Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tieu luan chinh sach cong phân tích các tiêu chí đánh giá chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.28 KB, 17 trang )

Câu 8.
Phân tích các tiêu chí đánh giá chính sách công? Lựa chọn một chính
sách công mà anh (chị) quan tâm và đánh giá chính sách đó thông qua các
tiêu chí đã phân tích?
1. Phân tích các tiêu chí đánh giá chính sách công
Tiêu chí là thước đo, chuẩn mực đặt ra trong từng điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể, làm công cụ phân tích, đánh giá lựa chọn các phương án và giải pháp
chính sách. Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về các giá trị các kết
quả thực hiện chính sách.
Tiêu chí đánh giá chính sách gồm:
Tính khoa học: Phản ánh chân thực và khoa học quy luật khách quan của
sự vật, vừa phải phù hợp với tổng thể, vừa phải đáp ứng được tính đặc thù của
hệ thống.
Tính khách quan: một số tiêu chuẩn có thể định lượng và một số tiểu
chuẩn không thể định lượng được thì cần công khai chúng khi đánh giá
Tính so sánh: Để so sánh, đánh giá các kết quả của một chính sách hoặc
giữa các chính sách với nhau, cần phải có thước đo chung
Tính phương hướng: Tiêu chuẩn đánh giá phải thể hiện phương hướng cải
cách và phát triển của xã hội. Vì vậy, những tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể phải được
đặt trong sự so sánh với các tiêu chí, chỉ tiêu quốc tế
Tính chuẩn xác: Tiêu chuẩn đánh giá phải phù hợp với thực tế, không
được quá cao, cũng không quá thấp. Phải kết hợp chặt chẽ giữa tính nguyên tắc
và tính linh hoạt, giữa chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính
2. Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp?
Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông
qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước
được hiện thực hóa.
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản:
hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam,
1



lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính
sách, song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được
quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được
khi ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính
sách công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và
đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật
này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận
hành như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện
trong các quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch,
chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao
quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung
ương và chính quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt
ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét,
nhận định không chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính
sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục
tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những
nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một
thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể
chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng
chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà
cuối cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội theo
các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu
mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi
hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục
tiêu đặt ra đến đâu thì dường như không được quan tâm. Đôi khi chính sách

2


được ban hành chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra
những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế
ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp
khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó
một số giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các
hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách
(thông qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ
chức triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân
và sức lực của không ít người, song nhiều khi các chính sách này không đem lại
lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính
sách như một khâu không thể thiếu trong quy trình chính sách.
2.1.Các trở ngại trong đánh giá chính sách công hiện nay
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các
lý do sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được
biểu hiện:
- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được
thể chế hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với
một văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những
chính sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính
sách hỗ trợ người nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính
sách miễn giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo... Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi
có cách nhìn tổng thể.
- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ
đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai

đánh giá.
3


- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với
đánh giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến
diện: hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm
trong khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính
sách bằng cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá
chính sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách
nghiêm túc, bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính
sách hoặc chủ trì tổ chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính
sách vào chương trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của
tình trạng này: do không có đủ nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh
giá, do chính sách được thực hiện rất “bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản
thân các cơ quan này không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban
hành và thực thi... Đương nhiên, việc đánh giá chính sách không chỉ do các cơ
quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua
công luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội. Song sự
đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các cơ quan
nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong không ít trường hợp, sự
đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ
quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và
thực thi chính sách.
Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất
hiện “vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong
một thời gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra
được những “lỗ hổng” của chính sách.
Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi

đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu
chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính
sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số,
4


tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường... Song, trên thực tế đa số các
mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu
không rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra
có thể không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về
nguyên tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính
sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá không toàn diện,
đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ
22% năm 2005 xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 2010. Song, nếu đi vào đánh giá tác động của các chính sách cụ thể tới người
nghèo thì thấy còn rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, Chương trình 135 trong giai
đoạn 2006 - 2010 tuy đã chi hơn 14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị công sức
đóng góp của dân, nhưng đến năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã
được hưởng thụ Chương trình, được “xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh
có số xã còn tỷ lệ nghèo cao, như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên: 50%, Quảng
Bình: 49,34%, Quảng Nam: 48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%.
Thứ năm, đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh
nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi
từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù đánh giá của
các cơ quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất rõ về chính sách
và quá trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể dẫn đến chỗ các
kết quả đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm ra và vận hành
chính sách đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp phải rào cản tâm lý
mạnh mẽ và nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá
chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân

hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công khai. Trong một số trường
hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ các phương
tiện truyền thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thông qua các đoàn thể
chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh
5


đầy đủ và chính xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính
sách được đánh giá.
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan
thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các công việc mới
(nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những
gì đã làm.
2.2. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với
một số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính
sách quan trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi
ích của nhiều người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện
chính sách, tránh các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản
ứng ngược lại với mong muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính
sách và xây dựng lịch trình đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác
định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia, các đối tượng, nội dung, các
phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc đánh giá, công bố công khai
kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối
với những sai sót về nội dung chính sách và những hạn chế, vướng mắc trong
thực thi chính sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng
đắn. Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau.
Thông thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
- Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của

chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn
của Nhà nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục
tiêu đề ra.
- Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả
do chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí - lợi
6


ích thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan
tâm tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ
ngân sách nhà nước.
- Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà
nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ
giúp cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và
người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm
xã hội. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi
phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực
thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
- Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi
từ chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối
cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính
sách công. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn
nhất trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường.
Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người
nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì
từ chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu.
Việc đánh giá tác động này không thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các
cấp chính quyền, mà phải được đo lường bằng mức độ hài lòng của người dân
về các lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá
của người dân, đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Kinh nghiệm thành công của

các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc cung cấp các dịch vụ công thiết
yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những minh chứng có giá trị trong
việc đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính sách.
- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn
trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm
đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn
7


đề của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi
khi mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các
chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác
định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách
thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức
độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên
quan đến các khía cạnh kinh tế - xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải
quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống
bao nhiêu phần trăm, mà còn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo
được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục,
nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của
công dân...
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để
thấy được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách. Việc
đánh giá chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng
các thành công và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến khi các cơ
quan chức năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra.
Các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các
tổ chức quần chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan
tâm theo dõi và tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của

Nhà nước định hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ
tạo cơ sở đề hình thành các đề xuất nhằm tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung chính
sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với
tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước,
song tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách
quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách.
Việc bỏ ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho
8


đánh giá chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành
chính sách trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của
chính sách và bảo đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá
các chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh
giá chính sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống
kinh tế - xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó. Chính sách công phản ánh
rõ nét nhất các mục tiêu của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để
đạt tới các mục tiêu này. Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại
năng lực thể chế và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một môi
trường không ngừng biến đổi, việc đánh giá các chính sách công sẽ tạo cơ sở
vững chắc cho sự phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng
đến một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.

9


Câu 14:

Phân tích những bất cập về chính sách công ở Việt Nam hiện nay?
I. Mở bài
Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông
qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước
được hiện thực hóa.
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản:
hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam,
lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính
sách, song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được
quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được
khi ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính
sách công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và
đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật
này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận
hành như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện
trong các quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch,
chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao
quát việc xem xét về tổng thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung
ương và chính quyền địa phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt
ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét,
nhận định không chỉ về nội dung chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính
sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục
tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những
nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một
10



thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể
chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng
chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà
cuối cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế - xã hội theo
các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu
mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi
hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục
tiêu đặt ra đến đâu thì dường như không được quan tâm. Đôi khi chính sách
được ban hành chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra
những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế
ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp
khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó
một số giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các
hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách
(thông qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ
chức triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân
và sức lực của không ít người, song nhiều khi các chính sách này không đem lại
lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính
sách như một khâu không thể thiếu trong quy trình chính sách.
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các
lý do sau đây:
1. Nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được biểu hiện:
- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được
thể chế hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với
một văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những
chính sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính
sách hỗ trợ người nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính
11



sách miễn giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí
cho người nghèo... Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi
có cách nhìn tổng thể.
- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ
đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai
đánh giá.
- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với
đánh giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến
diện: hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm
trong khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính
sách bằng cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
2. Các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá
chính sách.
Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc,
bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ
trì tổ chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào
chương trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của tình
trạng này: do không có đủ nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh giá,
do chính sách được thực hiện rất “bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản
thân các cơ quan này không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban
hành và thực thi... Đương nhiên, việc đánh giá chính sách không chỉ do các cơ
quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua
công luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội. Song sự
đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các cơ quan
nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong không ít trường hợp, sự
đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ
quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động đến các nhà hoạch định và
thực thi chính sách.

12


3 Việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện.
Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một thời
gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được
những “lỗ hổng” của chính sách.
4. Thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học.
Khi đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với
mục tiêu chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục
tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia
tăng dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường... Song, trên thực
tế đa số các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi
mục tiêu không rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục
tiêu đề ra có thể không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá
chính sách, về nguyên tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với
từng loại chính sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá
không toàn diện, đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính
sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc
giảm tỷ lệ nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn
nghèo giai đoạn 2006 - 2010. Song, nếu đi vào đánh giá tác động của các chính
sách cụ thể tới người nghèo thì thấy còn rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, Chương
trình 135 trong giai đoạn 2006 - 2010 tuy đã chi hơn 14.000 tỉ đồng, chưa tính
đến giá trị công sức đóng góp của dân, nhưng đến năm 2010, mới chỉ có 113 xã,
chiếm 6% số xã được hưởng thụ Chương trình, được “xóa tên” khỏi diện nghèo.
Ở một số tỉnh có số xã còn tỷ lệ nghèo cao, như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên:
50%, Quảng Bình: 49,34%, Quảng Nam: 48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%.
5. Đánh giá chính sách đôi khi mang tính một chiều
Chỉ phản ánh nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ
mức đến sự phản hồi từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào.

13


Mặc dù đánh giá của các cơ quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ
nắm rất rõ về chính sách và quá trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này
có thể dẫn đến chỗ các kết quả đánh giá chịu sự chi phối của chính những người
làm ra và vận hành chính sách đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp
phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì
vậy, khi đánh giá chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến
phản hồi từ nhân dân hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công khai.
Trong một số trường hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản
hồi từ các phương tiện truyền thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thông
qua các đoàn thể chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này
cũng phản ánh đầy đủ và chính xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên
quan đến chính sách được đánh giá.
6. Thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách.
Các cơ quan thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các
công việc mới (nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem
xét lại những gì đã làm.
II. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
1. Đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với
một số chính sách quan trọng của Nhà nước.
Cần nhận thức rõ, những chính sách quan trọng, liên quan đến những vấn
đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi ích của nhiều người thì việc đánh giá
chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện chính sách, tránh các rủi ro hay lãng phí
xảy ra, đặc biệt là tránh những phản ứng ngược lại với mong muốn của Chính
phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính sách và xây dựng lịch trình đánh giá cụ
thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham
gia, các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết
việc đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết. Tổ chức

rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với những sai sót về nội dung chính sách và
những hạn chế, vướng mắc trong thực thi chính sách.
14


2. Xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng đắn.
Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau.
Thông thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
- Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của
chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn
của Nhà nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục
tiêu đề ra.
- Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả
do chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí - lợi
ích thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan
tâm tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ
ngân sách nhà nước.
- Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà
nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ
giúp cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và
người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm
xã hội. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi
phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực
thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
- Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi
từ chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối
cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính
sách công. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn
nhất trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường.
Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người

nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì
từ chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu.
15


Việc đánh giá tác động này không thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các
cấp chính quyền, mà phải được đo lường bằng mức độ hài lòng của người dân
về các lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá
của người dân, đối tượng hưởng lợi từ chính sách. Kinh nghiệm thành công của
các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách hàng về việc cung cấp các dịch vụ công thiết
yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng là những minh chứng có giá trị trong
việc đánh giá mức độ hưởng lợi của các đối tượng chính sách.
- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn
trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm
đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn
đề của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi
khi mục tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các
chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác
định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách
thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức
độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên
quan đến các khía cạnh kinh tế - xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải
quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống
bao nhiêu phần trăm, mà còn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo
được tiếp cận như thế nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục,
nước sạch; việc tạo điều kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của
công dân...
3. Quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để
thấy được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách.

Việc đánh giá chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được
thực trạng các thành công và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến
khi các cơ quan chức năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới
bộc lộ ra. Các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng
16


góp của các tổ chức quần chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách.
Việc quan tâm theo dõi và tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan
chức năng của Nhà nước định hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói
trên cũng sẽ tạo cơ sở đề hình thành các đề xuất nhằm tiếp tục hoàn chỉnh, bổ
sung chính sách.
4. Tổ chức nhóm đánh giá độc lập
Gồm các thành viên hoạt động với tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ
cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song tất cả các thành viên sẽ thực hiện
việc đánh giá một cách độc lập, khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể
của nhóm.
5. Dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách.
Việc bỏ ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó
cho đánh giá chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận
hành chính sách trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của
chính sách và bảo đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá
các chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh
giá chính sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống
kinh tế - xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó. Chính sách công phản ánh
rõ nét nhất các mục tiêu của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để
đạt tới các mục tiêu này. Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại
năng lực thể chế và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một môi
trường không ngừng biến đổi, việc đánh giá các chính sách công sẽ tạo cơ sở

vững chắc cho sự phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng
đến một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.

17



×