ra cho học sinh thông qua việc giảng dạy
lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
- Thông qua việc tìm hiểu về diễn biến, kết quả của cuộc chiến tranh có
thể tạo cho học sinh thái độ căm thù chiến tranh, mong muốn bảo vệ hòa bình,
có thể đánh giá được vai trò lãnh đạo của Đảng và củng cố niềm tự hào dân tộc.
- Thông qua các biểu tượng sinh động cụ thể, những câu chuyện hay
hình ảnh về tội ác chiến tranh do đế quốc Mĩ, quân đội tay sai và các nước thân
Mĩ gây ra, hậu quả của nó đối với nhân dân Việt Nam sẽ tác động mạnh đến tư
tưởng tình cảm của học sinh.
- Thông qua các câu chuyện, các tấm gương anh hùng giáo dục cho các
em lòng biết ơn, từ đó ý thức được trách nhiệm của mình đối với quê hương,
đất nước
2. Một số biện pháp tạo xúc cảm học tập lịch sử cho học sinh qua dạy
học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975
2.1. Thông qua trình bày miệng của giáo viên.
Lời nói là phương tiện dạy học quan trọng nhất của giáo viên, lời giảng
của giáo viên là nguồn kiến thức sinh động nhất tác động mạnh mẽ đến tư duy
và tình cảm, khơi dậy những xúc cảm tích cực của học sinh. Ngôn ngữ sẽ giúp
cho người giáo viên hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học lịch sử về cả ba mặt:
kiến thức, kỹ năng và tư tưởng thái độ của học sinh, khơi dậy trong các em các
xúc cảm lịch sử. Bởi vậy, “ngôn ngữ rõ ràng, giàu hình ảnh, hấp dẫn của giáo
viên có ảnh hưởng rất lớn tới trí tuệ và trái tim học sinh”.
Ví dụ 1: Bằng giọng nói truyền cảm để tường thuật hoặc miêu tả,
tạo biểu tượng về một số sự kiện, nhân vật lịch sử mà không sử dụng đồ
dùng trực quan.
Ở bài 22: Ở mục IV.2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương, tôi tạo biểu tượng cho học sinh
về cuộc tập kích 12 ngày đêm bằng B52 của Mĩ: Chỉ trong 12 ngày đêm Mĩ đã
sử dụng trên 700 lần chiếc máy bay B52 và gần 4000 lần chiếc máy bay chiến
thuật ném bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi trên miền Bắc nước ta

hơn 100.000 tấn bom đạn. Riêng Hà Nội 441 lần chiếc B52 cùng nhiều máy


bay chiến thuật ném hơn 40.000 tấn bom (tương đương với 2 quả bom nguyên
tử mà Mĩ đã ném xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki, Nhật Bản). Ních-xơn
muốn biến Hà Nội thành Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki không cần bom nguyên tử
, “ biến miền Bắc trở về thời kì đồ đá”…
Qua đó, học sinh thấy được tội ác của Mĩ đã gây ra cho nhân dân miền
Bắc, đặc biệt là nhân dân Hà Nội, Hải Phòng , đồng thời thấy được sự khốc liệt
của chiến tranh.
Thế nhưng cuộc tập kích này đã bị nhân dân ta đánh bại chỉ với súng
trường, tên lửa SAM2… những thứ vũ khí so với vũ khí của Mĩ thật thô sơ
nhưng với quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập tự do” quân và dân ta đã
làm tiêu tan hình ảnh về “pháo đài bay” B52 “bất khả xâm phạm”. Có được
chiến thắng đó là do tầm nhìn xa trông rộng, sự chỉ đạo chiến lược tài tình của
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu cuộc chiến tranh phá
hoại của Mĩ. Ngay từ ngày 12/4/1966, đế quốc Mĩ tung ra B52 ra miền Bắc
ném bom tại Đèo Mụ (Quảng Bình). Trung ương Đảng và Bác Hồ đã nhận
định: dứt khoát Mĩ sẽ sử dụng B52 vào đánh Hà nội và chỉ thị cho Bộ Tư lệnh
và Quân chủng Phòng không – không phải tổ chức ngay cách đánh máy bay
B52, phải bắn rơi bằng được B52 của Mĩ trên miền Bắc. Từ đó, củng cố niềm
tin của học sinh vào Đảng, vào tinh thần chiến đấu của quân và dân ta.
Bài 23: Ở mục IV. 1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước(1954-1975). Để tạo xúc cảm cho học sinh, lôi cuốn học
sinh vào bài giảng, tôi dẫn dắt vào bài với những lời nói sinh động như sau:
Nếu đem vũ khí chọi vũ khí, đem tiềm lực kinh tế so sánh với tiềm lực kinh tế
thì rõ ràng đây là một sự chênh lệch không thể tưởng tượng nổi và phần thắng
chắc chắn thuộc về Mĩ. Nhưng thực tế phần thắng đã thuộc về ta. Vấn đề đặt ra
tại sao chúng ta lại đánh thắng?
Bài 22: Khi giảng đến mục IV.2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến

tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương, tôi sử dụng câu
chuyện về anh hùng diệt máy bay B52 – Phạm Tuân :
“Đêm 27 – 12 – 1972, nhiều tốp B52 từ hướng tây bắc bay vào bắn phá
Hà Nội. Được lệnh cất cánh, Phạm Tuân lập tức điều khiển máy bay tiếp cận
khu vực có máy bay địch.. Lúc này máy bay F4 bay ở nhiều độ cao, bảo vệ B52
rất chặt chẽ. Anh dũng cảm xông thẳng vào tốp B52, bắn 2 quả tên lửa, hạ tại
chỗ một chiếc. Sau đó, anh nhanh chóng vượt khỏi tốp máy bay yểm trợ của


địch về hạ cánh an toàn. Hành động của anh được nhân dân và đồng đội mến
phục, quân thù khiếp sợ”
Bài 23: Ở mục IV. 1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước(1954-1975), tôi kể cho học sinh nghe chiến công của nữ anh
hùng La Thị Tám: La Thị Tám quê ở Hà Tĩnh, 1967, khi vừa tròn 18 tuổi, La
Thị Tám gia nhập đội thanh niên xung phong và được biên chế vào đơn vị chủ
lực 2- Giao thông vận tải đóng tại xã Đồng Lộc. Chị được giao nhiệm vụ đứng
trên một quả đồi cao, phía trái của ngã ba Đồng Lộc vào những lúc máy bay
Mĩ ném bom để đếm số lượng bom kẻ thù trút xuống. Sau khi máy bay Mĩ vừa
đi là chị chạy xuống cắm tiêu đánh dấu cho công binh đến phát nổ. Suốt 200
ngày đêm ròng rã, chị đã cắm tiêu được số lượng bom lớn : 1205 quả. 1969 chị
được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang khi mới tròn 20 tuổi
và là nguyên mẫu nữ nhân vật trong bài hát “ Người con gái Sông La ” của
nhạc sĩ Doãn Nho.
Với một giọng điệu tường thuật mẩu chuyện, từ cung cấp sự kiện, tôi tạo ra
cho học sinh cảm xúc thích thú trước những hiểu biết mới sâu sắc, có ấn tượng
mạnh mẽ. Những xúc cảm này không thể có được nếu bài tường thuật khô
khan, thông báo vắn tắt sự kiện.
Ví dụ 2: Đọc những đoạn văn, thơ ngắn minh họa cho bài học.
Bài 23: Ở mục IV.1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước(1954-1975),tôi trích dẫn đoạn thơ:

“ …..Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai…”
( Ra trận – Tố Hữu)
Hay câu thơ :
“ Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
( Nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi tổ quốc”
( Thanh Thảo)
Qua những câu thơ, các em một trong những nguyên nhân thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là truyền thống yêu nước. Đó là sự hy
sinh cao cả của mỗi người, mỗi gia đình và cả dân tộc, vì tổ quốc họ hiến dâng
cả tuổi trẻ, cả máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây cũng là lí do giải
thích vì sao một dân tộc nhỏ yếu lại có thể chiến thắng một đế quốc hùng mạnh
nhất thế giới. Từ đó các em ý thức được: Các em hôm nay được sống trong


thời bình, sinh ra lúc nước nhà đã thôi không còn máu lửa của chiến tranh. Các
em cần ra sức học tập thật giỏi để trở thành những chủ nhân tương lai của đất
nước.
2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan.
Đồ dùng trực quan có vai trò quan trọng trong dạy học nói chung và dạy
học lịch sử nói riêng ở trường THPT, đặc biệt sẽ phát huy được ưu thế trong
dạy học lịch sử, bởi đặc trưng của bộ môn “tính quá khứ”, “tính không lặp
lại”. Đồ dùng trực quan sẽ giúp học sinh có được biểu tượng chân thực về quá
khứ lịch sử, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu được bài học lịch sử và làm cho giờ
học sôi nổi và hấp dẫn. Đồng thời, đồ dùng trực quan còn có ý nghĩa giáo dục
tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ, góp phần hình thành cho các em những phẩm chất
đạo đức cần thiết.
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử hết sức phong phú và đa dạng
bao gồm đồ dùng trực quan hiện vật (các di vật của nền văn hóa còn lưu lại),

đồ dùng trực quan tạo hình (tranh ảnh, phim, video, đồ dùng phục chế…), đồ
dùng trực quan quy ước (bản đồ, sơ đồ, niên biểu…). Trong các đồ dùng trực
quan này, nhóm trực quan quy ước và trực quan tạo hình được sử dụng nhiều
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Song, tùy vào mục đích, yêu cầu của
bài học, căn cứ vào nội dung từng mục học và khả năng lĩnh hội tri thức của
học sinh mà lựa chọn đồ dùng trực quan cho phù hợp, đem lại hiệu quả cao
nhất.
Ví dụ 1: Sử dụng tranh ảnh.
Ở bài 21: Ở mục V.2. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của Mĩ, khi nói về cuộc đấu tranh của tín đồ Phật giáo chống
chính quyền Mĩ – Diệm , tôi sử dụng hình ảnh Hòa Thượng Thích Quảng Đức
tự thiêu tạo cho học sinh ấn tượng sâu sắc về sự kiện lịch sử này, giúp các em
nhớ lâu và nắm chắc kiến thức: Tháng 5-1963, chính phủ Ngô Đình Diệm ban
hành lệnh cấm việc treo cờ Phật giáo vào ngày lễ Phật Đản. Ngày 11-6-1963,
khoảng 350 hòa thượng và ni cô tiến hành diễu hành lên án chính sách kì thị
Phật giáo và đòi bình đẳng tôn giáo, Thích Quảng Đức ngồi trong chiếc ô tô
Austin Westmister dẫn đầu đoàn diễu hành . Sự việc diễn ra tại ngã tư đương
phố Sài Gòn, Thích Quảng Đức ra đi cùng với 2 nhà sư khác. Một người đặt 1
tấm đệm xuống đường còn người kia mở ca bin xe và lấy ra một bình xăng
dung tích 5 galon( gần 4l). Đoàn diễu hành tạo thành nhiều lớp vòng tròn xung
quanh, Thích Quảng Đức bình tĩnh ngồi thiền trên tấm đệm. Hai nhà sư bắt


đầu trút xăng lên đầu ông. Thích Quảng Đức lần tràng hạt và bắt đầu niệm “
Nam Mô A Di Đà Phật” trước khi tự tay châm lửa bằng diêm. Lửa nhanh
chóng thêu rụi áo cà sa và da thịt của vị hòa thượng, khói đen bốc lên từ cơ thể
đang cháy bùng của ông . Chừng 10 phút sau thì lửa tàn, Thích Quảng Đức đổ
gục xuống đường. Sau khi chết, thi hài của Thích Quảng Đức đã được hỏa táng
lại, nhưng trái tim của ông không cháy mà vẫn còn nguyên, về sau được đặt
trên một chiếc cốc rượu lễ bằng thủy tinh tại chùa Xá Lợi. Giới phật tử coi đây

là một điều thiêng, một biểu tượng của lòng trắc ẩn và suy tôn ông thành một
vị Bồ tát.

Ở bài 22: Mục I.2. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ của Mĩ ”.
Khi giảng đến nội dung “ Những thắng lợi của ta trên mặt trận chính trị ”, tôi
sử dụng bức hình “Nhân dân Mĩ biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, đòi
quân Mĩ rút về nước”( hình 70- SGK Lịch sử 12).


Trước khi cung cấp cho các em những thông tin về bức hình này, tôi yêu cầu
các em quan sát hình và rút ra nhận xét. Tôi gợi ý để các em tự tìm hiểu nội
dung qua các câu hỏi: Người trong bức ảnh mà người dân Mĩ giơ cao là ai?,
Dòng chữ trên bức ảnh đó có nghĩa là gì ?. Các em có thể nhận ra, đó là tổng
thống Mĩ Giônxơn và dòng chữ đó có nghĩa là kẻ sát nhân. Bức hình ghi lại
cuộc biểu tình của nhân đân Mĩ trước Lầu năm góc, phản đối chiến tranh ở
Việt Nam, đòi Mĩ phải rút quân về nước. Cuộc biểu tình thu hút hàng vạn
người tham gia, gồm các tầng lớp trong xã hội, cả đàn ông, đàn bà, người già,
thanh niên …..Trong lịch sử Hoa Kì chưa bao giờ có một phong trào phản đối
chiến tranh rầm rộ như thời kì chiến tranh xâm lược Việt Nam. Điều đó cho
thấy, nhân dân Mĩ, đặc biệt những người lính Mĩ đang tham chiến ở Việt Nam
không chỉ thấy sự vô nghĩa, tính chất phi đạo lí của cuộc chiến tranh xâm lược
này, mà còn thức tỉnh, kính phục một dân tộc giàu lòng yêu nước, dũng cảm
chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự do của mình. Họ hiểu rằng dù Mĩ có đổ bao
nhiêu quân lính, tiền của, súng đạn, thực hiện bao nhiêu chiến lược cũng
không thể thắng được nhân đân Việt Nam.
Khi dạy bài 22: Ở mục II. 2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương, khi giảng về vai trò hậu
phương của miền Bắc chi viện cho miền Nam, tôi sử dụng các bức ảnh từng
đoàn quân, đoàn xe chi viện cho tiền tuyến miền Nam qua tuyến đường Trường
Sơn lịch sử. Bức hình tạo cho các em biểu tượng về một dân tộc anh hùng,

đoàn kết trong chiến đấu. Vì tiền tuyến miền Nam, nhân dân miền Bắc quyết


tâm “một người làm việc bằng hai”, cũng để thực hiện chân lí “ dân tộc Việt
Nam là một, nước Việt Nam là một”.

Nhưng để cho mạch máu giao thông từ Bắc vào Nam được thông suốt,
biết bao xương máu của các chiến sĩ và nhân dân đã đổ xuống, tôi sử dụng hình
ảnh 10 cô gái TNXP hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc.


Tôi phát vấn học sinh “Em biết gì về sự kiện ở ngã ba Đồng Lộc”, trước
khi cung cấp thông tin về sự kiện này: 10 cô gái TNXP thuộc tiểu đội 4, đại đội
552, tổng đội 55 giao thông vận tải đóng ở ngã ba Đồng Lộc. Trưa ngày
24/7/1968, một ngày như mọi ngày, 10 chị ra đường làm nhiệm vụ. Đến 16 giờ
30 phút, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc, 1 quả bom đã nổ
gần căn hầm chữ A, nơi 10 chị đang tránh bom, làm sập hầm và tất cả 10 chị
đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Người trẻ tuổi nhất khi ấy mới 17, 3 chị lớn
tuổi nhất cùng ở tuổi 24.
Bài 22: Mục IV.2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại,
vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương, tôi giới thiệu về sức mạnh quân sự
của Hoa Kỳ qua hình ảnh “Pháo đài bay” - Máy bay B52: Khi mới ra đời B52
được quảng cáo rùm beng: “B52 là siêu pháo đài bay thượng đẳng, là thần
tượng của Không lực Hoa Kỳ, là sản phẩm hội tụ những thành tựu kỳ diệu nhất
của nền công nghiệp hàng đầu thế giới, là thứ vũ khí linh hoạt nhất trong bộ ba
vũ khí chiến lược của Mỹ (Tên lửa tầm xa, tàu ngầm hạt nhân, máy bay ném
bom chiến lược)… B52 trút bom như mưa. Tiếng bom rơi xé không khí, gầm rít
ghê rợn như giông bão. Một phi vụ B52 có thể hủy diệt cả một khu vực rộng
lớn. Một tốp chiếc B52 sẽ biến một diện tích hơn 2 km2 thành bình địa… không
một sinh vật nào có thể tồn tại nổi dưới sức công phá ghê gớm của bom B52.



Đối phương sẽ bị hủy diệt về quân sự, khiếp đảm về tinh thần, bởi vì họ cảm
thấy hoàn toàn bất lực trước sức mạnh tàn phá ghê gớm của B52 mà họ không
có cách gì chống đỡ nổi. Nhưng thực tế “B52 có hủy diệt được Việt Nam hay
không?”, các em đã có câu trả lời của mình “ không thể ”. Dân tộc Việt Nam
với tinh thần đoàn kết và sức sống kiên cường đã đánh bại B52 của Mĩ, tôi sử
dụng hình ảnh “Máy bay Mĩ rơi trên đường phố Hà Nội”để khắc họa thắng lợi
của nhân dân ta.

“Pháo đài bay” B52

Máy bay Mĩ rơi trên đường phố Hà Nội
Khi nói về tội ác của đế quốc Mĩ gây ra cho nhân dân Việt Nam, tôi sử
dụng bức ảnh “Kim Phúc trong trận bom napan của Mĩ ở Việt Nam” do Nick


Ut chụp năm 1972, bức ảnh ghi lại dấu ấn cả một thời đại và tố cáo tội ác kinh
hoàng của chiến tranh, được tờ Telegraph đánh giá là một trong mười bức ảnh
có tác động làm thay đổi thế giới của chúng ta. Trong bức ảnh là hình ảnh 5
đứa trẻ Việt Nam vẻ mặt khiếp đảm chạy trốn một cuộc bỏ bom napalm. Đáng
thương nhất là cô bé giữa khuôn hình – Kim Phúc – trần truồng, gào khóc với
cánh tay gầy gò xương xẩu. Bức ảnh chạm đến trái tim của những người yêu
hòa bình trên khắp thế giới. Tấm ảnh này đã góp phần thay đổi nhận thức của
nhiều người về cuộc chiến tranh mà Mĩ tiến hành ở Việt Nam, khiến phong
trào phản chiến thêm mạnh mẽ.

Qua những ví dụ sinh động cụ thể như trên, tôi sẽ hình thành được cho
học sinh thái độ căm thù chiến tranh, với đế quốc Mĩ xâm lược và thương xót
trước những hi sinh, mất mát lớn lao của đất nước, từ đó, các em sẽ ý thức

được nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Bài 22: Ở mục III.3. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, tôi sử dụng
bức hình “ Quân ta tiến vào Quảng Trị 1972” và cung cấp cho các em những tư
liệu về thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm (28/61972 – 16/9/1972): Bản tin
ngày 12/7/1972, của Hãng Thông tấn UPI Hoa Kỳ cho biết: có tuần lễ, Hoa Kì
đã huy động máy bay chiến đấu của ba quân chủng ném xuống khu vực thị xã
Quảng Trị hơn 7000 tấn bom và bắn 10 vạn quả đại bác. Nhiều báo chí
phương Tây bình luận và so sánh số bom Mĩ ném xuống Thành cổ Quảng Trị
trong 81 ngày đêm khoảng 328 nghìn tấn tương đương với sức công phá của
7 quả bom nguyên tử mà Mĩ ném xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki( Nhật Bản)
hồi Thế chiến thứ hai. Dưới sức công phá của một lượng bom đạn khổng lồ


như thế, cái thị xã nhỏ vẻn vẹn chỉ chưa đầy 3 km2 đã nhanh chóng bị san
thành bình địa, tòa Thành cổ với chu vi gần 3000m, mục tiêu chủ yếu trong
cuộc hành quân tái chiếm của Mĩ – Ngụy cũng chỉ còn là những đống gạch đổ
nát….
Và cuộc chiến 81 ngày đêm của quân và dân ta:
“… Ta và địch giành giật nhau từng mô đất, từng mảng tường, từng
đoạn giao thông hào… Đêm 16/9, hầu hết các điểm chốt của ta đều rơi vào tay
địch. Những tổ chiến đấu cuối cùng được lệnh rời Thành cổ, vượt sông Thạch
Hãn rút sang bờ Bắc. Hàng trăm thương binh, chiến sĩ kiệt sức vì những ngày
dầm mình trong mưa lũ đã không còn chống đỡ nổi trước dòng nước sôi trào,
cuộn xoáy, máu hòa trong nước, máu nhuộm đỏ đất sa bồi, sông Thạch Hãn
trở thành nơi yên nghỉ của những người lính Thành cổ kiêu hùng… Hơn
10.000 chiến sĩ quân Giải phóng đã hi sinh trong 81 ngày đêm ấy, để hôm nay
có người cựu chiến binh về thăm, thắp hương cho đồng đội ,nghẹn ngào :
… Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi 20 thành sóng nước

Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm…”.

Từ những hình ảnh và qua lời giảng truyền cảm của giáo viên, các em
thấy được tinh thần chiến đấu kiên cường của quân dân ta, thấy được sức mạnh
của nhân dân. Qua đó, giáo dục các em lòng yêu nước, khâm phục trước sự hi
sinh của các chiến sĩ cách mạng, bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc.
Ví dụ 2 : Sử dụng bản đồ, lược đồ các chiến dịch .


Bài 21: Mục III.2.Phong trào “ Đồng khởi ”(1959-1960), tôi sử dụng
lược đồ phong trào “Đồng khởi “ để giúp cho học sinh nắm được diễn biến của
phong trào, đặc biệt tôi chú ý nhấn mạnh cho các em thấy sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào, từ 3 xã của huyện Mỏ Cày lan ra toàn huyện, rồi cả tỉnh
Bến Tre, lan ra các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Qua đó cho
các em thấy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân và cũng là minh
chứng khẳng định nhân dân miền Nam quyết tâm đoàn kết cùng nhân dân cả
nước đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bài 23: Mục III.2. Cuộc tổng tiến công và nồi dậy Xuân 1975, tôi sử
dụng lược đồ kết hợp tường thuật diễn biến của 3 chiến dịch. Học sinh được
trực tiếp quan sát từng diễn biến của chiến dịch một cách sinh động, cụ thể và
làm khơi dậy ở các em khí thế hào hùng, dũng mãnh và thần tốc của cuộc tổng
tiến công và nổi dậy của nhân dân ta trong những giây phút lịch sử trọng đại
đó. Từ đó, toàn bộ các sự kiện, diễn biến của chiến dịch sẽ được các em ghi
nhớ bài ngay tại lớp và các em có thể trình bày lại toàn bộ diễn biến chiến dịch
theo bản đồ. Đồng thời, cùng với việc tìm hiểu diễn biến các chiến dịch, các em
nhận thức được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhận định đúng thời cơ, đề ra
chủ trương, kế hoạch hợp lí, từ đó thấy được nguyên nhân quyết định nhất đến
sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là nhờ sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng.



Qu©n ta tÊn
c«ng ®Þch
Qu©n ta tÊn c«ng
®Þch b»ng ®­êng
biÓn


Ví dụ 3: Sử dụng sơ đồ làm dẫn chứng minh họa .
Bài 23: Ở mục IV.1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước(1954-1975), tôi sử dụng sơ đồ “ Viện trợ của các nước XHCN
cho Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Với sơ đồ này, học sinh biết được sự giúp đỡ to lớn về của cải vật chất
của các nước XHCN cho Việt Nam đặc biệt trong những năm 1969-1972, góp
phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam “ đánh cho Mĩ cút, đánh
cho ngụy nhào”. Qua đó, các em thấy được đó không chỉ là thắng lợi của nhân
dân Việt Nam mà còn là thắng lợi của tinh thần đoàn kết của các nước XHCN
(tính ưu việt của CNXH). Ngày nay, dù cho CNXH đã sụp đổ ở Liên Xô và
Đông Âu nhưng những nước tiếp tục đi lên con đường CNXH như Việt Nam,
Trung Quốc vẫn là sự lựa chọn đúng đắn.
Ví dụ 4: Sử dụng phim ảnh trong dạy học nội khóa và các hoạt
động ngoại khóa của bộ môn.
Trong các hoạt động ngoại khóa việc sử dụng phim ảnh đem lại hiệu quả
rất cao. Như trong ngoại khóa kỉ niệm ngày giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước(30-4-1975), có thể sử dụng các bộ phim tư liệu như Tổng tiến công và
nổi dậy 1972, Đại thắng mùa xuân 1975….
Đối với các giờ học nội khóa do hạn chế về thời gian của tiết học nên
giáo viên chỉ nên sử dụng các đoạn phim tư liệu ngắn tập trung vào các sự kiện
tiêu biểu kết hợp với lời dẫn dắt, tường thuật thì sẽ đạt hiệu quả hơn. Ở bài 22:

Mục III.3. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, giáo viên có thể sử dụng đoạn
phim tư liệu ngắn về cuộc chiến đấu của quân ta tại Thành cổ Quảng Trị. Bài


23.Mc III.2.Cuc tng tin cụng v ni dy Xuõn 1975, giỏo viờn la chn
tng on phim nh v din bin ca 3 chin dch : chin dch Tõy Nguyờn,
chin dch Hu - Nng v chin dch H Chớ Minh. Vic s dng cỏc on
phim t liu s thu hỳt c s chỳ ý ca hc sinh, to ra nhng xỳc cm mnh
m. Sau khi cho hc sinh theo dừi, giỏo viờn t ra cõu hi: Cm nhn ca em
khi theo dừi on phim?. Giỏo viờn cho hc sinh trỡnh by ý kin v cm
nhn ca bn thõn. Qua ú, cỏc em s cm thy n tng vi nhng hỡnh nh,
kin thc c khc sõu hn, lm c s tip thu kin thc mi, kớch thớch
t duy ca cỏc em hot ng, nhng hỡnh nh c quan sỏt s phỏt trin trớ
tng tng ca cỏc em.
II. THIT K MT GIO N C TH.
Tiết 38

Bài 22
NHâN DâN Hai miền trực tiếp chiến đấu chống
đế quốc m xâm lược. NHâN DâN Miền bắc vừa
chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973)(Tit 1)

I. Mục tiêu bài học:
1- Kiến thức: Qua bài này học sinh cần nắm vững các kiến thức cơ bản
sau:
- Âm mưu, hành động của M trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" và
những thắng lợi tiêu biểu của ta trong việc đánh bại chiến lược Chiến tranh cục
bộ của M.
- Y nghĩa của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
- Những thành tựu và thắng lợi của nhân dân miền Bắc trong việc vừa sản

xuất và làm nghĩa vụ hậu phương, vừa chiến đấu chống hai cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc M.
2- Tư tưởng:
Khâm phục, tự hào trước tinh thần chiến đấu quả cảm, kiên cường của
dân tộc ta trong cuộc chiến tranh chống đế quốc M xâm lược. Trân trọng, học
tập và kế thừa tinh thần vừa sản xuất - vừa chiến đấu của quân - dân miền Bắc
trong sự nghiệp vừa xây dựng vừa bảo vệ tổ quốc hiện nay.


3- Kỹ năng:
- Khai thác lược đồ, tranh ảnh.
- Các kỹ năng tư duy.
II. Thiết bị và tài liệu dạy - học:
- Lược đồ trận Vạn Tường - Quảng Ngãi (1965).
- Một số tranh ảnh có liên quan.
- Tài liệu tham khảo.
III. Tiến trình tổ chức dạy - học:
1- Kiểm tra bài cũ:
Câu hỏi: Âm mưu và thủ đoạn của M trong việc tiến hành chiến
lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965) ở miền Nam? Quân dân miền Nam
đã chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" và giành được thắng lợi
như thế nào?.
2- Dẫn dắt vào bài mới:
Kế tục và phát huy những thành quả chiến đấu và sản xuất những năm
1954 - 1965, từ 1965 - 1973, nhân dân ta ở hai miền Nam - Bắc cùng chiến đấu
đánh bại liên tiếp chiến lược "Chiến tranh cục bộ", "Việt Nam hoá chiến tranh"
và chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc của đế quốc M.
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất, thực hiện
nghĩa vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế
đối với Lào và Campuchia.

Chúng ta cùng tìm hiểu bài học này để thấy được những thành tựu và
chiến công oanh liệt của nhân dân hai miền trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc M giai đoạn 1965 - 1968.
3- Tổ chức dạy - học:
Hoạt động của GV- HS

Kiến thức cơ bản
I.

Chiến

đấu

chống

chiến lược "Chiến tranh
cục bộ" của đế quốc M ở


miền Nam (1965 - 1968).

1. Chiến lược "Chiến tranh
cục bộ" của M ở miền Nam.
-Âm mưu:
* Hoạt động 1: Cả lớp và cá nhân:
- Trước tiên, GV thông báo: Sau thất bại của
chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", M đẩy mạnh
chiến tranh xâm lược miền Nam, chuyển sang
chiến lược "Chiến tranh cục bộ" và mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc.


+ Sau thất bại của "Chiến
tranh đặc biệt", M chuyển
sang chiến lược "Chiến tranh
cục bộ" ở miền Nam và m
rộng chiến tranh phá hoại miền
Bắc.

+ Chiến tranh cục bộ là loại
- GV phát vấn:: Âm mưu và hành động của Mĩ hình chiến tranh xâm lược thực
trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ là gì"?.
dân mới, được tiến hành bằng
lực lượng quân M, quân một
- GV nhận xét và chốt lại ngắn gọn về âm mưu
số nứớc đồng minh của M và
và hành động của M.
quân đội Sài Gòn.
- Mc tiờu: giành lại thế chủ
động trên chiến trường, đẩy
quân ta trở về phòng ngự, buc
ta phi phõn tỏn ỏnh nh
hoc rỳt v biờn gii.
-Hành động:
+ ồ ạt đưa quân M và đồng
minh vào miền Nam. Quân số
lúc cao nhất (1969) lên gần 1,5
triệu, trong đó quân M hơn
nửa triệu.
+ Mở ngay cuộc hành quân
"Tìm diệt" vào căn cứ quân ta ở

Vạn Tường (Quảng Ngãi).
+ Mở liền hai cuộc phản
công chiến lược mùa khô 1965
- 1966 và 1966 - 1967 bằng
hàng loat cuộc hành quân "Tìm
diệt" và "Bình định" vào vùng


- GV hướng dẫn học sinh so sánh Chiến lược đất thánh Việt Cộng.
chiến tranh cục bộ với Chiến lược chiến tranh đặc
biệt (nhấn mạnh điểm khác về quy mô, lực lượng).
Sau đó phát vấn : Em có nhận xét gì về chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" của Mĩ?.
GV nhận xét và kết luận: Đây là một chiến lược
chiến tranh mạnh và nguy hiểm đối với quân ta, 2. Chiến đấu chống chiến
thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt cách mạng Việt lược "Chiến tranh cục bộ"
Nam của đế quốc M. Để chống lại "Chiến tranh của M.
cục bộ" đòi hỏi chúng ta phải huy động sức mạnh
lớn lao, ý chí lớn lao của cả tiền tuyến và hậu
phương.

* Hoạt động 1: Cả lớp và cá nhân:
- GV thông báo: Dưới ánh sáng Nghị quyết
Trung ương, với ý chí "Không có gì quý hơn độc
lập tự do" và "Quyết chiến quyết thắng giặc M
xâm lược", lại được sự phối hợp và chi viện ngày
càng lớn của miền Bắc, nhân dân ở miền Nam đã
chiến đấu anh dũng và liên tiếp giành thắng lợi.
-GV hướng dẫn HS khai thác "Lược đồ trận
Vạn Tường - Quảng Ngãi (8/1965)".


Sau khi HS đã quan sát và nắm vững các ký
hiệu trên bản đồ, GV vừa chỉ vào bản đồ, vừa
thuật lại trận chiến đấu:
Vạn Tường là một làng nhỏ ven biển thuộc xã
Bình Hải, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Mờ sáng

* Chiến thắng Vạn Tường
(Quảng Ngãi).
- 8/1965, quân giải phóng
của ta gồm 1 trung đoàn chủ
lực cùng với quân du kích và
nhân dân địa phương đã đập tan
cuộc càn quét của 9.000 lính
M vào Vạn Tường.


18/8/1965, sau khi đã chiếm được Chu Lai
(Quảng Nam), lính thuỷ đánh bộ M mở cuộc
hành quân mang tên "ánh sáng sao" vào thôn Vạn
Tường nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta,
tìm kiếm một thắng lợi quân sự để gây uy thế cho
lính M, lấn chiếm vùng giải phóng và mở rộng
vùng an toàn cho căn cứ Chu Lai. Lực lượng M
sử dụng vào cuộc hành quân khoảng 9.000 tên,
105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên
thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu
chiến

- ý nghĩa: Chiến thắng Vạn

Tường được coi là "ấp Bắc" đối
với quân M, khẳng định quân
dân ta có thể đánh bại M trong
"Chiến tranh cục bộ", mở đầu
cao trào "Tìm M mà đánh,
lùng nguỵ mà diệt" trên khắp
GV phát vấn: Chiến thắng Vạn Tường có ý miền Nam.
nghĩa như thế nào?
* Chiến thắng mùa khô 1965 - GV nhận xét và tổng kết: Chiến thắng Vạn 1966 và 1966 - 1967.
Tường là đòn phủ đầu oanh liệt giáng vào bọn
- Nhân dân miền Nam đập
xâm lược M, là một trận chống càn điển hình của
tan cuộc phản công chiến lược
quân giải phóng.
mùa khô thứ nhất 1965
- GV phát vấn: Tiếp sau chiến thắng Vạn 1966 của Mĩ với 450 cuộc hành
Tường, quân - dân miền Nam đã đánh bại hai quân, trong đó có 5 cuộc hành
cuộcphản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 quân tìm diệt lớn, nhằm vào 2
và 1966 - 1967 của đế quốc Mĩ như thế nào?
hướng chính ở Đông Nam Bộ
và Liên Khu V
- GV chốt lại ngắn gọn về chiến thắng 2 mùa
khô trên cơ sở kiến thức cơ bản trong SGK.
-Mùa khô thứ hai 1966 1967 quân dân miền Nam đập
tan 895 cuộc hành quân trong
đó có 3 cuộc hành quân "tìm
diệt" và "bình định", lớn nhất là
cuộc hành quân Gianxơn Xiti
đánh vào căn cứ Dương Minh
Châu nhằm tiêu diệt cơ quan

đầu não và quân chủ lực của ta.
* Những thắng lợi khác
- Phong trào phá ấp chiến
lược được đẩy mạnh ở khắp các
GV phát vấn: Ngoài các thắng lợi về quân sự, vùng nông thôn,
nhân dân miền Nam còn giành các thắng lợi trên
- Phong trào đấu tranh chính
mặt trận chống bình định và chính trị, em hãy cho


×