Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc xây dựng giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.79 KB, 7 trang )

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VỚI VIỆC
XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Khánh Vân*
TÓM TẮT
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống kinh
tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Đứng trước bối cảnh đó, các nước trên thế giới đều đã có
những bước đi đầu tiên nhằm thích ứng và tận dụng cuộc cách mạng này. Việt Nam đang trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm
cho nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đó là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện
tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều
đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần nhạy bén, nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, điều chỉnh chiến lược và cách thức xây dựng giai cấp công nhân sao cho phù hợp, để giai
cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bài nghiên cứu giới thiệu khái quát về cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư; tầm quan trọng của chiến lược xây dựng giai cấp công nhân; thực trạng giai cấp
công nhân Việt Nam và đề xuất một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong bối
cảnh của cuộc CMCN 4.0.
Từ khóa: Xây dựng, giai cấp công nhân, cách mạng công nghiệp

THE FOURTH INDUSTRIAL NETWORK WITH THE ESTABLISHMENT
OF WORKERS GRANT IN VIETNAM TODAY
ABSTRACT
The fourth industrial revolution has had a strong and comprehensive impact on the socioeconomic life of countries around the world. Facing that context, all countries in the world have taken
the first steps to adapt and take advantage of this revolution. Vietnam is in the process of stepping up
industrialization and modernization, “striving to soon turn our country basically into an industrialized
country towards modernization.” Successfully implementing the goal of industrialization and
modernization makes our country a modernized industrialized country, which is the responsibility


of the entire Party and people and the working class is the core. The growth of the working class is
a prerequisite to ensure the success of the country’s renewal, industrialization and modernization,
which requires the Party and the State to be alert and seize opportunities. Meeting of the Fourth
Industrial Revolution, adjusting strategies and ways to build the working class appropriately, so
that the working class can promote the role and responsibility of the leading force in the process of
pushing. strong industrialization and modernization of the country. The paper presents an overview
of the fourth industrial revolution; the importance of working-class construction strategy; current
situation of Vietnamese working class and propose some solutions to build Vietnamese working class
in the context of the 4.0 industrial revolution.
Keywords: Construction, working class, industrial revolution
*

TS. GV. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
142


Cách mạng công nghiệp...
1. KHÁI QUÁT VỀ CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP LẦN THỨ TƯ (CMCN 4.0)
Sự phát triển của lịch sử nhân loại đã diễn
ra nhiều cuộc cách mạng, các cuộc cách mạng
xã hội nổ ra đã làm thay đổi căn bản về chất
trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội,
là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội
mới ở trình độ phát triển cao hơn. Còn nói đến
cuộc cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay
đổi “về chất” của sự phát triển, tác động mạnh
đến đời sống kinh tế, xã hội của loài người. Tạo
ra hàng loạt những thay đổi sâu sắc trong toàn
bộ các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội.

Tính đến nay, sự phát triển của lịch sử
nhân loại đã và đang trải qua 4 cuộc cách mạng
công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu
tiên được châm ngòi từ Anh, khởi đầu từ năm
1760 đến khoảng năm 1840, với việc xây dựng
các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ
hơi nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Nước
Anh là quốc gia đi tiên phong trong cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất, đã trở thành
“công xưởng của thế giới”.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai,
nổ ra tại Mỹ, được bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, với sự xuất hiện của sản xuất
hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện
và dây truyền lắp ráp. Mở ra kỷ nguyên sản xuất
hàng loạt.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
ba bắt đầu vào những năm thập niên 1960 và
thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính
hay cách mạng số vì nó được xúc tác bởi sự
phát triển của chất bán dẫn, siên máy tính (thập
niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và
1980) và Internet (thập niên 1990)
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
khởi nguồn từ Đức vào những năm đầu thế kỷ
XXI. Khái niệm Industry 4.0 hay là cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) lần
đầu tiên được đề cập trong bản kế hoạch hành

động chiến lược công nghệ cao được Chính phủ
CHLB Đức thông qua vào năm 2012.
Theo GS.Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn
đàn Kinh tế Thế giới ( WEF), Industry 4.0 hay
là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (
CMCN 4.0), là một thuật ngữ bao gồm một loạt
các công nghệ tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ
liệu và chế tạo. CMCN 4.0 được định nghĩa là

“một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái
niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với
các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet
của vạn vật và Internet của các dịch vụ. CMCN
4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các
nhà máy thông minh. Trong các nhà máy thông
minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ
giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao
ảo của thế giới vật lý. Với Internet của vạn vật,
các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác
với nhau và với con người theo thời gian thực,
và thông qua Internet của các dịch vụ thì người
dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông
qua việc sử dụng các dịch vụ này. Bản chất của
CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và
tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối
ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn
mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động
lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hóa, người máy,…

Như vậy, có thể thấy, CMCN 4.0 về cơ
bản khác với ba cuộc cách mạng công nghiệp
trước đó, bởi lẽ, CMCN 4.0 không chỉ là về các
máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối,
mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đó là
các làn sóng của những đột phá xa hơn trong
các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho
tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo
tới tính toán lượng tử. CMCN 4.0 là sự dung
hợp của các công nghệ này và sự tương tác của
chúng trên các lĩnh vực vật lý, số và sinh học.
CMCN 4.0 đang tạo ra và được kỳ vọng sẽ tạo
ra các lợi ích hết sức to lớn. CMCN 4.0 sẽ giúp
sản xuất phát triển mạnh mẽ, năng suất lao động
tăng cao, mức thu nhập toàn cầu tăng. Các sản
phẩm và dịch vụ mới do CMCN 4.0 tạo ra làm
cho cuộc sống của con người trở nên thuận lợi
hơn và năng suất hơn. CMCN 4.0 đã và đang
ảnh hưởng sâu rộng đến phát triển kinh tế, xã
hội, chính trị và địa lý… của các nước trên thế
giới. Cuộc CMCN 4.0 đang tác động sâu sắc
vào sản xuẩt, vào quản lý và đời sống xã hội nói
chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất,
phương thức lao động của công nhân, lao động
bằng trí óc, bằng năng lực trí tuệ, bằng sức sáng
tạo sẽ ngày càng tăng lên, lao động giản đơn,
cơ bắp trong truyền thống sẽ giảm dần bởi sự hỗ
trợ của máy móc, của công nghệ hiện đại, trong
đó có vai trò của công nghệ thông tin. Chính vì
cơ hội và lợi ích to lớn mà CMCN 4.0 mang lại,

nhiều nước trên thế giới đã căn cứ vào trình độ
143


Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tảng và nòng cốt đã trở thành cơ sở xã hội rộng
lớn và bền vững của Đảng, của cách mạng nước
ta. Sức sống, sức chiến đấu và năng lực hành
động của Đảng cách mạng tùy thuộc trước hết
vào sức mạnh của giai cấp công nhân - đây là
cơ sở xã hội quan trọng và trực tiếp nhất làm
cho Đảng vững mạnh. Đây cũng là chỗ dựa tin
cậy, để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, chẳng
những thế, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân
còn là chỗ dựa tin cậy để củng cố khối liên minh
giai cấp và đoàn kết xã hội trong toàn thể cộng
đồng dân tộc. Từ sứ mệnh lịch sử của mình, giai
cấp công nhân lớn mạnh không chỉ vì bản thân
nó, mà sâu xa, căn bản hơn là vì sự vững mạnh,
trong sạch của Đảng, vì thắng lợi của cách mạng
và xây dựng thành công CNXH ở nước ta. Xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cùng với sự
lớn mạnh của công đoàn- tổ chức chính trị- xã
hội của công nhân và lao động nước ta còn góp
phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
XHCN, thúc đẩy đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng nền
dân chủ và Nhà nước pháp quyền. Đó là sự vững
mạnh của chế độ chính trị, là đảm bảo chính trị
cho tiến trình đổi mới kinh tế, phát triển mạnh

mẽ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của
nước ta. Ý nghĩa và tầm quan trọng chiến lược
của việc xây dựng giai cấp công nhân nước ta là
ở đó. Mặt khác, hiện nay, nước ta đang thực hiện
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu sớm
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Bài toán kinh tế xã hội này
sẽ tìm thấy lời giải ở đâu, nếu không phải là ra
sức xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về
lượng và chất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập, chẳng những thế còn
phải vươn tới trình độ phát triển của kinh tế tri
thức trong kỷ nguyên xã hội thông tin và cách
mạng khoa học công nghệ.
Giai cấp công nhân lớn mạnh và vững
mạnh về mọi mặt là nguồn nhân lực quan trọng
nhất trong cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta.
Đó cũng là nguồn vốn xã hội hàng đầu để phát
triển kinh tế và văn hóa, đưa nước ta tiến tới văn
minh, hiện đại.
Nói riêng về giai cấp công nhân, giai
cấp công nhân nước ta hiện đang có mặt trong
mọi thành phần kinh tế, mọi khu vực kinh tế. Với
gần 9 triệu công nhân và lao động trong tổng số
dân 87 triệu người, rõ ràng số lượng công nhân,
nhất là công nhân trí thức, làm chủ KH- CN hiện

phát triển, thực tiễn của quốc gia, mà có nhận
thức và đối sách khác nhau đối với CMCN

4.0, nhanh chóng nắm bắt cơ hội, triển khai
nhiều chương trình, chiến lược để thực hiện
CMCN 4.0.
2. XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN
LỚN MẠNH CẢ VỀ SỐ LƯỢNG VÀ
CHẤT LƯỢNG TRƯỚC BỐI CẢNH
CUỘC CMCN 4.0 - VẤN ĐỀ CÓ TẦM
QUAN TRỌNG CHIẾN LƯỢC CỦA CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
Kể từ khi ra đời cho đến nay Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc ta làm nên
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, năm 1945,
đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến, giành lại
nền độc lập tự do của Tổ quốc, hoàn thành cách
mạng giải phóng dân tộc, từng bước quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN và ngày nay đang
đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đây là quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam trong thời đại mới. Đây cũng là thể
hiện trọng trách lãnh đạo cầm quyền của Đảng
ta. Đồng thời, cũng là sự thể hiện tập trung nhất
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam - trước đây cũng như hiện nay và mai sau.
Trong tiến trình lịch sử ấy, giai cấp công nhân
nước ta luôn luôn là giai cấp tiên phong cách
mạng. Là đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của dân tộc, Đảng là

đại biểu chân chính cho lợi ích của giai cấp, của
nhân dân và của cả dân tộc. Sở dĩ Đảng ta trở
thành Đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh
nghiệm đấu tranh cách mạng, có bản lĩnh chính
trị vững vàng đủ sức vượt qua mọi thử thách từ
trước đến nay vì Đảng mang bản chất giai cấp
công nhân, gắn bó máu thịt với nhân dân, kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin và trung thành với
chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công
nhân.Tính triệt để cách mạng, tính tiền phong
chiến đấu của giai cấp công nhân và sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại được thể hiện đậm
nét và nhất quán trong bản chất Đảng, trong sức
mạnh tổ chức và hành động của Đảng. Chính
giai cấp công nhân, khối liên minh công - nông
trước đây và liên minh công - nông - trí thức hiện
nay gắn liền mật thiết với việc không ngừng mở
rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân,
trong đó liên minh công - nông - trí thức là nền
144


Cách mạng công nghiệp...
nhân ở nước ta hiện nay, cần đặc biệt chú ý tạo
động lực cho sự phát triển giai cấp công nhân,
nhất là thế hệ công nhân và lao động trẻ. Động
lực đó được hình thành và nuôi dưỡng từ phía
nhà nước và xã hội với những nguồn đầu tư đủ
mạnh để phát triển sản xuất, cải thiện điều kiện

lao động, môi trường lao động và sinh sống, đào
tạo và bồi dưỡng nghề chuyên môn, tôn vinh
nghề thợ và người thợ… Mặt khác, động lực ấy
còn tự sản sinh trong giai cấp công nhân, trong
đội ngũ công nhân, ở trong từng doanh nghiệp,
công ty, từng cộng đồng, tập thể và cá nhân.
Đó chính là nội lực và nội sinh trong phát triển.
Công bằng về cơ hội phát triển và chính sách
tạo động lực phát triển giai cấp công nhân - đó
là một trong những vấn đề đáng phải quan tâm
giải quyết trong lãnh đạo của Đảng và quản lý
của nhà nước ta hiện nay đối với công nhân và
lao động, đối với công đoàn và phong trào công
đoàn, không chỉ đối với thành phần kinh tế nhà
nước và tập thể, mà còn đối với kinh tế tư nhân,
kinh tế có vốn đầu tư của tư bản nước ngoài.
Vấn đề là ở chỗ, phải có những nhận thức mới
về công nhân, giai cấp công nhân và tổ chức
công đoàn, đồng thời bản thân công nhân và lao
động cũng phải tự nhận thức, tự đổi mới chính
mình, chủ động và tích cực nhập cuộc trong đổi
mới, vươn tới hội nhập quốc tế. Cùng với đổi
mới nhận thức và giáo dục nhận thức mới, cần
có chính sách và cơ chế tác động đồng thời vào
ý thức và dư luận xã hội, vào doanh nghiệp và
doanh nhân, vào công nhân và công đoàn, nói
rộng ra là vào đời sống xã hội, vào hoạt động
sản xuất - kinh doanh và cả hệ thống chính trị.
Những tác động đó phải cùng chiều, kết hợp với
sự đồng bộ của các giải pháp, tạo ra những nỗ

lực đồng thuận của cả xã hội cùng hướng vào
xây dựng và phát triển giai cấp công nhân; coi
công nhân là chủ thể của quá trình phát triển,
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH. Họ cũng là đối tượng quan tâm của
Nhà nước và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế để có thể được thụ hưởng lợi ích một cách
chính đáng, công bằng, tương xứng với những
đóng góp và cống hiến của họ. Trong xã hội
đang đổi mới, đang từng bước chuyển thành xã
hội công nghiệp, đang theo đuổi những giá trị
mục tiêu công bằng -dân chủ -văn minh, hơn ai
hết, mỗi công nhân - phải tiếp cận được cơ hội
và các điều kiện phát triển, cảm nhận được từ
thực tế những triển vọng phát triển của mình qua
các chỉ số về việc làm, đời sống, tiền lương, tiền

đại còn quá ít. Vì vậy, phát triển nhanh số lượng
công nhân và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng nghề, chú trọng đội ngũ công nhân trí
thức trẻ, giàu năng lực sáng tạo đã trở thành một
đòi hỏi hết sức bức xúc. Không đảm bảo chất
lượng cao đối với công nhân, không thể làm cho
kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng
với kinh tế tập thể thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân. Trong khu vực kinh tế tư nhân và
kinh tế tư bản nước ngoài, nếu công nhân không
đảm bảo về chất lượng, tay nghề, chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng sản xuất và kỷ luật lao động
thì chẳng những không gia tăng sự phát triển

vốn rất cần thiết ở những khu vực, thành phần
này mà còn làm thiệt hại ngay đến quyền lợi của
chính công nhân và lao động. Tổ chức Đảng,
các tổ chức đoàn thể chính trị -xã hội của công
nhân, lao động ở đây lại đang rất yếu kém, thậm
chí nhiều nơi chưa hình thành, đời sống văn hóa
tinh thần của công nhân, lao động lại càng hạn
chế. Các vụ việc đình công, bãi công, những
mâu thuẫn, xung đột giữa chủ và thợ vẫn thường
xảy ra, theo chiều hướng gia tăng mà lý do nổi
bật và chủ yếu là ở chỗ, những lợi ích và quyền
của họ bị vi phạm, bị xâm phạm. Tình hình đó
càng cho thấy, xây dựng giai cấp công nhân, có
chiến lược phát triển giai cấp công nhân, hoạch
định và thực thi chính sách quốc gia đối với
công nhân và lao động theo tinh thần NQTW
6, khóa X càng là một đòi hỏi rất cấp thiết hiện
nay. Đây thực sự là vấn đề ở tầm chiến lược,
một trong những vấn đề cốt yếu trong lãnh đạo
chính trị của Đảng với tư cách Đảng Cộng sản
cầm quyền.
3. XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM HIỆN NAY – VẤN ĐỀ VÀ GIẢI
PHÁP, CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
Trước hết, cần nhận rõ hiện trạng giai
cấp công nhân ở nước ta trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, nhất là trong bối cảnh
của cuộc CMCN 4.0.Từ hiện trạng này có thể
thấy mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển của xã
hội hiện đại đang đặt ra với những hạn chế, bất

cập của giai cấp công nhân, mâu thuẫn giữa nhu
cầu về việc làm, đời sống, nâng cao mức sống về
vật chất cũng như chất lượng cuộc sống về văn
hóa, tinh thần của công nhân và lao động với
những lạc hậu, yếu kém của thể chế, cơ chế và
chính sách trong quản lý. Do đó, trong rất nhiều
vấn đề, cả bức xúc trước mắt, lẫn cơ bản và lâu
dài cần phải tập trung giải quyết bằng những
nguồn lực khác nhau để xây dựng giai cấp công
145


Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trong môi trường công nghiệp nhưng thực chất
lại chưa phải là công nhân theo đúng nghĩa của
nó. Cả về trình độ học vấn, kỹ thuật, tay nghề,
tâm lý, lối sống, họ vẫn mang đậm nét nông dân
sản xuất nhỏ. Công nhân nước ta đa số xuất thân
từ nông dân. Do đó việc đào tạo nghề và nâng
cao chất lượng nghề trở thành một vấn đề lớn,
nổi bật đối với công nhân và lao động ở nước ta
hiện nay. Chất lượng đội ngũ công nhân là vấn
đề hàng đầu. Phải đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
này sao cho họ có đủ năng lực, nhất là năng lực
ứng dụng và sáng tạo công nghệ; thích ứng với
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đó là con
đường cơ bản để công nhân giỏi nghề, thạo việc,
làm việc có năng suất - chất lượng - hiệu quả, từ
đó mới có tiền lương xứng đáng, mới có cuộc
sống vật chất - tinh thần đảm bảo, có triển vọng

nghề nghiệp và vị thế xã hội. Trong xã hội công
nghiệp và hiện đại, công nhân có trình độ công
nghệ cao, công nhân trí thức, sáng tạo sẽ có vai
trò ngày càng lớn chứ không phải công nhân lao
động giản đơn, chân tay, cơ bắp. Họ mới là nòng
cốt, trong cơ cấu giai cấp công nhân và thể hiện
trực tiếp vai trò, sứ mệnh lịch sử giai cấp công
nhân trong thế kỷ XXI. Đây là điều rất hệ trọng
đối với tương lai của giai cấp công nhân và lao
động ở nước ta, nó sẽ gắn liền với vai trò, sứ
mệnh của Đảng, sự bền vững của chế độ ta mà
Đảng và Nhà nước phải đặc biệt quan tâm.
Thứ ba, công đoàn là tổ chức chính trị
-xã hội của công nhân và lao động, là một thành
viên quan trọng của hệ thống chính trị. Dù đã
có nhiều nỗ lực để đổi mới tổ chức, nội dung và
phương thức hoạt động nhưng công đoàn vẫn
còn không ít hạn chế, chưa có đựơc vị trí và vai
trò xứng đáng trong các doanh nghiệp, trong
quan hệ với các chủ doanh nghiệp, các giám đốc
công ty, tổng công ty, nhất là trong khu vực kinh
tế tư nhân và tư bản nước ngoài. Do đó, công
đoàn chưa làm tốt chức năng bảo vệ lợi ích cho
công nhân và lao động, đó là chưa nói đến chức
năng giáo dục chính trị, tư tưởng và tổ chức đời
sống văn hóa tinh thần cho công nhân và lao
động, nhất là quan tâm tới đời sống, sự tiến bộ
và bình đẳng giới cho nữ công nhân và lao động.
Sự phụ thuộc, lệ thuộc và chính quyền,
tính hình thức và hành chính trong hoạt động đã

làm cho công đoàn ít tác dụng, không lôi cuốn
được công nhân và lao động mà lẽ ra công đoàn
phải thực sự là chỗ dựa tin cậy và gắn bó của
bản thân họ.
Thứ tư, các tổ chức Đảng, các cấp ủy

thưởng, nghề - nghiệp tại nơi làm việc. Được
như vậy, những cố gắng của xã hội kết hợp được
với những nỗ lực, chủ động, sáng tạo của công
nhân sẽ tạo ra sự phát triển tích cực của giai cấp
công nhân cả về số lượng, cơ cấu, trình độ, chất
lượng. Nhờ đó giai cấp công nhân và các tổ chức
công đoàn có đóng góp xứng đáng vào phát triển
và tiến bộ xã hội, tự khẳng định mình với tư
cách là giai cấp cách mạng.
Từ quan niệm chung nêu trên, cần phải
làm rõ một số vấn đề nổi bật về thực trạng giai
cấp công nhân và phong trào công đoàn ở nước
ta hiện nay:
Thứ nhất, việc làm và đời sống của
công nhân ở nước ta, dù đã được cải thiện đáng
kể qua 30 năm đổi mới, nhưng vẫn là vấn đề bức
xúc nhất hiện nay, nhất là bộ phận công nhân lao
động chân tay, cơ bắp, chưa qua đào tạo chuyên
môn và công nhân làm thuê trong các doanh
nghiệp của tư bản nước ngoài. Cường độ lao
động của họ rất căng thẳng, tiền lương không đủ
sống. Môi trường lao động chưa được cải thiện.
Tiếng ồn, nồng độ bụi, khí thải công nghiệp…
đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe công

nhân. Công nhân lao động làm thuê trong các
doanh nghiệp tư bản nước ngoài hầu như không
có nhà ở. Họ phải tự thuê nhà ở trọ trong điều
kiện chật chội, mất vệ sinh và quản lý an ninh
trật tự yếu kém nên đã diễn ra rất nhiều vấn đề
xã hội phức tạp nhức nhối. Lao động căng thẳng,
gần như kiệt sức nên sau một ngày lao động, họ
dường như không còn biết gì đến nhu cầu văn
hóa tinh thần. Ở nhiều nơi, công nhân còn bị
ràng buộc bởi những quy định khắt khe, vô lý,
thậm chí bị trừ lương, đuổi việc, làm thêm giờ,
hợp đồng lao động không được tôn trọng từ phía
người sử dụng lao động. Không ít công nhân nữ
còn bị xúc phạm về nhân phẩm. Đa số các vụ
đình công, bãi công tự phát của công nhân liên
tiếp xảy ra và gia tăng đều xoay quanh vấn đề
tiền lương, tiền thưởng, giờ lao động kéo dài và
không đảm bảo điều kiện lao động, sinh sống.
Đây là vấn đề nhức nhối mà Nhà nước và các tổ
chức công đoàn phải có trách nhiệm bảo vệ họ.
Thứ hai, do nước ta vẫn còn là một
nước nông nghiệp, đa số lao động là nông dân
làm nông nghiệp nên giai cấp công nhân nước
ta so với dân số và tổng lực lượng lao động xã
hội vẫn còn nhỏ bé. Việc đẩy mạnh CNH, HĐH
đòi hỏi phải phát triển nhanh số lượng trong
giai cấp công nhân. Trên thực tế, một phần lớn
lao động tuy gọi là công nhân vì họ đã làm việc
146



Cách mạng công nghiệp...
cùng với cả xã hội phải gánh chịu trách nhiệm
này. Quản lý xã hội cũng không thể không quan
tâm giải quyết vấn đề xã hội rất trái tự nhiên này.
Từ 5 tình huống có vấn đề nêu trên, cần phải
nhận thức và hành động như thế nào về chính
sách với công nhân và tiến tới có một chiến lược
xây dựng, phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam theo tinh thần NQTW 6, khóa X của Đảng,
trước bối cảnh của cuộc CMCN 4.0.
Dưới đây là một số đề xuất và kiến nghị
bước đầu đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ nhất, tạo chuyển biến nhận thức
từ trong Đảng đến ngoài xã hội để có sự quan
tâm chung đối với công nhân, coi đây là nguồn
nhân lực chủ yếu, trọng yếu quyết định thành
công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Giáo
dục ý thức giai cấp trong công nhân, nhất là đối
với thế hệ công nhân trẻ. Đặt vấn đề này một
cách đúng mức trong giáo dục lý luận chính trị
của Đảng, trong xây dựng Đảng về chính trị để
giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Giác ngộ về ý thức giai cấp, tình cảm và niềm tự
hào giai cấp là cơ sở để hình thành bản lĩnh giai
cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử giai
cấp công nhân. Phương diện chính trị tư tưởng
này phải được đặc biệt coi trọng trong xây dựng
và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam cả về
số lượng và chất lượng. Đây là việc cơ bản và

lâu dài.
Thứ hai, thực hiện nghiêm chỉnh các
giải pháp mà Đảng đã đề ra trong NQTW 6 khóa
X về giai cấp công nhân. Trong đó, cần phải tập
trung sửa đổi, ban hành chính sách quốc gia
đối với công nhân và lao động. Cấp thiết nhất
lúc này là đảm bảo việc làm ổn định, xây dựng
và thực hiện thang bậc lương, mức lương, mức
thưởng cho công nhân, đảm bảo cho công nhân
và gia đình họ có đời sống no đủ, con em họ
không thất học, bỏ học vì nghèo khổ. Nhà nước
phải đặc biệt quy định về chính sách và chế tài
để các chủ doanh nghiệp tư nhân phải trả lương
cho lao động mà họ sử dụng sao cho lợi ích
hợp pháp chính dáng của công nhân không bị
vi phạm, đảm bảo ổn định và an toàn cho cuộc
sống, thân thể, sức khỏe của họ. Giải quyết nhà
ở và an toàn lao động cho công nhân bằng các
quy định về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội.
Trong các giải pháp về giai cấp công
nhân mà NQTW 6 khóa X đề ra, cần phải chú
trọng mở mang và phát triển giáo dục chuyên
nghiệp, dạy nghề, đào tạo nghề cho công nhân
bằng nhiều hình thức và mô hình. Có hệ thống

cũng chưa thường xuyên quan tâm và đầu tư
đúng mức để chăm lo phát triển giai cấp công
nhân và phong trào công đoàn. Đi vào kinh tế
thị trường, nhiều khi chúng ta đã chỉ thấy lợi
ích kinh tế, quan tâm tới kinh doanh, mức tăng

trưởng kinh tế và lợi nhuận mà đã buông lỏng,
xem nhẹ giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức,
văn hóa. Nó dẫn đến nhiều hiện tượng lệch lạc,
tiêu cực về mặt xã hội, trong các quan hệ xã hội,
kể cả những lệch lạc tiêu cực trong công nhân,
nhất là công nhân trẻ, cả trong khu vực kinh
tế Nhà nước và trong khu vực kinh tế tư nhân.
Yếu kém và sơ hở này phải được nhanh chóng
khắc phục. Chính sách, cơ chế, luật pháp của
nhà nước lại chậm thay đổi và không ít trường
hợp cũng không nhất quán. Do đó, việc chăm lo
tới lợi ích, thực hiện công bằng xã hội cho công
nhân, bảo vệ lợi ích và tạo động lực cho họ phát
triển đã không được đảm bảo thường xuyên,
còn nhiều thiết hụt và bất cập. Trong vấn đề này,
cần phải tạo ra được chuyển biến căn bản để
cải thiện đời sống công nhân, nhất là công nhân
trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Không nên quên rằng, đình công, bãi công lan
rộng của công nhân chẳng những ảnh hưởng
tới sản xuất- kinh doanh mà còn dẫn tới mất ổn
định xã hội và chính trị, gây bất lợi cho đổi mới
và phát triển. Đảng, Nhà nước, công đoàn phải
nhanh chóng có giải pháp, nhất là xác lập trách
nhiệm rõ ràng, có cơ chế, chế tài minh bạch giữa
các bên theo hợp đồng lao động, theo luật đầu
tư, luật doanh nghiệp, luật lao động và luật công
đoàn. Phải đảm bảo về quyền và lợi ích của công
nhân trong khi vẫn đẩy mạnh thu hút đầu tư và
tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài làm

ăn, kinh doanh ở Việt Nam. Vấn đề là ở chỗ,
phải tuân thủ đúng luật pháp, thực hiện dân chủ,
công bằng, bình đẳng, giải quyết đúng đắn các
quan hệ lợi ích giữa các bên.
Thứ năm, do những sự quan tâm tới
công nhân không đúng mức nên ở nước ta đang
có những biểu hiện lệch lạc về cơ cấu xã hội, dẫn
đến tình trạng “nhiều thầy ít thợ”, đã và đang
mất đi một truyền thống quy báu là gia đình
công nhân truyền thống nhiều đời. Các thợ giỏi,
các “bàn tay vàng” trong đội ngũ công nhân đã
bị mai một nghiêm trọng. Thế hệ trẻ chỉ thấy
triển vọng lập thân lập nghiệp bằng cách vào
Đại học. Các bậc làm cha mẹ, kể cả cha mẹ làm
công nhân cũng không muốn cho con em mình
theo đuổi nghề thợ, làm thợ. Nền giáo dục nước
ta vốn lạc hậu và suy thoái nghiêm trọng, kéo dài
147


Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đoàn, làm cho công đoàn có sức sống, hấp dẫn,
lôi cuốn công nhân tham gia quản lý và tự quản
lý tại cơ sở nơi làm việc.
Thứ sáu, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn về công nhân và công đoàn,
đặc biệt ở các thành phố lớn.
4. KẾT LUẬN
Cuộc CMCN 4.0 đang tác động sâu sắc
vào sản xuẩt, vào quản lý và đời sống xã hội nói

chung, đang đòi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất,
phương thức lao động của công nhân. Trong môi
trường kinh tế - xã hội đổi mới, trong đà phát
triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, giai cấp công
nhân Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển
và những thách thức, nguy cơ trong phát triển.
Do vậy, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0 trở thành
vấn đề hệ trọng đối với phát triển nhanh và bền
vững ở nước ta. 5 giải pháp lớn, chủ yếu nêu
trên có ý nghĩa là những nhóm giải pháp nhằm
vào xây dựng và phát triển giai cấp công nhân ở
nước ta, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước và xây dựng CNXH
ở nước ta trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0.
Thực hiện những giải pháp này cũng như thực
hiện các nhiệm vụ mà NQTW 6, khóa X của
Đảng đã vạch ra là trách nhiệm của hệ thống
chính trị, của bản thân giai cấp công nhân và các
tổ chức công đoàn, của mỗi người, mỗi tổ chức
trong cả nước, ở tất cả các cấp, các ngành.

trường công lập của Nhà nước ở Trung ương và
địa phương, có trường dân lập, trường lớp đào
tạo trong doanh nghiệp, công ty, tập đoàn chú
trọng các nghề mới, sử dụng công nghệ hiện đại.
Phân luồng đào tạo, cân đối giữa đào tạo nghề
với đào tạo đại học, gây dựng dư luận xã hội tích
cực để cổ vũ, tôn vinh nghề thợ, người thợ. Coi
các thợ giỏi, bàn tay vàng, thợ bậc cao là vốn

quý, là chất xám của xã hội, chứ chất xám không
chỉ nói về trí thức khoa học. Khôi phục và phát
triển truyền thống gia đình công nhân nhiều đời
bằng các đòn bẩy kích thích lợi ích. Dĩ nhiên,
trong đà phát triển của xã hội hiện đại, mô hình
này phải là công nhân hiện đại, công nhân trí
thức sáng tạo, công nhân tài năng làm chủ kỹ
thuật - công nghệ.
Thứ ba, kết hợp tri thức hóa với trí thức
hóa công nhân, xây dựng đội ngũ công nhân trí
thức trong giai cấp công nhân Việt Nam, coi đây
là nòng cốt để phát triển giai cấp công nhân. Tri
thức hóa công nhân là phổ cập và nâng cao trình
độ học vấn phổ thông cho đông đảo công nhân
và lao động, gắn với nâng cao dân trí, xây dựng
xã hội học tập, đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Còn trí thức hóa công nhân là sớm hình thành
đội ngũ công nhân trí thức trong các ngành
kinh tế mũi nhọn, trọng điểm quốc gia, có kiến
thức, kỹ năng, tay nghề cao, hiện đại, lao động
bằng trí óc, sáng tạo như trí thức. Có chính sách
khuyến khích công nhân học tập vươn tới công
nhân trí thức.
Thứ tư, quan tâm phát triển Đảng trong
công nhân, nhất là công nhân trẻ, công nhân
trí thức, gắn xây dựng giai cấp công nhân với
xây dựng Đảng và đẩy mạnh đổi mới hệ thống
chính trị. Muốn thực sự coi xây dựng Đảng là
then chốt thì phải đặc biệt chú trọng xây dựng
giai cấp công nhân, củng cố sự vững mạnh của

công nhân và công đoàn, coi đây là cơ sở xã hội
chủ yếu nhất để xây dựng Đảng, Nhà nước, bảo
vệ Đảng, Nhà nước và chế độ nói chung. Thực
hành dân chủ, quy chế và pháp lệnh dân chủ
tại các cơ sở doanh nghiệp và công ty, trong
công nhân và công đoàn. Dựa vào giai cấp
công nhân, vào quần chúng công nhân và lao
động để xây dựng và củng cố nền dân chủ, nhà
nước pháp quyền, triệt để chống tham nhũng,
chống diễn biến hòa bình, phòng ngừa nguy cơ
tự diễn biến hòa bình,
Thứ năm, tiếp tục đổi mới công đoàn và
hệ thống chính trị nói chung, dân chủ hóa đời
sống công nhân, các tổ chức và phong trào công

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo cáo về

CMCN 4.0, 4/ 2017.
2. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới,
9/2015.
3. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 20122013
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa
X. Nxb CTQG, H. 2008.
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB
toàn quốc lần thứ X. Nxb.CTQG, H.2006.
6. Giai cấp công nhân Việt Nam – thực trạng và
suy ngẫm. Tạp chí cộng sản số 23, năm 2007.

7. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011
8. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016,

148



×