Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giải pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử vào giảng dạy bài 19 những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ x – XV môn lịch sử 10 tạo hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.3 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢI PHÁP LỒNG GHÉP KỂ CHUYỆN LỊCH SỬ VÀO
GIẢNG DẠY BÀI 19: NHỮNG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG NGOẠI XÂM Ở THẾ KỈ X – XV MÔN LỊCH SỬ 10
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH

Người thực hiện: Lê Đình Quang
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
SKKN thuộc môn: Lịch sử

THANH HÓA, NĂM 2020


MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC……………………………………………………………
1
1.
MỞ
ĐẦU..........................................................................................
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………....
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………….
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………....
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………...
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM....................................
2.1. Cơ sở lí luận..................................................................................


2.2. Thực trạng của đề tài.....................................................................
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề…………………
2.3.1. Tìm hiểu các nhân vật lịch sử trong nội dung bài học và
những câu chuyện gắn liền...................................................................
2.3.2. Thiết kế giáo án tổ chức dạy học lồng ghép câu chuyện
lịch sử trong giảng dạy bài 19: “ Những cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm ở thế kỉ X – XV”................................................................
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm……………………………
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………..
3.1.
Kết
luận...................................................................................
3.2. Kiến nghị và đề xuất...............................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................

2
2
2
3
3
4
4
4
5
5
5
14
16
16
16

17

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Sử học với tư cách là khoa học trong các môn Khoa học xã hội, một bộ phận
quan trọng nhất của văn hóa và là khoa học của các khoa học. Trí thức lịch sử có
vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước trong thời kì hội nhập
quốc tế.
Kiến thức lịch sử có tác dụng to lớn trong giáo dục các thế hệ con người Việt
Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống, bản sắc dân tộc để không bị hòa tan
khi hội nhập với khu vực và với thế giới.
Tuy nhiên thực tế là ở các trường phổ thông hiện nay, phần lớn học sinh ít có
hứng thú với bộ môn Lịch sử, hoặc có hứng thú nhưng không chọn làm môn thi,
thậm chí nhiều em còn chán ghét môn Lịch sử. Thực tế này có nhiều nguyên
nhân, nhưng trước hết và chủ yếu vẫn là do đây là môn khó học, phải ghi nhớ
nhiều, nhất là những sự kiện gắn liền với con số theo chiều dài năm tháng và
việc giảng dạy thiếu tính sáng tạo, cứng nhắc của giáo viên bộ môn Lịch sử.
Để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử thì việc đổi mới nội dung phải tiến
hành song song với đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên phải thay đổi từ lối
dạy truyền đạt một chiều sang đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn, kích
thích óc tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Sự chủ động của học sinh là cơ sở tâm lí
sư phạm tạo nên hứng thú học tập của học sinh. Vì lẽ đó vấn đề tạo hứng thú cho
học sinh là yêu cầu cấp thiết trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói
riêng.
Là giáo viên dạy bộ môn Lịch sử, tôi tâm đắc câu nói của nhà giáo dục
William Arthur: “Một giáo viên bình thường kể chuyện. Một giáo viên giỏi giải
thích. Một giáo viên xuất sắc chứng minh. Một giáo viên vĩ đại truyền cảm

hứng”. Trong giảng dạy môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông nếu như các
thầy cô chỉ giảng bài một cách nhàm chán, các em sẽ chẳng tiếp thu được gì mà
còn phản tác dụng, các em sẽ không tập trung học tập. Do đó lồng ghép các câu
chuyện minh họa cho bài giảng là một cách để thay đổi “khẩu vị” bài giảng. Học
sinh thường rất thích nghe kể chuyện vì điều đó làm giải tỏa những căng thẳng
trong quá trình học tập. Học được phép tưởng tượng theo những gì thầy cô kể
thay vì nhìn chằm chằm vào sách, vào vở hay chiếc bảng đen, những thứ đôi khi
khiến các em nhàm chán.
Từ những lí do trên nên bản thân tôi mạnh dạn chọn: “Giải pháp lồng ghép
kể chuyện lịch sử vào giảng dạy bài 19: Những cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm ở thế kỉ X – XV môn Lịch sử 10 tạo hứng thú học tập cho học
sinh” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận để lồng ghép kể các câu chuyện lịch sử để
giảng dạy bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ X – XV
môn Lịch sử 10.
- Thiết kế giáo án dạy học lồng ghép kể chuyện lịch sử trong giảng dạy
2


bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ X – XV môn Lịch sử
10.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của giải
pháp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Lồng ghép kể chuyện lịch sử vào giảng dạy bài 19: Những cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ X – XV môn Lịch sử 10 tạo hứng thú học tập
cho học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp

sau:
- Nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan làm cơ sở lí
luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Áp dụng giảng dạy lồng ghép kể
chuyện lịch sử trong bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ
X – XV môn Lịch sử 10.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Trong lời mở đầu của bài đăng trên tạp chí nghiên cứu giáo dục quốc tế
của Pháp “Những định hướng và thực tiễn dạy học Lịch sử ở Việt Nam”, tác giả
Hoàng Thanh Tú có viết: “Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng
sâu rộng, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với nhiều thành tựu đặc
biệt là sự ra đời và phát triển của internet, của phương tiện truyền thông, thế giới
dường như nhỏ lại, các đường biên giới quốc gia mờ đi, sự giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm, ý tưởng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Vì thế, giáo dục nói
chung, giáo dục lịch sử nói riêng của mỗi quốc gia đứng trước những cơ hội và
thách thức mới. Trong hoàn cảnh đó, câu hỏi dạy học lịch sử vì mục đích gì và
tại sao? Được đặt ra là rất cần thiết. Cùng nhìn nhận lại vấn đề này không chỉ
giúp đánh giá về một lời giải đáp chung: học lịch sử để hiểu quá khứ và chuẩn bị
tốt hơn cho cuộc sống tương lai, mà quan trọng hơn đó là tìm hiểu những điểm
khác biệt mang tính đặc trưng của mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam...”[3].
Nếu lịch sử dân tộc ngừng chảy, hoặc chảy không mạnh, nó sẽ sinh ra một
thế hệ con người Việt Nam mới “ vô thức”. Trước yêu cầu đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục theo Nghị quyết 29-NQ/TW hội nghị lần thứ tám BCH
Trung ương Đảng khóa XI: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng

giáo dục lí tưởng,... năng lực và kĩ thuật thực hành, vận dụng kiến thức vào thực
tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[6].
Đặc biệt tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII vào chiều ngày
27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết yêu cầu tiếp tục giữ môn học
Lịch sử trong chương trình sách giáo khoa mới.
Nhà văn, nhà thơ Michael Morpurgo đã từng nói: “Giáo viên mới là
người tạo ra sự khác biệt, chứ không phải lớp học”. Chúng ta biết rằng, có
nhiều các câu chuyện truyền miệng cũng như thành văn về lịch sử nước nhà. Có
những bộ sử hay, đồ sộ tới mấy nghìn trang nhưng đã có ai đọc hết, cũng có
những bài thơ, hò, vè, diễn nôm lịch sử mang đậm tính nhân dân sâu sắc nhưng
chưa được truyền bá rộng rãi. Có nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có
nguyên nhân ngại khó, ngại tìm tòi của giáo viên và học sinh. Thiết nghĩ nếu
chúng ta lựa chọn những câu chuyện hay, phù hợp với tiết dạy sẽ giúp học sinh
hứng thú hơn với môn Lịch sử, thích đọc và nhớ được nhiều hơn. Đặc biệt lồng
ghép những câu chuyện lịch sử vào các bài học sẽ thu hút được học sinh yêu
thích môn Lịch sử và lịch sử nước nhà nhiều hơn nữa.
“Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”
(Chế Lan Viên)
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Ở trường THPT Như Xuân đa số học sinh là con em dân tộc, điểm đầu
vào thấp nên các em chưa có ý thức tự học, tự tìm tòi và say mê môn học Lịch
sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ...còn yếu. Các
em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời một câu hỏi mà chỉ đọc nguyên xi trong sách
4


giáo khoa hay chỉ nêu được diễn biến sự việc mà không lí giải được vì sao nó lại
diễn ra như thế hay sự kiện đó nói lên điều gì.
Tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra để khảo sát thực trạng học tập môn

Lịch sử đối với học sinh 2 lớp là 10A5, 10A7, kết quả điều tra cho thấy: Môn
Lịch sử chưa thực sự được các em yêu thích, có thể một trong những nguyên
nhân là do hoạt động dạy học của giáo viên chưa lôi cuốn được học sinh. Chứng
tỏ giáo viên mới chỉ chú trọng hình thành và dạy cho học sinh nội dung, chứ
chưa quan tâm đến việc hình thành, phát triển năng lực và tạo hứng thú cho học
sinh để các em yêu thích môn học, cho nên nhiều học sinh chán ghét bộ môn và
học chỉ để đối phó dẫn đến chất lượng bài kiểm tra của các em ở một số lớp còn
thấp và tỉ lệ yếu kém còn nhiều. Nên việc thay đổi các hoạt động trên lớp là rất
cần thiết để lôi cuốn học sinh vào môn học.
Để lôi cuốn được học sinh thì giáo viên phải lồng ghép các câu chuyện
lịch sử liên quan đến bài học vào trong bài giảng để tạo hứng thú học tập giúp
các em học sinh học tập tích cực, chủ động tìm tòi, tạo cho các em yêu thích
môn học hơn.
Qua thực tế giảng dạy ở trường THPT Như Xuân, tôi nhận thấy việc lồng
ghép kể chuyện lịch sử tạo hứng thú của học sinh trong giảng dạy lịch sử còn ít
được các giáo viên chú trọng.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1.Tìm hiểu các nhân vật lịch sử trong nội dung bài học và những
câu chuyện gắn liền
Tiến hành phân tích nội dung bài 19: Những cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm ở thế kỉ X – XV trong chương trình Lịch sử 10, từ đó đưa ra những
câu chuyện có thể lồng ghép vào trong bài học.
Bảng 1: Các nhân vật lịch sử trong bài học
Tên bài học
Tên nhân vật lịch sử Những câu chuyện gắn liền
Dương Vân Nga
Dương Vân Nga -Người hai lần
làm hoàng hậu
Lê Hoàn
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn

Bài 19: Những cuộc Lý Thường Kiệt
Bài thơ: “Nam quốc sơn hà”
kháng chiến chống Thái hậu Ỷ Lan
Nguyên phi Ỷ Lan giúp vua Lý
ngoại xâm ở thế kỉ
Thánh Tông trị nước
X – XV
Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn
Trần Quốc Toản
Lá cờ thêu sáu chữ vàng
Lê Lợi
Hội thề Lũng Nhai
Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo
2.3.2. Thiết kế giáo án tổ chức dạy học lồng ghép câu chuyện lịch sử
trong giảng dạy bài 19: “ Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ
X – XV”

5


Thiết kế giáo án tổ chức dạy học lồng ghép câu chuyện lịch sử trong giảng
dạy bài 19: “ Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ X – XV” và
tiến hành dạy học thực nghiệm ở lớp 10A5 của trường THPT Như Xuân.
Bài 19: NHỮNG CUỘC CHIẾN ĐẤU CHỐNG NGOẠI XÂM Ở
CÁC THẾ KỈ X - XV
I. Mục tiêu
1. Kiến thức

- Biết được các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân Việt Nam trong gần sáu thế kỷ đầu thời kỳ độc lập.
- Biết được tinh thần dũng cảm, truyền thống yêu nước ngày càng sâu đậm,
nhân dân ta đã chủ động sáng tạo, vượt qua mọi thách thức khó khăn đánh lại
các cuộc xâm lược.
- Biết được trong sự nghiệp chống ngoại xâm vĩ đại đó, không chỉ nổi lên
những trận quyết chiến đầy sáng tạo mà còn xuất hiện một loạt các nhà chỉ huy
quân sự tài năng.
2. Kĩ năng
Rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ trong học tập, tích cực bồi dưỡng kỹ
năng phân tích, tổng hợp tạo ấn tượng cho học sinh về những cuộc chiến tranh
giữ nước hào hùng, thể hiện ý chí quật cường của dân tộc.
3. Thái độ
- Xây dựng tinh thần, lòng yêu nước, ý thức bảo vệ nền độc lập và thống
nhất của Tổ quốc; ý thức đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
- Bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn với các thế hệ tổ tiên, các
anh hùng dân tộc đã chiến đấu quên mình vì Tổ quốc.
4. Phát triển các năng lực
- Năng lực giải quyết vấn đề.
- Năng lực giao tiếp và làm việc nhóm.
II. Chuẩn bị
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Giáo viên chuẩn bị các câu chuyện lịch sử và cách dẫn nhập, các câu hỏi
mở nhằm khuyến khích học sinh suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn
- Giáo viên chuẩn bị đầy đủ đồ dùng và thiết bị dạy học như giấy khổ to,
bút dạ, tranh ảnh, tài liệu tham khảo khác….
2. Chuẩn bị của học sinh
- Ý kiến tham gia thảo luận, sưu tầm , chọn lọc các câu chuyện lịch sử về
nội dung bài học - Sưu tầm các tài liệu liên quan đến các cuộc khởi nghĩa, đọc
bài trước ở nhà

III. Tiến trình tổ chức
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ
3. Tiến trình dạy học
A. Hoạt động khởi động
GV sử dụng biện pháp kết hợp kể chuyện lịch sử trong giải thích các vấn đề
lịch sử, nhân vật, trận đánh để tạo hứng thú nghe giảng cho học sinh, đồng thời
giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn các sự kiện, nhân vật.
6


B. Hoạt động hình thành kiến thức
Các hoạt động của thầy và trò
Nội dung kiến thức
- Trước hết GV gợi lại cho HS nhớ về
triều đại nhà Tống ở Trung Quốc thành lập
và sụp đổ ở thời gian nào.
- HS nhớ lại kiến thức đã học ở phần
Trung Quốc phong kiến để trả lời:
+ Thành lập: năm 960.
+ Sụp đổ: năm 1271 (cuối thế kỷ XIII).
- GV dẫn dắt: trong thời gian tồn tại 3
thế kỷ, nhà Tống đã 2 lần đem quân xâm
lược nước ta, nhân dân Đại Việt đã 2 lần
kháng chiến chống Tống.
I. CÁC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TỐNG
Hoạt động 1: Cả lớp và cá nhân
1. Kháng chiến chống Tống
- GV yêu cầu HS theo dõi SGK để thấy thời Tiền Lê
được nguyên nhân quân Tống xâm lược - Năm 980 nhân lúc triều đình

nước ta, triều đình đã tổ chức kháng chiến nhà Đinh gặp khó khăn, vua
như thế nào và giành thắng lợi ra sao?
Tống cử quân sang xâm lược
- HS theo dõi SGK, phát biểu.
nước ta.
- GV bổ sung và kết luận.
- Trước tình hình đó Thái hậu họ
- GV cấp thêm tư liệu : Bức tượng Thái Dương và triều định nhà Đinh đã
Hậu Dương Vân Nga được đặt trong đền tôn Lê Hoàn làm vua để lãnh đạo
thờ vua Lê Đại Hành với vị trí đặc biệt, và kháng chiến.
lồng ghép câu chuyện Dương Vân Nga
-Người hai lần làm hoàng hậu: “Người Ái
Châu (Thanh Hóa), con gái Nha tướng
Dương Đình Nghệ”. Bà là vợ vua Đinh
Tiên Hoàng, sau khi vua Đinh và con trai
cả là Đinh Liễn bị ám sát, bà đã giao quyền
nhiếp chính cho Thập đạo tướng quân Lê
Hoàn (Lê Đại Hành) sau đó bà lại trở thành
vợ vua Lê Đại Hành, chính điều đó đã đưa
đến cho bà nhiều tai tiếng và cái nhìn kỳ
thị của xã hội lúc bấy giờ[1].
Ảnh hưởng hay vai trò của Thái hậu như
thế nào trong lịch sử dân tộc?
Năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con trưởng - HS: nghe, tự ghi nhớ.
bị ám sát, triều đình nhà Đinh lục đục gặp
nhiều khó khăn, Vua mới Đinh Toàn còn
nhỏ mới 6 tuổi. Tôn mẹ là Dương Thị làm - Thắng lợi lớn nhanh chóng,
Hoàng Thái Hậu.
thắng ngay ở vùng đông Bắc
+ Trước nguy cơ bị xâm lược Thái hậu khiến vua Tống không dám nghĩ

7


Các hoạt động của thầy và trò
Dương Thị đã đặt quyền lợi của đất nước
lên trên quyền lợi của dòng họ, tôn thập
đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua để
lãnh đạo kháng chiến.
+ Sự mưu lược của Lê Hoàn trong quá
trình chỉ huy kháng chiến, vờ thua để nhử
giặc lúc trá hàng và bất ngờ đánh úp.
- Phát vấn: Em nhận xét gì về thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Tống và cho biết
nguyên nhân các cuộc thắng lợi.
- HS suy nghĩ trả lời.
- GV nhận xét, bổ sung, kết luận:
+ Đây là thắng lợi rất nhanh, rất lớn đè bẹp
ý chí xâm lược của quân tống. Hàng trăm
năm sau nhân dân ta được sống trong cảnh
yên bình. Năm 1075 nhà Tống mới dám
nghĩ đến xâm lược Đại Việt.
+ Nguyên nhân thắng lợi là do:
Triều đình nhà Đinh và Thái Hậu họ
Dương sẵn sàng vì lợi ích dân tộc mà hy
sinh lợi ích dòng học để tạo thuận lợi cho
cuộc kháng chiến chống Tống.
Do ý chí quyết chiến bảo vệ độc lập của
quân dân Đại Việt.
Do có sự chỉ huy mưu lược của Lê
Hoàn.

- HS nghe, tự ghi nhớ.
Hoạt động 2: Cả lớp, cá nhân
- GV tiếp tục yêu cầu HS theo dõi để thấy
được:
+ âm mưu xâm lược nước ta của quân
Tống.
+ Nhà Lý tổ chức kháng chiến thế nào qua
2 giai đoạn:
Giai đoạn : Chủ động đem quân đánh
Tống.
Giai đoạn  : Chủ động lui về phòng
thủ giặc.
- HS theo dõi SGK theo yêu cầu của GV,
phát biểu về âm mưu xâm lược của Nhà
tống.
- GV nhận xét, bổ sung, kết luận.
+ Sự khủng hoảng của nhà Tống: phía Bắc

Nội dung kiến thức
đến việc xâm lược Đại Việt, củng
cố vững chắc nền độc lập.

2. Kháng chiến chống tống thời
Lý (1075 – 1077)

8


Các hoạt động của thầy và trò
phải đối phó với nước Liêu (bộ tộc Khiết

Đan), nước Ha (dân tộc Đảng Hạ), trong
nước nông dân nổi dậy. Trong hoàn cảnh
đó vua Tống và Tể tướng Vương An Thạch
chủ trương đánh Đại Việt hy vọng dùng
chiến công ngoài biên giới để lấn áp tình
hình trong nước, doạ nạt Liêu và Hạ.
+ Các hoạt động chuẩn bị của quân Tống:
Tổ chức khu vực biên giới Việt Trung
thành một hệ thống căn cứ xâm lược lợi
hại. Trong đó Ung Châu (Nam Ninh,
Quảng Tây) và cửa biển Khâm Khẩu và
Khâm Liên Quảng Đông là những vị trí
xuất quân của Đại Việt được bố trí rất chu
đáo, nhất là ung Châu được xây dựng thành
căn cứ hậu cần lớn nhất chuẩn bị cho việc
xâm lược (có thành kiên cố với 5000
quân).
Âm mưu và hành động chuẩn bị xâm
lược của nhà Tống đã để lộ ra và nhà Lý
đối phó như thế nào?
- HS trả lời: Nhà Lý kháng chiến thế nào
qua 2 giai đoạn.
GV nhận xét, bổ sung:
- Kết hợp với dùng lược đồ trình bày các
giai đoạn của cuộc kháng chiến.
- GV kể câu chuyện lịch sử Lý Thường
Kiệt (1019 - 1105) “Ông là người
giàu mưu lược, có biệt tài làm tướng
súy, làm quan trải thờ ba đời vua, phá
Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng

ngày một lớn, được vua sủng ái, là
người đứng đầu các bậc công hầu
vậy” - Phan Huy Chú (Lịch triều hiến
chương loại chí - Nhân vật chí)[4].
Chuyển giao nhiệm vụ :Cho HS tìm hiểu
về Thái Hậu Ỷ Lan để HS biết thêm
về các nhân vật lịch sử: Bà không
quản ngại khó khăn, vất vả, đến nhiều
nơi để hiểu được đời sống của muôn
dân. Chính nhờ chuyến đi này, bà
giúp dân thoát khỏi cơ cực cũng như
trấn an dân chúng, củng cố triều

Nội dung kiến thức

- Thập kỷ 70 của thế kỉ XI nhà
Tống âm mưu xâm lược Đại Việt,
đồng thời tích cực chuẩn bị cho
cuộc xâm lược.

- Trước âm mưu xâm lược của
quân Tống, nhà Lý đã tổ chức
kháng chiến.
+ Giai đoạn 1: Lý Thường Kiệt
tổ chức thực hiện chiến lược :tiên
phát chế nhân” đem quân đánh
trước chặn thế mạnh của giặc.
- Năm 1075 Quân triều đình cùng
các dân tộc miền núi đánh sang
đất Tống, Châu Khâm, Châu

Liên, Ung Châu, sau đó rút về
phòng thủ.
+ Giai đoạn 2: Chủ động lui về
phòng thủ đợi giặc.
- Năm 1077 ba mươi vạn quân
Tống kéo sang bị đánh bại bến bờ
Bắc của sông Như Nguyệt  ta
chủ động giảng hoà và kết thúc
chiến tranh.

9


Các hoạt động của thầy và trò

Nội dung kiến thức

cương[5].
- GV giúp HS nhận thức đúng về hành
động đem quân đánh sang Tống của
Lý Thường Kiệt, không phải là hành
động xâm lược mà là hành động tự
vệ.
- GV có thể tường thuật trận chiến bên bờ
sông Như Nguyệt: Đọc lại bài thơ Thần
của Lý Thường Kiệt.
Chuyển giao nhiệm vụ : Hs nêu Ý nghĩa
của bài thơ, tác dụng của việc đọc vào ban
đêm trong đền thờ Trương Hống, Trương
Hát (Hai vị tường của Triệu Quang Phục).

- HS nghe, tự ghi nhớ:
- Phát vấn: Kháng chiến chống Tống thời
Lý được coi là cuộc kháng chiến rất đặc
biệt trong lịch sử:Em cho biết những nét
đặc biệt ấy là gì?
- HS dựa vào diễn biến cuộc kháng chiến
suy nghĩ và trả lời.
- GV kết luận:
+ Có giai đoạn diễn ra ngoài lãnh thổ
(kháng chiến ngoài lãnh thổ).
+ HS nghe và ghi nhớ.
II. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG – NGUYÊN THỜI TRẦN (Thế kỷ
XIII)
Hoạt động 3: Cả lớp, cá nhân
- Trước hết GV tóm tắt về sự phát triển của
Đế quốc Mông – nguyên, từ việc quân
Mông Cổ xâm lược Nam Tống và làm chủ
Trung Quốc rộng lớn, lập nên nhà Nguyên
là một thế lực hung bạo chinh chiến khắp
Á, Âu. Thế kỷ XIII, 3 lần đem quân xâm
lược Đại Việt.
- Năm 1258 – 1288 quân Mông –
- Sau đó GV yêu cầu HS theo dõi SGK Nguyên 3 lần xâm lược nước ta.
thấy được quyết tâm kháng chiến của quân Giặc rất mạnh và hung bạo.
dân nhà Trần và những thắng lợi tiêu biểu
của cuộc kháng chiến.
- HS theo dõi SGK theo yêu cầu của GV,
phát biểu.
- Các vua Trần cùng nhà quân sự
- GV nhận xét, bổ sung, kết luận.

Trần Quốc Tuấn đã lãnh đạo nhân
dân cả nước quyết tâm đánh giặc
10


Các hoạt động của thầy và trò
GV lồng ghép câu chuyện Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn (? – 1300)
Chuyển giao nhiệm vụ :đàm thoại với HS
về nhân cách đạo đức, nghệ thuật quân sự
của Trần Quốc Tuấn được nhân dân phong
là Đức Thánh Trần, lập đền thờ ở nhiều nơi
về quyết tâm của vua tôi nhà Trần.
"Ngô Tiên Chúa cả phá quân Lưu Hoằng
Thao, Trần Hưng Đạo bắt sống Ô Mã Nhi,
đều là ở sông Bạch Đằng và đều là những
võ công lừng lẫy nhất của nước ta. Danh
tiếng các vị hào kiệt ấy đời đời còn mãi với
ngàn thu sông núi. Dấu vết hôi tanh của
giặc Hán và giặc Nguyên cũng còn mãi với
nước non ta, làm sao mà rửa hết được." Ngô Thì Sĩ(Việt sử tiêu án)[4].
Gv giới thiệu về nhân vật Trần Quốc
Toản qua tiểu thuyết lịch sử "Lá cờ thêu
sáu chữ vàng"[7]và hành động bóp nát
quả cam vua ban vì còn nhỏ tuổi không
được tham gia bàn việc đánh giặc, Trần
Quốc Toản đã về nhà may lá cờ thêu sáu
chữ vàng “ Phá cường địch, báo hoàng ân”
tập hợp gia nô trong nhà ra trận đánh giặc.
Chuyển giao nhiệm vụ : Phát vấn học sinh

qua đó cho học sinh thấy tinh thần yêu
nước của thanh niên Việt Nam và từ đó đặt
ngược lại vấn đề tinh thần yêu nước của
học sinh ngày nay được thể hiện như thế
nào.
GV chốt bằng đoạn trích"Lịch sử nước
ta" của Hồ Chí Minh ca ngợi về Trần
Quốc Toản như sau:
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh
nhung
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
GV dùng lược đồ chỉ những nơi diễn ra

Nội dung kiến thức
giữ nước.
- Những thắng lợi tiêu biểu:
Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương
Dương, Vạn Kiếp, Bạch đằng.
+ Lần 1: Đông Bộ Đầu (bên sông
Hồng từ dốc Hàng Than đến dốc
Hóc Mai Ba Đình - Hà Nội)
+ Lần 2: Đẩy lùi quân xâm lược
năm 1285.
Tiêu biểu nhất là trận bạch đằng
năm 1288 đè bẹp ý chí xâm lược
của quân Mông – Nguyên bảo vệ

vững chắc độc lập dân tộc.
+ Nhà Trần có vua hiền, tường
tài, triều đình quyết tâm đoàn kết
nội bộ và đoàn kết nhân dân
chống xâm lược.
+ Nhà Trần vốn được lòng dân
bởi những chính sách kinh tế của
mình  nhân dân đoàn kết xung
quanh triều đình vân mệnh kháng
chiến.

11


Các hoạt động của thầy và trò
Nội dung kiến thức
những trận đánh tiêu biểu có ý nghĩa quyết
định đến thắng lợi của cuộc kháng chiến
lần 1, lần 2, lần 3.
- GV phát vấn: Nguyên nhân nào đưa đến
thắng lợi trong 3 lần kháng chiến chống
Mông – Nguyên?
- HS suy nghĩ và trả lời:
- GV nhận xét, bổ sung, kết luận
+ Nhà Trần có vua hiền, tướng tài, triều
đình quyết tâm đoàn kết nội bộ và đoàn kết
nhân dân chống xâm lược .
+ Nhà Trần vốn được lòng dân bởi những
chính sách kinh tế của mình  nhân dân
đoàn kết xung quanh triều đình vâng mệnh

kháng chiến.
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC MINH
VÀ KHỞI NGHĨA LAM SƠN
Hoạt động 4: Cả lớp, Cá nhân
- Trước hết GV cho HS thấy ở cuối thế kỷ
XIV nhà Trần suy vong. Năm 1400 nhà Hồ
thành lập. Cuộc cải cách nhà Hồ chưa đạt
kết quả thì quân Minh sang xâm lược nước
ta. Nhà Hồ tổ chức kháng chiến nhưng thất
bại. Năm 1407 nước ta rơi vào ách thống - Năm 1407 Cuộc kháng chiến
trị của nhà Minh.
chống quân Minh của nhà Hồ
- Chuyển giao nhiệm vụ :GV yêu cầu HS thất bại, nước ta rơi vào ách
theo dõi SGK để thấy được chính sách tàn thống trị của nhà Minh.
bạo của Nhà Minh và hệ quả tất yếu của
nó.
- HS theo dõi SGK phát biểu.
- GV kết luận: Chính sách bạo ngược của
Nhà Minh tất yếu làm bùng nổ các cuộc
đấu tranh của nhân dân ta… tiêu biểu là
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.
- Năm 1418: Khởi nghĩa Lam
- GV lồng ghép chuyện: Lê Lợi (1385 Sơn bùng nổ Lê Lợi – Nguyễn
1433)
Trãi lãnh đạo.
“Suốt đời, Vua chỉ biết lấy mềm dẻo để
chống cứng rắn, lấy sức yếu để chống giặc - Thắng lợi tiêu biểu:
mạnh, lấy quân ít để thắng kẻ thù đông, + Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ
không quá hao tổn xương máu mà vẫn Lam Sơn (Thanh Hoá) được sự
khuất phục được đối phương. Cho nên, hưởng ứng của nhân dân vùng

Vua đã chuyển vận bĩ sang vận thái, biến giải phóng càng mở rộng từ
12


Các hoạt động của thầy và trò
thế nguy thành sự yên, đổi thời loạn thành
thời thái bình" - Đại Việt sử ký toàn thư
(Bản kỷ, quyển 10 - tờ 76 - a)[4].
- GV lồng ghép chuyện: Nguyễn Trãi
(1380 – 1442)
"Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân
tộc, văn võ song toàn, văn là chính trị,
chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị, ngoại
giao, mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi
thẹn ngàn thu (Bình Ngô Đại cáo), võ là
quân sự: chiến lược và chiến thuật, yếu
đánh mạnh, ít địch nhiều,... thắng hung tàn
bằng đại nghĩa (Bình Ngô Đại cáo); văn
và võ đều là vũ khí, mạnh như vũ bão, sắc
như gươm dao”[4].
Phạm Văn Đồng
Đàm thoại với HS về Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
Gv kể về Hội thề Lũng Nhai là một sự
kiện trong lịch sử Việt Nam, do Lê
Lợi cùng 18 người tổ chức tại Lũng
Nhai vào mùa đông năm 1416: “Phụ đạo
chính thần là Lê Lợi và bọn Lê Lai đến
Trương Chiến 18 người. Tuy họ hàng quê
quán có khác nhau, nhưng kết nghĩa thân
nhau như tổ liền cành, phận vinh hiển có

nhau, nguyện có tính như cùng chung một
họ... Chung sức đồng lòng chống giữ địa
phương để xóm làng được an cư, sống chết
cùng nhau, không quên lời thề son sắt”[2].
- GV dùng lược đồ trình bày về những
thắng lợi tiêu biểu của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn.
- HS theo dõi và ghi chép.
- GV: rút ra vài đặc điểm của khởi nghĩa
Lam Sơn.
- HS suy nghĩ và trả lời.
- GV bổ sung, kết luận.

Nội dung kiến thức
Thanh Hoá vào Nam.
+ Chiến thắng Tốt Động, đẩy
quân Minh vào thế bị động.
+ Chiến thắng Chi Lăng – xương
Giang đập tan 10 vạn quân cứu
viện khiến giặc cùng quẫn tháo
chạy về nước.
- Đặc điểm:
+ Từ một cuộc chiến tranh ở địa
phương phát triển thành cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
+ Suốt từ đầu đến cuối cuộc khởi
nghĩa tư tưởng nhân nghĩa được
đề cao.
+ Có đại bản doanh, căn cứ địa.


C. Hoạt động luyện tập
1. Mục tiêu: Nhằm củng cố, hệ thống hóa và nâng cao kiến thức về
-Đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Tống và khởi nghĩa Lam Sơn.
-Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên.

13


-Hướng dẫn HS lập niên biểu cho cuộc kháng chiến XI – XV.
2. Phương thức
- Chuyển giao nhiệm vụ:Yêu cầu HS:
Lập niên biểu của cuộc kháng chiến XI – XV theo mẫu:
Cuộc kháng
chiến

Thời
gian

Quân xâm
lược

Người chỉ
huy

Trận quyết chiến
chiến lược

- Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: HS điền vào ô trống (trên lớp hoặc ở nhà).
- Báo cáo sản phẩm: báo cáo hoặc GV kiểm tra nếu bài tập được giao về nhà.
- Nhận xét, đánh giá: GV nhận xét đánh giá việc thực hiện bài tập của HS.

3. Dự kiến sản phẩm
- HS Lập niên biểu của cuộc kháng chiến từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau mỗi tiết học được thực hiện, tôi cảm nhận được niềm vui từ học sinh.
Các em rất hào hứng và phấn khởi, tích cực tham gia học tập. Mỗi tiết học Lịch
sử không còn khô khan, nhàm chán với những con số về các mốc lịch sử nữa mà
đã được các em đón nhận một cách thích thú và học tập một cách say mê.
Lồng ghép kể các câu chuyện lịch sử vào trong các tiết học đã tạo cho các
em tính chủ động tìm tòi các câu chuyện lịch sử gắn liền với các nhân vật và các
mốc lịch sử từ đó đã giúp các em ghi nhớ được tốt hơn. Mỗi học sinh cũng ý
thức được nhiệm vụ của mình thông qua những câu chuyện. Các em đã háo hức
đón chờ các câu chuyện cũng như những tiết dạy Lịch sử. Tiết học Lịch sử
không còn khô khan, gượng ép mà các em đã có thể tự mình kể được các câu
chuyện lịch sử với những nhân vật lịch sử, các em đã thể hiện được cái tôi, bản
lĩnh của mình trước đám đông.
Sau khi lồng ghép kể chuyện lịch sử vào giảng dạy bài 19: Những cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ X – XV đã tạo được hứng thú học tập cho
học sinh giúp các em học tập được tốt hơn, điều này được thể hiện qua phiếu
điều tra sau khi dạy học thực nghiệm tại lớp 10A5 (phụ lục).
Kết quả thu được về lí do của giải pháp này, đa số các em học sinh đều
cho rằng khi nghe kể các câu chuyện trong bài học rất là bổ ích, đã làm cho các
em thích thú, các em liên tưởng đến sự hào hùng của các thời kì lịch sử, sự anh
hùng khí phách của các nhân vật lịch sử nước nhà. Các em còn cho rằng nếu nền
điện ảnh của nước ta có điều kiện xây dựng các bộ phim để tái hiện lại các cuộc
kháng chiến của dân tộc ta ở các thế kỉ X- XV thì không hề thua kém mà thậm
chí còn hơn các tác phẩm “Thủy hử” hay “Tam quốc diễn nghĩa” của Trung
Quốc.
14



Sau khi kết thúc bài học trên lớp, tôi tiến hành khảo sát và kiểm tra để
đánh giá chất lượng, đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức, năng lực tìm tòi,
khám phá của các em học sinh ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Tôi tiến
hành dạy thực nghiệm lồng ghép kể chuyện lịch sử vào giảng dạy “bài 19:
Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỉ X – XV”, Lịch sử 10 Cơ bản
đối với lớp 10A5. Còn ở lớp 10A7 tôi không sử dụng lồng ghép kể chuyện vào
giảng dạy. Để kiểm chứng kết quả tôi cho học sinh làm câu hỏi kiểm tra 15 phút.
Kết quả thu được như sau:
Bảng2: Bảng khảo sát học sinh
Lớp



Hứng thú đối với môn học

Không hứng thú đối với môn

số
10A5
10A7

41
41

học
SL
36
13

%

87,80
31,71

SL
5
28

%
12,20
68,29

Bảng 3: Bảng kết quả học tập của học sinh
Lớp

Sĩ số

10A5
10A7

41
41

Loại giỏi
SL
%
11
26,83
2
4,89


Loại khá
SL
%
17
41,46
7
17,07

Loại TB
SL
%
13
31,71
23
56,10

Loại yếu
SL
%
0
0
9
21,94

Nhìn vào bảng thống kê trên cho ta thấy kết quả học tập của học sinh lớp
thực nghiệm 10A5 cao hơn lớp đối chứng 10A7 và số lượng các em yêu thích,
hứng thú đối với môn học đã được tăng lên. Điều đó chứng tỏ tính hiệu quả của
giải pháp.

15



3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc kể chuyện các nhân vật lịch sử trong tiết dạy Lịch sử là điều không
mới đối với một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử, nhưng việc nâng nó lên thành
một kĩ năng và gây hứng thú được cho học sinh trong quá trình học tập lại là vấn
đề không đơn giản. Giáo viên cần phải có cách tiếp cận để làm sao thu hút được
học sinh tạo cho các em hứng thú và chuyên tâm hơn trong học tập môn Lịch sử.
Sau một thời gian giảng dạy bộ môn Lịch sử lớp 10, tôi nhận thấy việc lồng
ghép kể các câu chuyện lịch sử vào trong bài giảng là rất cần thiết và phù hợp.
Khi đưa lồng ghép kể các câu chuyện lịch sử vào bài học thì hiệu quả đã
được phát huy tích cực. Hầu hết các em hứng thú học tập và tạo được niềm đam
mê đối với môn Lịch sử, làm cho môn Lịch sử không còn “khô khan” theo như
suy nghĩ của các em trước đây. Những câu chuyện lịch sử đã giúp cho các em
tưởng tượng thả mình vào những nhân vật lịch sử khi các em tham gia kể
chuyện, từ đó đã giúp các em dễ dàng nắm vững kiến thức bài học.
Khi đề tài được áp dụng tại trường THPT Như Xuân, một ngôi trường
đóng trên địa bàn Miền núi với điều kiện học tập còn nhiều hạn chế, nhưng học
sinh tự tìm tòi, siêu tầm các câu chuyện lịch sử và học tập một cách say mê, tích
cực càng chứng tỏ tính khả thi của đề tài khi được áp dụng ở các trường khác.
Đồng thời cũng có thể áp dụng cho những bài học khác trong chương trình môn
Lịch sử ở phổ thông.
3.2. Kiến nghi và đề xuất
- Để nâng cao được chất lượng giờ học khi thực hiện lồng ghép các câu
chuyện lịch sử thì học sinh cần được trang bị các phương tiện hỗ trợ học tập như
máy tính kết nối mạng internet. Do đó các trường THPT cần có phòng máy tính
để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em trong quá trình học tập.
- Để thực hiện tốt việc lồng ghép thì giáo viên và học sinh cần có lòng
nhiệt tình, say mê tìm tòi, siêu tâm, đồng thời cần có sự đầu tư về thời gian.

- Trong quá trình thực hiện sáng kiến này chắc chắn không tránh khỏi
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến góp ý để tôi hoàn thiện và
nghiên cứu sâu hơn trong thời gian tới
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 30 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của mình
không sao chép nội dung của người khác.
Tác giả

Lê Đình Quang

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. />[2]. />[3]. />[4]. .
[5]. />[6]. Nghị quyết hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI (2013).
[7]. Tiểu thuyết lịch sử "Lá cờ thêu sáu chữ vàng"- Nguyễn Huy Tưởng - NXB
Kim Đồng - Xuất bản năm 1960.

17


18




×