Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Dạy học đoạn trích hạnh phúc của một tang gia (trích số đỏ của vũ trọng phụng) theo hướng đổi mới cho học sinh lớp 11 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.79 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, đổi mới, sáng tạo trong dạy và học nhằm phát huy năng lực của
học sinh đặt ra như một nhu cầu tất yếu cho giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Trong quyết định số 711/QĐ-TTg
ngày 13/6/2012 về mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã chỉ ra
rằng: nền giáo dục của nước ta cần có những đổi mới sâu rộng, toàn diện mọi
thành tố của quá trình dạy học hướng đến sự hình thành, phát triển năng lực và
khả năng học tập suốt đời cho học sinh.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện ngành giáo dục, đổi mới phương pháp
dạy học có ý nghĩa quyết định cần được triển khai ở các môn học và cấp học.
Các phương pháp dạy học hiện đại đều có mục tiêu trung tâm là người học, phát
huy năng lực nhận thức, năng lực độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn
đề của người học.
Môn Ngữ văn THPT có khối lượng kiến thức nhiều, thời gian dạy học
trên lớp có hạn, môn học đòi hỏi HS cần có ý thức tự học, tự đào sâu và tìm tòi
kiến thức ở ngoài giờ học. Do đó, việc phát triển năng lực tự học của HS thông
qua cải tiến những hình thức dạy học truyền thống và tìm kiếm những phương
pháp dạy học mới mẻ, hấp dẫn là một điều hết sức cần thiết.
Đổi mới PPDH là chìa khóa để mở ra cánh cửa thu hút hứng thú, tình yêu,
niềm đam mê học tập môn Ngữ văn của học sinh. Đổi mới PPDH sẽ tạo được
một tiết học hiệu quả, kích thích sự hứng thú và tham gia tích cực của học sinh.
Tiết học không bị khiên cưỡng áp đặt mà khơi gợi sự sáng tạo và những phát
hiện mới mẻ của học học sinh. Từ đó các em có thể có những diễn ngôn mới,
những cảm nhận riêng về những tín hiệu nghệ thuật trong tác phẩm văn chương.
Giáo viên khéo léo, tinh tế để dẫn dắt các em tự bộc lộ những suy nghĩ cá nhân
mình, điều chỉnh định hướng đúng để các em bộc lộ khả năng tư duy sáng tạo.
Có như vậy, tiết học vừa phải, nhẹ nhàng giáo viên vừa có thể thiết lập bầu
không khí văn chương, vừa tạo cho học sinh có động cơ chiếm lĩnh tri thức và
say mê môn học.
Bản thân tôi là một giáo viên đang trực tiếp tham gia vào công việc


“Trồng người” tại trường THPT Như Xuân, tôi luôn ý thức rằng: việc đổi mới
PPDH nhằm phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu ở học sinh là rất cần thiết.
Xuất phát từ những yêu cầu và thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài
Dạy học đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng) theo hướng đổi mới cho học sinh lớp 11 THPT làm sáng kiến kinh
nghiệm của mình. Với kinh nghiệm ít ỏi của bản thân, tôi muốn đóng góp cho
công việc dạy học một đề tài nhỏ bé để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả dạy học. Giúp các em học sinh hứng thú, tích cực hơn trong việc mở “cánh
cửa nhỏ” đi vào thế giới văn chương.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đổi mới phương pháp dạy học bài Hạnh phúc của một tang gia - (trích
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) nói riêng và các bài học đọc văn nói chung trong
chương trình Ngữ văn, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học.
- Nghiên cứu để thực hiện đổi mới PPDH đọc hiểu trong môn Ngữ văn.
1


- Xây dựng giáo án và kế hoạch dạy học theo hướng đổi mới về đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ -Vũ Trọng Phụng) trong chương trình
Ngữ văn 11 .
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu cách thức dạy học đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia - (trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) trong chương
trình Ngữ văn 11 theo hướng đổi mới. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy học cho học sinh THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tìm hiểu về vai trò, ý
nghĩa của bộ môn văn học; đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới phương
pháp dạy học môn Ngữ văn; nghiên cứu thực trạng dạy học theo phương pháp
dạy học mới tại trường THPT Như Xuân.

- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Khảo sát số lượng GV sử dụng đổi
mới PPDH và các PPDH được GV sử dụng khi dạy học đoạn trích “ Hạnh phúc
của một tang gia”- (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới; khảo
sát sự yêu thích, hứng thú của HS sau khi GV áp dụng các phương pháp, kĩ thuật
dạy học theo hướng đổi mới. Từ kết quả khảo sát, người viết đánh giá hiệu quả
của đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu: Giữa lớp GV có sử dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học theo hướng đổi mới với lớp GV sử dụng phương
pháp dạy học truyền thống.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm : Dạy học theo giáo án đã biên soạn,
thu thập thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng sau khi GV sử dụng
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới thông qua bài kiểm tra, đánh giá cụ
thể.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiên kinh nghiệm
2.1.1. Vai trò, ý nghĩa của bộ môn văn học
Môn Ngữ văn ở trường THPT không được dạy học như một bộ môn khoa
học nhằm trang bị cho học sinh hệ thống các khái niệm khoa học. Mà đây là
môn học có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng góp phần phát triển toàn diện về trí tuệ,
nhân cách cho học sinh. Bộ môn Ngữ văn trong nhà trường được coi là một
công cụ của việc giảng dạy, không chỉ có tác dụng giáo dục trí tuệ mà còn có ưu
thế lớn trong giáo dục tình cảm, đạo đức nhằm phát triển toàn diện học sinh.
Mục đích của công việc dạy học Ngữ văn là nhằm trang bị cho học sinh
những kiến thức về Ngữ văn thế giới, Ngữ văn dân tộc làm cơ sở cho học sinh
nhận thức được sự phát triển của quy luật Văn học. Để đạt được mục đích trong
dạy học Ngữ văn, yêu cầu được đặt ra cho cả hai phía người dạy và người học:
Dạy cái gì? Học để làm gì?
Trong thời đại ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển như vũ bão, thì việc đổi mới PPDH bộ môn Ngữ văn nói chung và ở THPT
nói riêng càng cần được nhấn mạnh và coi trọng hơn. Để môn Ngữ văn luôn

2


được coi trọng, phát huy được vị trí, ý nghĩa của mình, phải không ngừng nâng
cao chất lượng dạy học Văn học, mà yếu tố then chốt ở đây là phải đổi mới
phương pháp dạy học.
2.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học
trong môn Ngữ văn
Chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng
tiếp cận năng lực, phù hợp với xu thế phát triển chương trình của các nước tiên
tiến, nhằm thực hiện yêu cầu của Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội:
"tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ
thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển
nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện
cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà trí, đức, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm
năng của mỗi học sinh". Đổi mới phương pháp dạy học là một giải pháp được
xem là then chốt, có tính đột phá cho việc thực hiện chương trình này.
Để phát triển nền giáo dục theo định hướng năng lực, trong quá trình dạy
học người giáo viên cần hình thành, phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất cho
người học. Việc đổi mới phương pháp dạy học cần được thực hiện trên cơ sở
phân hoá đối tượng, các căn cứ về điều kiện, loại hình năng lực và phẩm chất
cần phát triển ở người học để từ đó lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học phù
hợp.
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp
dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao
hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng cùng với việc sử dụng có hiệu quả
các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực. Chẳng hạn như: Kết hợp đa dạng
các biện pháp về hình thức tổ chức, kĩ thuật dạy học phương pháp dạy học: giải
quyết vấn đề; dạy học tình huống; thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, dạy
học theo dự án…

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để đánh giá thực trạng Dạy học đoạn trích “Hạnh phúc của một tang
gia” (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới, tôi đã tiến hành
khảo sát thực trạng việc dạy học đoạn trích“Hạnh phúc của một tang gia”
(trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) trong sách Ngữ văn 11 học kì 1. Tôi đã tiến
hành điều tra, khảo sát với GV và HS ở trường THPT Như Xuân.
Mục đích của quá trình điều tra khảo sát là tập trung tìm hiểu phương
pháp, cách thức và kết quả của dạy học đoạn trích “Hạnh phúc của một tang
gia” (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới, làm cơ sở đề xuất
nội dung nghiên cứu của đề tài.
*Kết quả khảo sát thực trạng.
Để có cơ sở đề xuất nội dung nghiên cứu của đề tài, tôi đã tiến hành tìm
hiểu thực tiễn việc dạy và học ở trường THPT Như Xuân qua phiếu khảo sát.
Kết quả thu được như sau:
3


Phiếu khảo sát dành cho Giáo viên: Số lượng: 6 giáo viên
Mức độ
Thường
Thỉnh
Không bao
Vấn đề
xuyên
thoảng
giờ
SL
%
SL
%

SL
%
Thầy (cô) có thường xuyên đi
tập huấn về đổi mới phương
1
16,7% 5 83,3%
0
0%
pháp dạy học không?
Trong quá trình dạy đoạn trích
“Hạnh phúc của một tang gia”
2
33,3% 3
50%
1
16,7%
thầy (cô) có áp dụng đổi mới
phương pháp không?
Thầy (cô) có thường xuyên giao
nhiệm vụ cho HS làm việc
3
50%
3
50%
0
0%
nhóm không?
Bảng 1. Kết quả khảo sát sử dụng đổi mới PPGD
Bảng khảo sát trên đây đã cho thấy vấn đề đổi mới PPDH đã được GV
chú ý, nhưng chỉ có 16,7% GV được đi tập huấn thường xuyên, số GV thỉnh

thoảng đi tập huấn chiếm tỉ lệ cao 83,3%. Trong quá trình giảng dạy đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia( Trích Số đỏ- Vũ Trọng Phụng) có 33,3% số GV
thường xuyên áp dụng đổi mới PPGD, có 50% số GV thi thoảng áp dụng đổi
mới PPDH, trong khi đó vẫn còn 16,7 % số GV dạy học theo phương pháp
truyền thống mà chưa đổi mới PPGD.
Về PPDH, qua việc khảo sát cũng như dự giờ ở đơn vị tôi công tác, tôi
nhận thấy phương pháp mà các GV thường sử dụng như sau:
Tần suất
Phương pháp
PPDH theo nhóm.

Không sử
dụng
4/6
66,7%
3/6
50%
0

Sử dụng ít

Sử dụng
nhiều
0

2/6
33,3%
Phương pháp thuyết trình.
2/6
1/6

33,3 %
16,7%
Phương pháp vấn đáp.
4/6
2/6
66,7 %
33,3%
Phương pháp nêu vấn đề.
4/6
2/6
0
66,7%
33,3 %
Bảng 2. Kết quả khảo sát các phương pháp dạy học được sử dụng.
Bảng trên đây đã hệ thống kết quả khảo sát các phương pháp được GV sử
dụng trong dạy học đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia ( Trích Số đỏ- Vũ
Trọng Phụng). Qua đó, tôi thấy hầu hết phương pháp tích cực chưa được GV sử
dụng nhiều trong quá trình dạy học, số GV không sử dụng PPDH theo nhóm,
PPDH nêu vấn đề chiếm 66,7 %, PPDH thuyết trình và PPDH vấn đáp có GV sử
4


dụng nhưng tần suất cũng chỉ ở “mức ít”. Trong quá trình dạy học, GV chỉ tập
trung cung cấp kiến thức nên giờ học chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức chứ chưa
phát huy năng lực của HS trong việc tự biết cách khám phá kiến thức để hiểu tác
phẩm cũng như chưa biết tự biến những kiến thức từ bài học để vận dụng, giải
quyết những vấn đề trong đời sống của bản thân. Do đó, PPDH không tạo được
sự tích cực ở HS, gây nên sự chán nản cả ở GV và HS.
Nhằm tìm hiểu, đánh giá kết quả và sự hứng thú học tập của HS khi học
đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia ( Trích Số đỏ- Vũ Trọng Phụng), tôi đã

tiến hành khảo sát tại trường THPT Như Xuân bằng cách áp dụng phương pháp
khảo sát nhanh thông qua bảng câu hỏi. HS tham gia khảo sát tương đối toàn
diện và ngẫu nhiên. Kết quả tổng hợp, phân tích, đánh giá từ các phiếu khảo sát
sẽ phản ánh khách quan thực trạng dạy học đoạn trích Hạnh phúc của một tang
gia( Trích Số đỏ- Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới.
Phiếu khảo sát dành cho học sinh
Tổng số: 78 học sinh ( Học sinh lớp 11C5 và 11C7 năm học 2019- 2020)
STT
Mức độ
Không
Thích
Rất thích
Nội dung
thích
1
Em có thích thầy (cô) dạy theo
4
28
46
phương pháp mới không (dạy học
5.13%
35.8%
58.9%
nhóm, dạy học dự án…) ?
2
Học bài đoạn trích Hạnh phúc của
29
24
25
một tang gia chỉ học kiến thức

37.2%
30.8%
32%
trong SGK.
3
Học văn học kết hợp với phát triển
8
34
36
năng lực (hội họa, âm nhạc, diễn
10.2%
43.6%
46.2%
xướng…)
Bảng 3. Khảo sát sự yêu thích của HS khi GV đổi mới PPDH
Kết quả khảo sát sự yêu thích đối với việc GV đổi mới PPGD khi dạy
đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia ( trích Số đỏ- Vũ Trọng Phụng), tôi nhận
thấy tỷ lệ HS thích và rất thích học khi thầy, cô giáo đổi mới PPGD chiếm tới
94.7%, có tới 89,7% tỷ lệ HS thích, rất thích học văn học kết hợp với phát triển
năng lực (hội họa, âm nhạc, diễn xướng…)
Trước thực trạng đó, vấn đề đặt ra cho GV là cần phải xác định phương
pháp, cách thức tổ chức dạy học đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia – (trích
Số đỏ - Vũ Trọng Phụng), trong đó hướng việc tiếp cận đoạn trích qua các
PPDH và hình thức tổ chức để học sinh phát huy được tính chủ động, tự giác
tích cực mang lại hiệu quả, hấp dẫn, lôi cuốn HS hơn khi học tác phẩm là vô
cùng cần thiết.
*Những mặt còn hạn chế
Về phía giáo viên
- Hầu hết giáo viên khi dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) chỉ chú trọng đến cung cấp đầy đủ nội dung kiến

thức về tác giả, tác phẩm mà chưa chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng, năng lực
và phẩm chất để phát huy được hết khả năng của học sinh.
5


- Qua quá trình dự giờ, thăm lớp, các giờ thao giảng, hội giảng hay dự giờ
rút kinh nghiệm tại đơn vị nơi tôi công tác, tôi nhận thấy: Trong quá trình tổ
chức các hoạt động dạy học, việc GV vận dụng các PPDH tích cực vào giảng
dạy còn nhiều hạn chế. GV thường sử dụng PPDH truyền thống là chủ đạo.
- Với GV bộ môn Ngữ văn thì trình độ CNTT còn hạn chế nên còn ngại
đổi mới PPDH có ứng dụng công nghệ thông tin.
- Một số GV thiếu kiên trì trong việc vận dụng cái mới vào thực tiễn, ngại
đổi mới phương pháp dạy học.
Thực tiễn dạy học như vậy sẽ làm cho bài giảng kém phần sinh động,
không kích thích được sự tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, từ đó làm cho HS
không hứng thú với bộ môn Ngữ văn.
Về phía HS:
- Hiện nay, học sinh đang dần xa lánh môn Ngữ văn bởi các em không tìm
thấy hứng thú và đam mê trong từng tiết học.
- Đa số học sinh ngại học văn vì cho rằng đây là môn học khó và không
thực tế. Bên cạnh đó, một số học sinh lại cho rằng, không cần phải học nhiều,
khi thi cử chỉ cần bịa vài ba dòng là có thể tránh được điểm liệt.
- Học sinh còn học theo kiểu đối phó, máy móc. Các bài kiểm tra của các
em còn yếu về khâu diễn đạt, câu văn lủng củng, ngô nghê, tối nghĩa.
- HS thường chưa mạnh dạn, thiếu tự tin, thiếu kĩ năng nên hợp tác trong
nhóm còn hạn chế.
- Trường THPT Như Xuân là trường thuộc huyện miền núi, đa số HS là
con em nông nghiệp, nhà xa trung tâm huyện, thị nên khó khăn trong việc tìm
kiếm, mua bổ sung nguồn tài liệu.
Về phương pháp dạy học văn

- Trước hết là do GV ngại đổi mới PPDH, khi dạy học chủ yếu sử dụng
phương pháp dạy học cũ, dựa vào giảng, bình, diễn giảng. Thầy cung cấp kiến
thức áp đặt, HS phải học thuộc kiến giải của thầy.
- GV khi dạy Ngữ văn, chưa hiểu kỹ khái niệm khoa học về đọc văn. Khái
niệm “đọc” chỉ được hiểu là đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà không thấy nói
là đọc – hiểu. Đối với phân môn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho HS
tập làm theo những đề yêu cầu HS viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu
khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết.
- GV chưa xem HS là chủ thể của hoạt động học văn, chưa trao cho các
em tính chủ động trong học tập.
- Về dạy học làm văn nghị luận chủ yếu vẫn là dạy làm văn theo đề sẵn
và văn mẫu của bộ đề.
- Làm văn nghị luận văn học thì theo một số đề văn nhất định, cách làm
sáo mòn, thường là chứng minh cho những nhận định có sẵn theo hướng khẳng
định. Điều đó cũng tốt, song không gian tư duy sáng tạo chật hẹp, thiếu phản
bác, tranh luận hoặc nêu ý kiến riêng của người viết.
- Chấm bài làm văn phần nhiều qua loa, chỉ cốt cho điểm là chính. Phần
nhiều coi nhẹ khâu chữa bài và hướng dẫn HS tự sửa bài để nâng cao kĩ năng
làm văn.
6


Tất cả những biểu hiện nêu trên của dạy học không chỉ thiếu hiệu quả của
hoạt động dạy học của một số giáo viên hoặc địa phương nào đó, mà là hệ quả
của sự lạc hậu về PPGD. Điều đó không chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục, mà
hơn thế, còn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học sinh trơ lì , chán học, làm
mòn mỏi trí tuệ. Do đó, muốn tạo hứng thú cho HS để các em phát huy năng lực,
phẩm chất thì việc đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề thiết yếu và quan
trọng trong đổi mới giáo dục hiện nay.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

2.3.1. Nội dung bài dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia”
(trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
- Về tác giả, tác phẩm:
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng và được mệnh danh là
“Ông vua phóng sự đất Bắc”. Ông là một trong những gương mặt quan trọng
nhất của văn học Việt Nam thế kỷ 20. Vũ trọng Phụng sinh năm 1912, quê ở
làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra và
lớn lên ở Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình nghèo, lại phải mồ côi cha từ khi
ông mới 7 tháng tuổi, Vũ Trọng Phụng được bà mẹ tần tảo nuôi cho ăn học.Sau
khi đỗ bẳng tiểu học, 16 tuổi Vũ Trọng Phụng phải thôi học để đi làm kiếm
sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi
và thất nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai
năm sau lại bị đuổi.Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên
nghiệp.
Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng trên hai lĩnh vực
phóng sự và tiểu thuyết. Năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã có bài đăng trên tờ Ngọ
Báo. Bắt đầu ông viết một số truyện ngắn, nhưng không được chú ý. Năm 1931,
ông viết vở kịch “Không một tiếng vang”, thì bắt đầu gây được sự quan tâm của
bạn đọc. Năm 1934, Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý
đầu tay Dứt tình đăng trên tờ Hải Phòng tuần báo. Năm 1936, ngòi bút tiểu
thuyết của ông nở rộ, chỉ trong vòng một năm, bốn cuốn tiểu thuyết lần lượt xuất
hiện trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng. Cả bốn tiểu thuyết Giông tố,
Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ đều hiện thực, đi sâu vào các vấn đề xã hội. Trong đó Số
đỏ xuất sắc hơn cả, được xem như tác phẩm lớn nhất của Vũ Trọng Phụng, một
vài nhân vật, câu nói trong Số đỏ đã đi vào ngôn ngữ đời sống hằng ngày. Là
một nhà báo, Vũ Trọng Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi tiếng. Với phóng sự
đầu tay Cạm bẫy người (1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh Thiên Hư, Vũ
Trọng Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận đương thời. Năm 1934, báo Nhật
Tân cho đăng Kỹ nghệ lấy Tây. Với hai phóng sự đó, Vũ Đình Chí và Vũ Bằng
đã cho ông là một trong hàng vài ba "nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự của

nước ta". Những phóng sự tiếp theo như Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã góp phần
tạo nên danh hiệu "ông vua phóng sự của đất Bắc" cho Vũ Trọng Phụng.Vũ
Trọng Phụng là một người đạo đức và sống rất kham khổ. Khoảng năm 1938,
ông bị lao phổi, nhưng không có tiền chữa bệnh. Ngày 12 tháng 10 năm 1939,
ông chết trong một căn nhà tồi tàn ở Ngã Tư Sở Hà Nội, khi mới 27 tuổi.
Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội
dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề
7


hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – một
xã hội bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người
ta không khỏi ngậm ngùi, chua chát.
- Về đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số đỏ – Vũ Trọng
Phụng)
Giá trị nội dung: Đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" cho người
đọc thấy được bộ mặt thật, bản chất lố lăng, kệch cỡm của xã hội thượng lưu
thành thị trước cách mạng, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương
của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ. Thái độ phê phán mạnh mẽ
xã hội đương thời khoác áo văn minh, “Âu hóa” nhưng thực chất hết sức giả dối,
đồi bại và nỗi xót xa kín đáo của tác giả trước sự băng hoại của đạo đức con
người.
Giá trị nghệ thuật: Qua việc xây dựng các nhân vật bằng lăng kích chủ
quan của mình, tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, Tây - Ta lẫn lộn của
những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc; nghệ
thuật xây dựng tình huống mâu thuẫn và trào phúng; khắc họa chân dung trào
phúng của nhân vật; nghệ thuật kể, tả với ngôn ngữ phóng đại và hài hước,
giọng điệu linh hoạt, tác giả đã phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố
lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị trước cách mạng.
2.3.2.Các phương pháp dạy học đoạn trích “Hạnh phúc của một tang

gia” (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới.
PPDH là cách thức tiến hành hoạt động nghề nghiệp mà nhà giáo thiết kế
và thực hiện dựa trên cơ sở khoa học cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp để tác
động trực tiếp đến người học và các hoạt động của người học trong quá trình
giáo dục nhằm gây ảnh hưởng thuận lợi và hỗ trợ cho việc học theo mục đích
hay nguyên tắc dạy học đã quy định hoặc mong muốn.
Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là chuyển những kết quả về đổi
mới phương pháp dạy học của chương trình Ngữ văn hiện hành từ “mặt bên
ngoài” vào “mặt bên trong” để phát huy hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học,
đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển năng lực của học sinh.
Đối với môn Ngữ văn, khi vận dụng các phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như giải quyết vấn đề, dạy
học khám phá, dạy học theo dự án,…cần chú ý đến sự khác biệt về năng lực và
sở thích của mỗi học sinh trong tiếp nhận văn bản, nhất là các văn bản văn học
để có cách tổ chức dạy học phân hóa phù hợp; đặc biệt chú trọng bồi dưỡng
phương pháp tự học, qua đó hướng dẫn học sinh biết kiến tạo tri thức và nền
tảng văn hóa cho bản thân từ những cảm nhận, suy nghĩ và những trải nghiệm
của cá nhân trong cuộc sống.
Để nâng cao phẩm chất, năng lực, tạo hứng thú cho HS thông qua giờ đọc
hiểu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
theo hướng đổi mới. Tác giả sáng kiến đề xuất các phương pháp tổ chức sau:
*Phương pháp thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm là PPDH trong đó "HS được phân chia thành từng nhóm
nhỏ riêng biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện
thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt
8


được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu
chung".Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi HS tham

gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia
sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội
dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng nhau
hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.Trong quá trình giảng dạy, để tiết học
diễn ra có hiệu quả khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên cần có
sự phân chia khoa học các bước trong khi thảo luận nhóm.
Các bước khi thảo luận nhóm
Bước 1: Chia nhóm: GV chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm
khoảng từ 4-6 người.
Bước 2: Giao nhiệm vụ, vấn đề cần giải quyết cho từng nhóm.
Bước 3: Giám sát hoạt động của từng nhóm
Bước 4: Mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các
nhóm khác có thể phản biện.
Bước 5: Tổng kết đánh giá.
Giáo viên nên nhân xét bài thuyết trình của từng nhóm sau khi các nhóm
trình bày xong và đã có ý kiến phản biện của các nhóm khác. Cuối cùng giáo
viên chốt lại các ý kiến, đưa ra định hướng đúng những vấn đề HS cần nhớ sau
khi thảo luận.
Phân loại phương pháp thảo luận
- Thảo luận có hướng dẫn: Toàn lớp hay nhóm nhỏ cùng đề tài thảo luận
hoặc khác đề tài thảo luận, nhằm đưa ra nhiều ý kiến kết quả khác nhau từ đó
thống nhất chung lại.
- Báo cáo xê-mi-na có thảo luận: Sau khi báo cáo chuyên đề, người nghe
sẽ đóng góp ý kiến hoặc nêu thắc mắc, một hoặc nhiều người sẽ trao đổi ý kiến
với người nghe, dẫn đến kết luận.
Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm để đọc hiểu đoạn trích “Hạnh
phúc của một tang gia” (trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới.
GV có thể chú ý đến biện pháp thảo luận bằng cách chia lớp ra thành 4
nhóm:
- Nhóm thứ nhất, tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng

- Nhóm thứ hai, GV yêu cầu HS thảo luận tóm tắt và nêu giá trị tiểu
thuyết “Số đỏ”, ý nghĩa nhan đề đoạn trích
- Nhóm thứ ba, GV yêu cầu HS thảo luận, đối thoại về các chân dung trào
phúng.
- Nhóm thứ tư, GV tiếp tục yêu cầu HS thảo luận, đối thoại cách thức
miêu tả đám tang
Sau khi hoàn thành xong, đại diện từng nhóm trình bày ý kiến, kết quả,
các nhóm khác lắng nghe để nhận xét, đánh giá. Biện pháp này không chỉ giúp
HS thoải mái thảo luận, trao đổi với nhau mà còn trao đổi, đối thoại với cả GV
để làm rõ các vấn đề chưa hiểu. Từ đó phát huy được tính tích cực, sự mạnh dạn
và khả năng sáng tạo cũng như những cảm nhận sâu sắc của các em đối với vấn
đề thảo luận.
9


Như vậy, có thể nói, nhờ áp dụng biện pháp thảo luận GV sẽ tạo cho giờ
dạy học đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ -Vũ Trọng Phụng)
thêm sôi động, hấp dẫn hơn. Từ đó giúp HS giải quyết vấn đề một cách thấu
đáo, đồng thời hiểu sâu sắc hơn những giá trị đặc sắc trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng.
* Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
Bản chất của dạy học giải quyết vấn đề
Dạy học giải quyết vấn đề là PPDH trong đó GV tạo ra những tình huống
có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn
luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác.
Tình huống có vấn đề là một tình huống gợi ra cho HS những khó khăn về
lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có phải vượt qua, nhưng không phải ngay
tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt
động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có. Nghĩa là

tình huống có vấn đề có tác dụng kích thích tư duy nảy sinh và thúc đẩy nó phát
triển. Tình huống có vấn đề buộc con người phải suy nghĩ, động não tạo nên
những vận động tích cực bên trong của trí tuệ con người. Như vậy, để trở thành
những tình huống có vấn đề, cần phải có những yếu tố, những điều kiện nhất
định bởi không phải tình huống nào cũng là tình huống có vấn đề. Điều này có
nghĩa là để tạo ra các tình huống có vấn đề đích thực, bản thân GV phải phát
hiện trong tài liệu học tập của HS đâu là vấn đề có “vấn đề”, phải thiết kế thế
nào để chúng trở thành các tình huống có vấn đề và phải nêu vấn đề thế nào để
khơi gợi hứng thú, sự tích cực tham gia giải quyết của HS.
Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo PP nêu và giải quyết
vấn đề
- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
+ Tạo tình huống có vấn đề;
+ Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
+ Phát hiện vấn đề cần giải quyết.
- Giải quyết vấn đề đặt ra
+ Đề xuất cách giải quyết;
+ Lập kế hoạch giải quyết;
+ Thực hiện kế hoạch giải quyết.
- Kết luận:
+ Thảo luận kết quả và đánh giá;
+ Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
+ Phát biểu kết luận;
+ Đề xuất vấn đề mới.
Trong dạy học theo PP nêu và giải quyết vấn đề, HS vừa nắm được tri
thức mới, vừa nắm được PP lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng
tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp
thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề trong hoạt động khởi động khi dạy
đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” ( trích Số đỏ -Vũ Trọng Phụng)

10


GV chiếu cho HS xem một trích đoạn vi deo trong một cảnh đưa tang. GV
đặt câu hỏi cho HS. Câu hỏi: Đoạn clip em vừa xem có cảm nhận như thế nào
khi tang lễ diễn ra? HS trả lời câu hỏi và GV dẫn vào bài.
* Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để
trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là
phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng
cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự
kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình.
Chẳng hạn như: khi dạy đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), GV có thể cho HS đóng vai các nhân vật: Xuân tóc
đỏ, ông Phán, cụ Cố Hồng…và diễn một đoạn kịch ngắn để phát huy hết những
năng lực tiềm ẩn trong HS.
* Phương pháp dạy học theo dự án
Khái niệm Dạy học theo dự án: là một hình thức dạy học, trong đó người
học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và
thực tiễn, thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu.
Các bước dạy học dự án
Bước 1: Lập kế hoạch: là bước đầu tiên quan trọng, tất cả các thành viên
trong nhóm cùng tham gia xây dựng: Lựa chọn chủ đề; Xây dựng tiểu chủ đề;
Lập kế hoạch thực hiện các các nhiệm vụ học tập và phân công trong nhóm.
Bước 2: Thực hiện dự án: thu thập thông tin dưới nhiều hình thức; xử lí
thông tin; thảo luận nhóm để xử lý thông tin;trao đổi và xin ý kiến GV hướng
dẫn.
Bước 3: Tổng hợp kết quả: tổng hợp kết quả, xây dựng sản phẩm; báo cáo
kết quả dự án; đánh giá và nhận thông tin phản hồi; rút ra bài học kinh nghiệm
sau khi thực hiện dự án.

Dạy học dự án đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số đỏ -Vũ
Trọng Phụng)
- Xác định chủ đề và yêu cầu của dự án
Để giúp cho HS khám phá nội dung sáng tác của Vũ Trọng Phụng thì GV
cần xây dựng chủ đề và yêu cầu của dự án có liên quan đến nội dung bài học
trên lớp. Cụ thể, GV cung cấp số đề tài liên quan đến bài học về tác giả Vũ
Trọng Phụng, tác phẩm Số đỏ và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia cho HS
lựa chọn thực hiện.
Dạy học đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, GV có thể cung cấp các
vấn đề trong xã hội Tiểu tư sản thành thị cho HS lựa chọn để thực hiện. Với
những chủ đề lớn và các đề tài nhỏ được đặt ra, GV yêu cầu mỗi nhóm HS tùy
vào sở trường và sở thích, năng lực, năng khiếu của từng cá nhân, nhóm mà
chọn lựa để thể hiện sản phẩm của mình bằng bài viết nghiên cứu, hay tờ rơi, tập
báo ảnh, hoặc clip, phim,... Sau khi các nhóm thực hiện xong sản phẩm dự án thì
tiến hành báo cáo, công bố giới thiệu trước tổ, lớp, khối hay cả trường.
- Mục đích của dự án
+ Giúp HS hiểu sâu về con người và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng luôn
gắn liền với những giá trị hiện thực xã hội.
11


+ Phát triển kĩ năng thu thập thông tin qua sách báo, tranh ảnh, tài liệu
tham khảo, trang mạng, tham quan,… và cả cách xử lí thông tin để trình bày
những hiểu biết của bản thân HS liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của tác giả
Vũ Trọng Phụng.
+ Nhằm giáo dục và nâng cao ý thức cho HS giữ gìn và phát huy những
giá trị văn học và giá trị văn hóa.
+ Giúp HS phát triển kĩ năng trình bày trước đám đông cũng như tự bộc
lộ, bày tỏ những suy nghĩ, quan điểm thái độ của bản thân về cuộc đời, sự
nghiệp của Vũ Trọng Phụng.

- Cách thức thực hiện
Bước 1) Xây dựng kế hoạch thực hiện
Để tổ chức thành công các chủ đề dự án trên, GV hướng dẫn HS biết cách
xây dựng kế hoạch, đảm bảo các mặt (thời gian, phân công công việc trong
nhóm, phương pháp tiến hành, thiết bị cần dùng, kinh phí,…).
Bước 2) Thực hiện dự án
Mỗi nhóm cần xây dựng bản kế hoạch chi tiết cho từng công việc và luôn
thể hiện tinh thần làm việc nhóm, khả năng tư duy sáng tạo, khả năng suy nghĩ
độc lập và cách giải quyết các vấn đề theo sự sáng tạo riêng. Lưu ý, trong quá
trình thực hiện, GV cần động viên, khích lệ HS nhằm phát huy được tất cả
những sở trường, năng lực cá nhân để thực hiện đề tài dự án đạt hiệu quả cao
nhất.
Bước 3) Thu thập kết quả
Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng bài viết nghiên cứu,
báo cáo, hay tờ rơi, báo tường, tập tranh ảnh, clip,… Bài viết có thể được trình
bày trên phần mềm powerpoint, hay dạng văn bản viết, hoặc là các ấn phẩm
(bản tin, báo, áp phích), phim, ảnh,…
Bước 4) Công bố sản phẩm
Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm HS và được giới
thiệu trong toàn trường.
Bước 5) Đánh giá dự án
Đây là giai đoạn kết thúc dự án, ngoài GV kiểm tra, đánh giá thì bản thân
HS, cũng như những người tham dự đều tham gia đánh giá. Từ đó giúp cho mỗi
HS tự nhận thấy được mặt ưu và mặt khuyết của mình để rút kinh nghiệm cho
việc thực hiện đề án tiếp theo.
Tất cả những biện pháp, kĩ thuật dạy học trên sẽ hỗ trợ rất đắc lực cho GV
trong việc dạy học chủ đề truyện hiện đại (Ngữ văn - lớp 11).
2.3.3 .Giải pháp thực hiện
Với những PPDH mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS đã đề xuất ở trên. Trong phạm vi sáng kiến này, tôi đề xuất cách thức tổ

chức và thiết kế giờ dạy đọc hiểu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) – Ngữ văn 11 theo hướng đổi mới có sử dụng các
PPDH đã đề xuất nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo; tăng hứng
thú cho HS.

12


* Cách thức tổ chức giờ đọc hiểu
Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi
dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng
phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú
học tập cho người học.
Để phát triển năng lực của học sinh trong giờ Ngữ văn cấp THPT, cần đổi
mới mạnh mẽ việc thiết kế bài học từ phía giáo viên. Trong thiết kế, giáo viên
phải cho thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm vị trí chủ yếu. Với giáo viên,
phương pháp thuyết trình nên giảm thiểu tới mức tối đa, thay vào đó là tổ chức
hoạt động cho học sinh bằng việc nêu vấn đề, đề xuất các tình huống, dự án.
Trong giờ dạy, giáo viên tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức giải
quyết các vấn đề về lý thuyết cũng như thực tiễn, qua đó giúp học sinh khắc sâu
hơn kiến thức mới. Theo tinh thần đó, thiết kế bài học được biên soạn theo các
bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị bài dạy
Trong kế hoạch bài dạy giáo viên cần xác định rõ các yêu cầu về Kiến
thức, kỹ năng, thái độ và các năng lực, phẩm chất hướng đến. Bằng việc xác
định mục tiêu này trong quá trình dạy học giáo viên sẽ có thể lựa chọn được
phương pháp giảng dạy phù hợp, cách thức tổ chức lớp học theo đúng mục tiêu
đã định.
Do yêu cầu mở rộng hiểu biết để thấm thía các nội dung chủ đề đặt ra

trong từng văn bản ở các truyện ngắn hiện đại, từ đó tăng cường ý thức công dân
của mỗi học sinh đã khiến việc chuẩn bị kiến thức hỗ trợ chủ đề truyện ngắn
hiện đại mang một ý nghĩa tích hợp rộng hơn.Yêu cầu đó đòi hỏi giáo viên phải
chuẩn bị kỹ các nhiệm vụ giao cho HS, GV giao cho các nhóm HS cùng sưu tầm
các tư liệu ngoài văn bản liên quan đến chủ đề trên các nguồn thông tin đại
chúng ( phát thanh, truyền hình, mạng Internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm
nhạc...) làm chất liệu cho dạy đọc hiểu truyện ngắn hiện đại.
Với đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích “Số đỏ” của Vũ
Trọng Phụng) – Ngữ văn 11, GV có thể chuẩn bị những clip lên quan đến nội
dung bài dạy như: đoạn trích trong bộ phim “Số đỏ”, các vi deo về hình ảnh đám
tang…Ngoài ra. GV phải chuẩn bị tất cả các thiết bị chuẩn bị cho giờ dạy một
cách chu đáo, kỹ lưỡng.
Bước 2: chuyển giao nhiệm vụ
GV đặt ra các vấn đề, các câu hỏi, giao nhiệm vụ cho HS (cho nhóm HS),
từ đó sẽ hình thành các phẩm chất năng lực mà người học hướng tới. Chẳng hạn
khi giao nhiệm vụ cho HS để đọc hiểu đoạn trích “Hạnh phúc của một tang
gia” (trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng).
GV nêu vấn đề: Theo em xã hội ngày nay có giống với xã hội trong tiểu
thuyết “Số đỏ” không? Từ đó em thấy mình có trách nhiệm gì để đóng góp, xây
dựng quê hương đất nước. Khi trả lời câu hỏi này các em đã hình thành năng
lực: Tự chủ và tự học; Giao tiếp và hợp tác; Giải quyết vấn đề và sáng tạo; Năng
lực ngôn ngữ…Từ đó hình thành phẩm chất yêu nước, trung thực, trách
nhiệm…
13


Bước 3: Thực hiện nhiệm vụ: HS làm bài tập, thực hiện nhiệm vụ GV đã
giao cho (Thực hiện ở nhà)
Bước 4: Báo cáo kết quả học tập: Trên các nhiệm vụ được giao HS sẽ
báo cáo kết quả trước lớp, các bạn khác cho ý kiến.

Bước 5: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ: Trên cơ sở nội dung báo
cáo của các nhóm, GV nhận xét bổ sung và chốt ý.
* Thiết kế bài dạy đọc hiểu nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS.
HOẠT ĐỘNG 1: Hoạt động khởi động
- Mục đích của hoạt động
+ Hoạt động khởi động giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kỹ năng
để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kỹ năng mới.
+ Giúp học sinh tạo hứng thú để bước vào bài học mới
+ Giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những
vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung bài học.
- Nội dung, hình thức khởi động
+ Câu hỏi, bài tập: có thể là quan sát tranh, ảnh để trao đổi với nhau về
một vấn đề nào đó có liên quan đến bài học; hoặc trực tiếp ôn lại kiến thức đã
học ở cấp/lớp dưới, thiết kế dưới dạng kết nối hoặc những câu hỏi đơn giản, nhẹ
nhàng.
+ Thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát…: một số hoạt động yêu cầu học
sinh đọc diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện hoặc hát về chủ đề liên quan đến bài
học. Các hoạt động này trong một số trường hợp được thiết kế thành các cuộc
thi, nhằm tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới.
+ Trò chơi: một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng
thú trước khi vào bài học mới. Các trò chơi này cũng cần có nội dung gắn với
mỗi bài học.
- Hoạt động khởi động khi dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang
gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng). GV thực hiện hoạt động theo 4 bước
sau:
Bước 1: GV cho HS xem đoạn video về đám tang của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
GV phát vấn:
- Cảm nghĩ của em sau khi xem xong đoạn video nói về đám tang của Chủ

tịch Hồ Chí Minh?
- Viết các từ có cùng trường nghĩa diễn tả những trạng thái tình cảm của
con người khi chứng kiến sự ra đi của một con người, đặc biệt đó là người thân
của họ?
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS xem đoạn video.
- Trả lời được câu hỏi.
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:
- Cảm nghĩ của HS.

14


- Viết các từ có cùng trường nghĩa diễn tả những trạng thái tình cảm của
con người khi chứng kiến sự ra đi của một con người, đặc biệt đó là người thân
của họ.
Trạng thái tích cực Trạng thái tiêu cực
Đau buồn
Vui mừng
Đau xót
Vui sướng
Đau đớn
Vui vẻ
Buồn thương
Hạnh phúc
Tiếc thương…
Thoải mái…
Bước 4: GV nhận xét, biểu dương; giới thiệu bài: Phải chăng, khi một
người nào đó ra đi vĩnh viễn thì những người còn lại (đặc biệt là những người
thân) đều có cảm giác đau thương, tiếc nuối,...Có lẽ, không hẳn như vậy. Bởi,

cuộc đời không thiếu những nghịch cảnh. Sự éo le, ngang trái đôi khi chúng ta
cũng không tưởng tượng ra được và có khi chẳng bao giờ nghĩ đến. Chuyện
đáng vui thì người ta khóc, chuyện đáng khóc người ta lại vui như tết. Và, tất cả
những ái ố, hỉ nộ của cuộc đời, chúng ta đều có thể tìm thấy trong những sáng
tác của Vũ Trong Phụng. Tiểu thuyết Số đỏ với đoạn trích Hạnh phúc của một
tang gia – là một minh chứng tiêu biểu nhất
HOẠT ĐỘNG 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới
- Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ
thống các bài tập/nhiệm vụ.
- Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ
Bước này yêu cầu học sinh đọc văn bản và chú thích. Giáo viên có thể
giao nhiệm vụ cho học sinh đọc trước ở nhà. Đến lớp chỉ đọc một đoạn hoặc bài
ngắn và một vài lưu ý trong chú thích. Sau đó giáo viên thiết kế những hoạt
động hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản bằng việc sử dụng một số câu hỏi tập
hợp thành một bài tập/nhiệm vụ lớn hơn; thiết kế các bài tập trắc nghiệm, kết
hợp tự luận; thiết kế các hoạt động kích thích, sáng tạo… Nội dung các bài
tập/nhiệm vụ trong mục này nêu lên các yêu cầu tìm hiểu về đặc điểm thể loại,
nội dung, nghệ thuật của văn bản.
Lưu ý:
– Giáo viên cần dự kiến những trường hợp học sinh không làm được bài
tập/nhiệm vụ để có phương án giải quyết. Có thể kích thích lại hứng thú hoặc ra
bài tập/nhiệm vụ khác, từ những bài tập dễ hơn, phù hợp hơn, rồi từ đó nâng dần
hiểu biết của các em.
– Các hoạt động của học sinh trong mục này gồm: Hoạt động cá nhân,
hoạt động nhóm. Kết thúc hoạt động nhóm, học sinh phải trình bày kết quả và
thảo luận với giáo viên.
Với đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia ( trích Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng), khi hướng dẫn HS đọc hiểu, GV lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học
và PPDH phù hợp với đặc trưng thể loại. Khi tổ chức Hoạt động hình thành kiến

thức, GV giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh:
Với nội dung 1: Tìm hiểu chung
15


- Dựa vào phần tiểu dẫn, tìm hiểu thêm từ tài liệu, internet hãy nêu khái
quát về tác giả.
- Giới thiệu những nét chính về sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
- Tóm tắt tiểu thuyết Số đỏ
- Nêu nét chính về tác phẩm Số đỏ, đoạn trích Hạnh phúc của một tang
gia.
Với nội dung 2: Tìm hiểu nhan đề đoạn trích
GV nêu câu hỏi, HS làm việc cá nhân, trả lời câu hỏi, GVcung cấp đáp án
sau khi HS đã trả lời.
Với nội dung 3: Tìm hiểu niềm vui của những thành viên trong tang
quyến
- GV chia lớp thành 4 nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm.
Nhóm1: Cụ Cố Hồng – Con trai trưởng.
Nhóm 2: Vợ chồng Văn Minh – Cháu nội, Cháu dâu.
Nhóm 3: Ông Phán – Cháu rể.
Nhóm 4: Cậu Tú Tân – Cháu trai, Cô Tuyết – Cháu gái.
- HS trao đổi, thảo luận, báo cáo kết quả thảo luận.
Với nội dung 4: Cảnh đám tang
GV giao nhiệm vụ, HS làm việc cá nhân và nhận xét về hình thức đám
táng và cảnh hạ huyệt.
HOẠT ĐỘNG 3: Hoạt động luyện tập – thực hành
- Mục đích của hoạt động
Yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa học được ở hoạt
động hình thành kiến thức mới để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. Thông qua
đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức

độ nào.
- Nội dung và hình thức các bài tập/nhiệm vụ
- Hoạt động thực hành gồm các bài tập/nhiệm vụ yêu cầu học sinh củng
có các tri thức vừa học và rèn luyện các kỹ năng liên quan.
- Các bài tập/nhiệm vụ trong Hoạt động thực hành tập trung hướng đến
việc hình thành các kỹ năng cho học sinh, khác với bài tập trong Hoạt động hình
thành kiến thức mới chủ yếu hướng tới việc khám phá tri thức. Đây là hoạt động
gắn với thực tiễn bao gồm những nhiệm vụ như: trình bày, viết văn…
Lưu ý:
Học sinh có thể được hướng dẫn hoạt động cá nhân hoặc nhóm để hoàn
thành các câu hỏi, bài tập, bài thực hành…Hoạt động cá nhân để học sinh hiểu
và biết được mình hiểu kiến thức như thế nào, có góp gì vào hoạt động nhóm và
xây dựng các hoạt động của tập thể lớp. Hoạt động nhóm để trao đổi, chia sẻ kết
quả mình làm được, thông qua đó học sinh có thể học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi
cho nhau, giúp cho quá trình học tập của học sinh hiệu quả hơn. Kết thúc hoạt
động này học sinh sẽ trao đổi với giáo viên để được bổ sung, uốn nắn những nội
dung chưa đúng.
HOẠT ĐỘNG 4: Hoạt động vận dụng
- Mục đích của hoạt động
16


Hoạt động này giúp học sinh sử dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải
quyết các vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. “Thực tế” ở đây được hiểu là thực tế
trong nhà trường, trong gia đình và trong cuộc sống của học sinh. Hoạt động này
sẽ khuyến khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết
của mình; tìm phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những các giải quyết
vấn đề khác nhau; góp phần hình thành năng lực, phẩm chất học tập với gia đình
và cộng đồng.
- Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ

Các bài tập vận dụng gồm các loại:
- Vận dụng kiến thức đọc hiểu để giải thích, phân tích một hiện tượng văn
học, văn hóa khác tương ứng. Ví dụ: giải thích các câu tục ngữ, phân tích các bài
ca dao, nêu ý kiến về một hiện tượng văn hóa…
- Vận dụng kiến thức, kỹ năng tiếng Việt để giải quyết một số vấn đề như:
giải nghĩa, từ loại, xác định cấu tạo từ…trong các hiện tượng ngôn ngữ của cuộc
sống.
- Tiếp tục rèn luyện kỹ năng làm văn.
Lưu ý:
Hoạt động vận dụng khác với hoạt động thực hành. Hoạt động thực hành
là làm các bài tập cụ thể do giáo viên hoặc sách hướng dẫn đặt ra, còn hoạt động
vận dụng là hoạt động được triển khai ở nhà, cộng đồng; động viên khuyến
khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo; giúp học sinh gần gũi với gia đình, địa
phương, tranh thủ sự hướng dẫn của gia đình, địa phương. Học sinh tự đặt ra yêu
cầu cho mình, trao đổi và thảo luận với gia đình và cộng đồng để cùng giải
quyết. Tuy nhiên, hoạt động vận dụng vẫn có thể được tổ chức trên lớp nếu giáo
viên thấy cần thiết và có thời gian.
HOẠT ĐỘNG 5: Hoạt động tìm tòi, mở rộng
Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tiếp tục mở rộng kiến thức, kỹ năng. Hoạt
động này dựa trên lập luận cho rằng, quá trình nhận thức của học sinh là không
ngừng, như vậy cần có sự định hướng để đáp ứng nhu cầu tiếp tục học tập, rèn
luyện sau mỗi bài học cụ thể.
Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ cụ thể
- Đọc thêm các đoạn trích, văn bản có liên quan
- Trao đổi với người thân về nội dung bài học như: kể cho người thân
nghe về câu chuyện vừa học, hỏi về ý nghĩa câu chuyện…
- Tìm đọc sách, báo, mạng in-tơ-nét…một số nội dung theo yêu cầu.
Lưu ý:
- Các nhiệm vụ trong hoạt động bổ sung được thiết kế cho học sinh tự làm

việc ở nhà.
- Hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ theo nhóm, đồng thời yêu cầu
học sinh làm các bài tập đánh giá năng lực.
Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo các hoạt động đề xuất trên đây
là một hướng đi mới đáp ứng đổi mới PPDH khi giảng dạy đoạn trích “Hạnh
phúc của một tang gia” (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
17


*. Thiết kế bài học “Hạnh phúc của một tang gia” (trích “Số đỏ” của
Vũ Trọng Phụng) – Ngữ văn 11 theo các hoạt động tác giả sáng kiến
đã đề xuất. (Phụ lục 1)
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Hiệu quả của sáng kiến đối với mức độ nhận thức và hứng thú
của HS sau thực nghiệm
Để đánh giá hiệu qủa của sáng kiến, tôi đã đối chiếu giữa 2 lớp: lớp 11C5
với sĩ số 40, có sử dụng PPDH đổi mới theo giải pháp sáng kiến đã đề xuất; lớp
11C7 lớp đối chứng, không sử dụng các giải pháp đổi mới mà sáng kiến đề xuất.
Sau giờ dạy thực nghiệm, tôi có đánh giá kết quả học tập của HS bằng cách cho
HS làm bài kiểm tra trong 15p ở cả 2 lớp.
Tiêu chí bài kiểm tra: tôi xây dựng bài kiểm tra dựa trên cơ sở của yêu cầu
kết quả cần đạt mà giáo án xây dựng theo đúng chương trình chuẩn do Bộ Giáo
dục và Đào tạo đề ra. Cụ thể, ở đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số
đỏ – Vũ Trọng Phụng) kết quả cần đạt về kiến thức là: HS cần “Nắm được
những kiến thức cơ bản về thân thế, sự nghiệp và giá trị nội dung, nghệ thuật
trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm “Số đỏ”và đoạn trích Hạnh phúc
của một tang gia. Nhận thức được đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của
truyện hiện đại. Như vậy, tiêu chí bài kiểm tra thể hiện được sự phù hợp và đúng
đắn, bởi dựa trên mục tiêu yêu cầu bài học của chương trình chuẩn do Bộ Giáo

dục và Đào tạo đề ra chứ không phải do người viết sáng kiến tự đặt ra.
Hình thức bài kiểm là trắc nghiệm, Đề kiểm tra có 10 câu, thang điểm 10,
mỗi câu đúng được 1 điểm.( Phụ lục 2)
Cách đánh giá bài kiểm tra: Những bài làm khoanh đúng các câu hỏi trắc
nhiệm sẽ được 1 điểm/1 câu, chấm điểm theo thang điểm 10 và kết quả như sau:
Kết quả
Số HS

Kết quả thực nghiệm
Điểm
giỏi
(9 - 10đ)
15

Điểm khá
(7 - 8đ)

Điểm
TB
(5 - 6đ)
10

Điểm yếu
(<5)

Lớp thực Số lượng
40
17
nghiệm
%

100
37.5%
42.5 %
25 %
%
Lớp đối Số lượng
38
6
11
17
4
chứng
%
100
15.7 %
28.9 %
44.7%
10.5 %
Bảng 4. Kết quả kiểm tra mức độ nhận thức của HS sau thực nghiệm.
Kết quả thực nghiệm đã cho chúng tôi thấy sự khác biệt giữa kết quả học
tập của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Mức độ đạt được kiến thức ở 2 lớp có
sự chệnh lệch nhau rõ ràng. Ở lớp đối chứng, tỉ lệ HS đạt điểm khá và giỏi
chiếm 44.6 %; trong khi đó, ở lớp thực nghiệm tỉ lệ HS điểm khá và giỏi chiếm
80 %, hơn 35.4 % so với lớp đối chứng. Điểm TB ở lớp đối chứng chiếm tỉ lệ
cao lên tới 44.7% và có 10.5 HS đạt điểm yếu. Còn lớp đối chứng số HS đạt
điểm yếu không có HS nào và số HS đạt điểm TB chiếm tỉ lệ ít trong tổng số
18


HS, chiếm 25 %. Như vậy, với kết quả đó có thể khẳng định dạy học đoạn trích

“Hạnh phúc của một tang gia” (trích “Số đỏ” – Vũ Trọng Phụng) theo hướng
đổi mới đã đem lại hiệu quả và có tính khả thi.
Để khẳng định giờ học thực sự không gây nhàm chán, khó khăn cho cho
HS, chúng tôi đã khảo sát HS thông qua 4 câu hỏi.
Câu hỏi đầu tiên tôi khảo sát các mức độ: rất thích; thích học; không thích
học. Kết quả như sau:
Quan
Đối tượng
Số
Rất
Thích
Không
Không rõ
điểm
khảo sát
phiếu
thích
học
thích học quan điểm
khác
Lớp11C5
Trường
24
10
5
1
40
0
THPT
60 %

25%
12.5 %
2.5 %
Như Xuân
Bảng 5. Khảo sát sự yêu thích của HS sau giờ thực nghiệm
Bảng 5 đã tổng hợp kết quả khảo sát về mức độ yêu thích khi học tác phẩm
của HS sau giờ thực nghiệm. Nhìn vào kết quả cho thấy, tỉ lệ số HS rất thích và
thích học khi học tác phẩm chiếm 85 %. Điều đó cho thấy việc áp dụng dạy học
đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số đỏ củaVũ Trọng Phụng)
theo hướng đổi mới đem lại hiệu quả cao, có tính khả thi.
4.1.2. Hiệu quả của sáng kiến đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà
trường
Đề tài đã được bản thân tôi và một số đồng nghiệp trong tổ Ngữ văn kiểm
nghiệm qua thực tiễn giảng dạy tại trường THPT Như Xuân. Việc đổi mới
phương pháp giảng dạy đã thực sự phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh, theo đúng mực tiêu phát triển năng lực của người học của chương trình
giáo dục phổ thông mới. Việc đổi mới PPDH này cũng được chúng tôi áp dụng
linh hoạt trong các bài học, tiết học để mỗi bài học thực sự là một “ cuộc khám
phá nhỏ” của của học sinh với kho tàng tri thức.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực và khơi gợi
hứng thú cho học sinh là một vấn đề cấp thiết đối với các môn học, đặc biệt là
bộ môn Ngữ Văn. Từ thực tế nghiên cứu và giảng dạy, tôi rút ra một số kết luận
sau:
Thứ nhất: dạy học đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” (trích Số đỏ
của Vũ Trọng Phụng) theo hướng đổi mới đã được tôi vận dụng giảng dạy trên
lớp, nhận thấy rõ hiệu ứng tích cực từ thái độ học tập, khả năng diễn đạt và trình
bày của học sinh. Kết quả chất lượng giáo dục được nâng cao rõ rệt.
Thứ hai: Đây là một đề tài mang tính ứng dụng cao vào thực tế giảng dạy

vì dễ thực hiện, phù hợp với đặc điểm của nhiều trường, phù hợp với trình độ và
năng lực của mọi giáo viên.
Thứ ba: Phù hợp với mọi đối tượng học sinh.
19


Với điều kiện thời gian ngắn, trình độ bản thân có hạn chắc chắn đề tài
còn nhiều hạn chế. Bằng tâm huyết và tấm lòng của mình, tôi muốn đóng góp
cho công việc dạy học một đề tài nhỏ để nâng cao hiệu quả dạy học.
3.2. Kiến nghị
Đối với Sở giáo dục: Để tạo điều kiện cho giáo viên dạy và học sinh học
tốt môn Ngữ văn, tôi mạnh dạn đề nghị tăng cường tổ chức các buổi giao lưu
sinh hoạt chuyên môn giữa các trường THPT trong tỉnh (đặc biệt là tổ chức giao
lưu kinh nghiệm chuyên môn giữa các trường miền núi với những trường có bề
dày thành tích) để các giáo viên có điều kiện học hỏi, trao đổi những phương
pháp giảng dạy mới mang tính tích cực. Từ đó, các giáo viên sẽ ngày càng linh
hoạt và sáng tạo trong việc áp dụng vào từng trường với những đối tượng học
sinh cụ thể.
Đối với nhà trường: Cần bổ sung sách tham khảo, sách hướng dẫn, tài
liệu bồi dưỡng kỹ năng sống để giáo viên và học sinh có thêm điều kiện để dạy
và học tốt môn học. Nên đầu tư hệ thống máy chiếu trong các phòng học để
thuận lợi hơn cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng.
Đối với tổ chuyên môn: Khuyến khích giáo viên trong tổ mạnh dạn đổi
mới phương pháp giảng dạy, để rèn luyện kiểu tư duy mới và đặc biệt là tạo
hứng thú học tập, khả năng chiếm lĩnh tri thức cho học sinh.
Thanh Hóa, ngày 2 tháng 7 năm 2020
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiên kinh

nghiệm của mình viết, không sao chép
của người khác

Nguyễn Thị Hiệp

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), CT THPT, môn Ngữ văn
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29 – NQ/TW về đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, Hà Nội
3. Sách giáo khoa Ngữ văn11 tập 1 NXBGD 2009
4. Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 1 NXBGD 2009
5. Tài liệu tập huấn dạy học tích hợp ở trường trung học cơ sở, trung học
phổ thông 2015.
6.Trần Đình Sử (Tổng chủ biên) (2007), Ngữ văn 11 (cơ bản), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.

21



×