Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số giải pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi ở trường mầm non đông tân TP thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
-------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON ĐÔNG
TÂN – THÀNH PHỐ THANH HÓA

Người thực hiện : Thiều Thị Lan Anh
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường mầm non Đông Tân
SKKN thuộc lĩnh vực : Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2020


MỤC LỤC
TT
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
2.1
2.2
2.3



Nội dung

Số trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1–3
Lý do chọn đề tài
1
Mục đích nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu
3
Phương pháp nghiên cứu
3
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3 – 17
Cơ sở lí luận
3
Thực trạng của vấn đề
5
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6 – 17
Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch, hình thức, phương 6
pháp, tổ chức thực hiện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Giải pháp 2: Nghiên cứu tài liệu, sưu tầm, lựa chọn một 8
số kỹ năng tự phục vụ phù hợp với lứa tuổi với khả năng
của trẻ và với chủ đề.
Giải pháp 3: Hình thành kỹ năng tự phục vụ qua việc trò 10
chuyện, làm mẫu, hướng dẫn, luyện tập, trải nghiệm.
Giaỉ pháp 4: Giáo dục kỹ năng tự phục vụ mọi lúc mọi 11

nơi phù hợp
Giải pháp 5: Hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ qua 14
việc động viên, khích lệ, nêu gương.
Giải pháp 6: Thực hiện xã hội hóa giáo dục, phối hợp 16
nhà trường, gia đình và xã hội trong chăm sóc, giáo dục,
rèn luyệ kỹ năng tự phục vụ ở cho trẻ.
Giải pháp 7: Thường xuyên kiểm tra đánh giá hoạt động 17
giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
2.4 Hiệu quả của sáng kiến
18
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19 – 20
3.1 Kết luận
19
3.2 Kiến nghị
19
Danh mục tài liệu tham khảo
21
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội 22
đồng khoa học đánh giá xếp loại cấp phòng GD & ĐT,
cấp sở GD & ĐT và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở lên.

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
“ Hiểu biết là nền tảng của kỹ năng”[1]. Nhà bác học nổi tiếng người Đức
Albert Einstein đã tin tưởng rằng: “Dạy cho con người một chuyên ngành thì
chưa đủ. Bởi bằng cách đó, anh ta tuy có thể trở thành một cái máy khả dụng,

nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Điều quan trọng
là anh ta phải được dạy để có một cảm thức sống động về cái gì là đáng để
phấn đấu trong cuộc đời. Anh ta phải được dạy về cái gì là đẹp và cái gì là
thiện. Nếu không, với kiến thức được chuyên môn hóa của mình, anh ta chỉ
giống như một chú khuyển được huấn luyện tốt, hơn là một con người được phát
triển hài hòa. Anh ta cần phải học để hiểu những động cơ của con người, hiểu
những ảo tưởng và những nỗi thống khổ của họ để tìm được một thái độ ứng xử
đúng đắn với từng con người đồng loại của mình, cũng như với cộng đồng”. Đó
dường như là lời tuyên bố thẳng thắn và chân thành nhất về đào tạo kỹ năng
sống nói chung, kỹ năng tự phục vụ nói riêng từ một nhà khoa học chân chính
mà chúng ta cần lắng nghe[1].
Vậy tự phục vụ là gì? Tự phục vụ là một thành ngữ trong tiếng Anh có
nghĩa là "dịch vụ riêng" còn trong bản dịch miễn phí sang tiếng Bồ Đào Nha, Tự
phục vụ cũng chính là "tự phục vụ"[3], theo từ điển Việt - Việt thì Tự phục vụ là
tự mình làm lấy những việc phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của mình,
không cần có người giúp, người phục vụ[7]. Còn kỹ năng tự phục vụ là khả
năng hàng ngày của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt cá nhân, chăm
sóc cho bản thân như tắm rửa, ăn uống,... “ người có khả năng tự phục vụ là
người có nhận thức và kỹ năng trong các hoạt động tự phục vụ bản thân ”[6].
Ngày nay, trước những biến động không ngừng của đời sống xã hội, cả nhân
loại đang chạy đua trong cuộc cách mạng 4.0, “toàn cầu hóa”, khi mà xã hội hiện
đại nảy sinh những vấn đề phức tạp và bất định đối với con người. Thì việc Giáo
dục kỹ năng sống nói chung, giaó dục kỹ năng tự phục vụ nói riêng cho người học
đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng đối với giáo dục các nước.
Tuy nhiên trên thực tế, xã hội hiện đại đã sản sinh ra rất nhiều những “cậu
ấm”, “cô chiêu” có thói quen ỷ lại, dựa dẫm… Trong thời đại công nghệ số,
nhiều gia đình nuông chiều con em mình quá mức thậm chí có những gia đình
có điều kiện còn thuê người giúp việc và hầu như các em không cần làm bất cứ
công việc gì, ngoài việc ăn, học và chơi khiến hoạt động trải nghiệm thực tế để
học tập, rèn luyện kỹ năng và thái độ sống tích cực của trẻ bị hạn chế. Con cái

“không biết nhặt rau, nấu cơm, giặt quần áo, quan tâm giúp đỡ người khác”[15],
ngay cả đến cái ăn, cái uống cũng không biết phục vụ chính mình đã và đang như
một hồi chuông cảnh tỉnh các bậc cha mẹ khi bấy lâu nay chỉ chú trọng việc giáo
dục kiến thức mà quên đi việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho con em mình.
Thiếu kỹ năng tự phục vụ đã dẫn đến hệ lụy trẻ lười biếng, thụ động và khó
khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Thiếu kỹ năng tự phục vụ,
thiếu kinh nghịêm làm việc, dễ bị lạm dụng, sống vô tâm là một thực trạng phổ
biến trong giới trẻ ngày nay. Khi nền kinh tế phát triển mạnh, con người bận rộn
với công việc không còn thời gian để quan tâm đến các vấn đề chung nữa. Khoa
3


học và công nghệ mở ra một thế giới mới cho phép giới trẻ có nhiều trải nghiệm
song lại đưa đến những nguy hại khôn lường. Giới trẻ ngày càng lười biếng và
vô cảm hơn. Học sinh thì hay tránh việc và thu mình trong thế giới riêng của
mình. Hiện tượng ấy không chỉ xảy ra đơn lẻ mà đã trở thành một hiện tượng phổ
biến, một căn bệnh âm ỉ, có khả năng đe doạ trực tiếp đến tương lai của xã hội.
Hơn bao giờ hết, dạy kỹ năng sống trong đó có kỹ năng tự phục vụ bản thân là
một nội dung quan trọng của chương trình học phổ thông. Từ mầm non, tiểu học
tới trung học, để các cháu và các em biết tự phục vụ bản thân, tự tin, mạnh dạn, tự
lập, sống có trách nhiệm với bản thân, dễ thành công hơn trong cuộc sống[2].
Đối với trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ trong độ tuổi 5- 6 tuổi là lứa tuổi “ khởi
đầu” của quá trình giáo dục - lứa tuổi đang hình thành và phát triển những giá trị
nhân cách, trẻ học hỏi rất nhanh và thường hiếu động với mọi thứ xung quanh.
Trẻ có khát khao được thể hiện mình, được làm những việc giống người lớn. Để
có thể hòa nhập, thích ứng, sống và làm việc thành công trong cuộc sống hiện
đại hôm nay, hành trang của trẻ cần chuẩn bị nhiều thứ: tri thức, vốn văn hóa,
ngoại ngữ, … đặc biệt là những kỹ năng sống cần thiết thì việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ trong đó có kỹ năng tự phục vụ bao gồm cả thể chất và tinh thần, từ
những việc làm đơn giản đến phức tạp, là quan trọng và rất cần thiết[5].

Nhiều năm trở lại đây, công tác giáo dục kỹ năng sống trong đó có giáo dục
kỹ năng tự phục vụ trong các nhà trường đã được nâng cao rõ rệt, tình trạng trẻ
thụ động, lười biếng trong các hoạt động tự phục vụ bản thân đã và đang được
khắc phục, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều giáo viên, phụ huynh chưa nhận
thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Có
rất nhiều trẻ không có hiểu biết, thiếu kỹ năng và chưa có ý thức trong việc tự
phục vụ bản thân, nhất là trẻ mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi kỹ năng tự phục vụ tuy đã
được hình thành ở các lứa tuổi trước nhưng kết quả chưa cao.
Từ thực tế trên, tôi thiết nghĩ giáo dục kỹ năng tự phục vụ đang trở thành
yêu cầu cấp thiết cho những người trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ đặc biệt là
trẻ nhỏ - mầm non tương lai của đất nước. Kỹ năng tự phục vụ có thể hình thành,
rèn luện, giáo dục và phát triển được. Nếu chúng ta làm tốt việc giáo dục kỹ năng
tự phục vụ cũng chính là giúp trẻ ý thức được sự cần thiết của việc tự phục vụ
bản thân, là cung cấp những kỹ năng cần thiết để trẻ biết tự chăm sóc mình, là
dạy trẻ biết quan sát và làm theo hướng dẫn của người lớn trong các công việc
nhỏ hàng ngày, tăng cường tính độc lập cho trẻ để trẻ sống có trách nhiệm hơn
đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Nhận thức được hoạt động này có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ nên tôi đã
dành thời gian nghiên cứu tìm ra một số giải pháp khắc phục thực trạng trên. Tôi
xin mạnh dạn trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm tôi cho là
tâm đắc với đề tài: “Một số giải pháp giáo dục kỹ năng tự phục cho trẻ Mẫu
giáo 5- 6 tuổi ở trường Mầm non Đông Tân - Thành phố Thanh Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài đề xuất các giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ Mẫu
giáo Lớn ( 5- 6 tuổi) ở trường mầm non Đông Tân - Thành phố Thanh Hoá.
4


1.3. Đối tượng nghiên cứu

Các giải pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ Mẫu giáo lớn ( 5- 6 tuổi)
ở trường Mầm non Đông Tân - Thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận(Tức là nhóm phương pháp
nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết ).
Gồm các phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu nhằm
xác lập cơ sở lý luận của đề tài.
1.4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn(Tức là nhóm phương pháp
điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin).
Gồm có:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
+ Phương pháp khảo nghiệm sư phạm
Các phương pháp này được sử dụng nhằm xác lập cơ sở thực tiễn của đề tài.
1.4.3. Phương pháp thống kê toán học (Tức là phương pháp thống kê, xử lý
số liệu): Phương pháp này nhằm xử lý số liệu thu được.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, nhiều tổ chức của Liên hợp Quốc như tổ
chức y tế thế giới, Quỹ cứu trợ nhi đồng, Tổ chức giáo dục văn hóa và khoa học,
và các nhà giáo dục thế giới đã tìm cách để tạo cho trẻ năng lực tâm lý xã hội
nhằm đối phó với những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày, đó
chính là kĩ năng sống[14]. Theo báo cáo mới đây trên tờ Independent ( Anh) các
nhà tâm lý cho biết một trong những điểm chung của các bậc cha mẹ có con
thành đạt là: cho trẻ làm việc nhà. Theo UNESCO, trẻ 8 tuổi là quá trể để giáo
dục kỹ năng sống[14], vì thế khuyến cáo giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự
phục ngay từ khi nhỏ nhất là bậc học mầm non.
Ở nước ta, trẻ em luôn là đối tượng được quan tâm hàng đầu. Trẻ em hôm
nay - Thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương

lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha anh, gánh vác mọi công
việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đầu tư cho trẻ em chính là đầu tư cho tương
lai, vận mệnh của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ, Đảng và nhà nước đã xác định giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự phục
vụ là nhiệm vụ quan trọng trong đào tạo thế hệ trẻ ở các trường học và được
quan tâm ngay từ bậc học đầu tiên, “bậc học mầm non’’. Đảng và Nhà nước, Bộ
giáo dục đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo cho công tác này trong hệ thống
giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục mầm non nói riêng như: Ngay trong
Nghị quyết số 29, Hội nghị lần thứ 8, BCH TW Đảng khóa XI đã đưa vào thực
hiện chiến lược “ Đổi mới căn bản ,toàn diện nền giáo dục - đào tạo theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, hội nhập quốc tế’’[13] mở đường cho hàng
loạt đổi mới trong giáo dục, trong đó có việc đẩy mạnh giáo dục kỹ năng sống,
5


kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở bậc học Mầm non, Ban hành Chỉ thị số
40/2008/CT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Về việc phát động phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường
phổ thông giai đoạn 2008-2013[12]. Ngày 25/8/2015, Bộ Giáo dục và đào tạo ra
chỉ thị só 3131/CT- BGĐT về nhiệm vụ trọng tâm năm học 2015- 2016 của giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, trong đó nêu
nhiệm vụ: “ chú trọng giáo dục hình thành các thói quen phù hợp với độ tuổi của
trẻ, với yêu cầu của xã hội hiện đại và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc”[16]. Tiếp đến là hàng loạt các chuyên đề được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
triển khai rộng rãi tại các cơ sở Giáo dục mầm non trong phạm vi cả nước:
Chuyên đề giáo dục kỹ năng sống, lấy trẻ làm trung tâm và gần đây là chuyên đề
tổ chức hoạt động học theo hướng trải nghiệm.
Sinh thời Bác Hồ thân yêu của chúng ta đã từng nói: “ Tuổi nhỏ làm việc
nhỏ, tùy theo sức của mình”, Bác dạy cho các em thiếu nhi, các em còn nhỏ thì

làm các việc nhỏ, rồi mới đến các việc khác. Học tập lời dạy của Người chúng ta
đã và đang dạy cho trẻ từ những kỹ năng tự phục vụ nhỏ nhất, phù hợp nhất với
từng giai đoạn phát triển của trẻ. Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ cũng chính là dạy
cho trẻ làm quen với những thao tác sinh hoạt thường ngày trong giao tiếp và
ứng xử của trẻ đối với bản thân và những người xung quanh, giúp trẻ từng bước
hình thành nhân cách sống. Nếu không có kỹ năng tự phục vụ bản thân, các bé
sẽ không thể chủ động và tự lập[4]. Tự phục vụ bản thân trở thành một trong
những kỹ năng quan trọng thúc đẩy trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Đây
còn là cơ hội vàng giúp trẻ nhanh chóng khôn lớn và trưởng thành trong cuộc
sống[5].
Trẻ mầm non nói nói chung, trẻ mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi nói riêng đang chập
chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước “ học làm người”.
Việc giáo dục trẻ ở nhà trường không bao giờ là đủ nếu nhà trường chỉ lo dạy
kiến thức mà không hướng dẫn con trẻ những kỹ năng cơ bản để phục vụ bản
thân. Đây được xem là một trong những kỹ năng sống rất cần thiết mà Gia đình
và nhà trường cần phối hợp chặt chẽ để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho con
trẻ ngay từ khi còn nhỏ. “ Nếu như bắt cho con một con cá, con sẽ có cá ăn cả
ngày. Nhưng nếu dạy con bắt cá, con sẽ có cá ăn cả đời”, nếu các kỹ năng sớm
được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển toàn diện và bền vững.
Có nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: Giáo dục các kỹ năng
cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khóa thành công cho tương lai mỗi đứa trẻ[8].
Trường mầm non là nơi Chăm sóc - Nuôi dưỡng - Giáo dục trẻ. Thời gian trẻ ở
trường mầm non còn nhiều hơn thời gian trẻ ở nhà với gia đình. Trẻ có hình
thành, rèn luyện các kỹ năng tự phục để phát triển toàn diện hay không là phụ
thuôc rất nhiều vào các điều kiện phục vụ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ, giáo viên, nhân viên của các trường mầm non. Tuy nhiên, quá trình giáo dục
kỹ năng tự phục vụ muốn đạt được kết quả tốt thì không chỉ cần sự tham gia của
cán bộ quản lý, giáo viên của nhà trường mà còn phải cần có sự chung tay góp
sức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể của địa
phương và các bậc phụ huynh .

6


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để truyền tải cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ đòi hỏi người giáo viên phải
thực sự hiểu trẻ, phải có phương pháp giáo dục sao cho trẻ dễ hiểu, dễ tiếp thu
có như vậy mới giúp trẻ khắc sâu trong tâm trí và định hình cho mình những kỹ
năng phù hợp. Với từng đối tượng khác nhau cần có các hoạt động giáo dục kỹ
năng tự phục vụ khác nhau. Trong quá trình giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
5- 6 tuổi ở trường mầm non Đông Tân, tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Trường mầm non Đông Tân là một trong những trường có bề dày về thành
tích: Trường tiên tiến cấp tỉnh, cấp huyện nhiều năm.
Trong thời gian qua được sự quan tâm của Đảng, chính quyền, nhân dân địa
phương nhà trường đã được xây dựng đầu tư nhiều về cơ sở vật chất, đồ dùng,
trang thiết bị dạy học... phục vụ tốt cho công tác chăm sóc, giáo dục của nhà
trường.
Bản thân có nhiều năm công tác, yêu nghề, mến trẻ và có nhiều kinh
nghiệm. Bên cạnh đó bản thân cũng tích cực tham gia dự giờ các giờ dạy mẫu
do phòng giáo dục tổ chức để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ như đã được
tham dự lớp bồi dưỡng chuyên đề hè do phòng giáo dục tổ chức trong đó có
chuyên đề nâng cao giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ ...
Các tài liệu, tập san về giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ được nhà
trường, phòng giáo dục đầu tư kịp thời. Đặc biệt nhà trường có dàn máy tính kết
nối internet tạo điều kiện cho giáo viên cập nhật thông tin một cách nhanh chóng
và thuận tiện. Khi thực hiện đề tài này tôi được sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ của
ban giám hiệu nhà trường cũng như các giáo viên trong trường.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên khi đi vào thực tế quá trình giáo dục kỹ năng
tự phục vụ cho trẻ 5- 6 tuổi còn gặp nhiều khó khăn:

Là địa phương thuần nông nên đa số phụ huynh không có điều kiện chăm
sóc trẻ. Nhiều phụ huynh còn chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo
dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nên không tích cực trong công tác phối hợp cùng
giáo viên để giáo dục trẻ, gây trở ngại ngay từ việc lập kế hoạch đến việc giáo
dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Diện tích lớp học còn chật hẹp, thời gian tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ
năng tự phục vụ còn ít, việc tổ chức lồng ghép tích hợp vào các hoạt động giáo
dục, các trò chơi thì cũ, có sẵn nên trẻ nhanh chán.
Lớp tôi có 32 cháu nhưng có tới 70% cháu là trẻ nam rất hiếu động, gây khó
khăn trong việc rèn nề nếp lớp. Bên cạnh đó các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng
nhận thức không đồng đều, có nhiều cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu thể
lực không tốt, trẻ chưa qua lứa tuổi nhà trẻ còn nhiều, trẻ chủ yếu là con một
trong các gia đình bố mẹ còn trẻ, đa số phụ huynh thường chiều chuộng con,
chưa nhiệt tình chưa quan tâm đến quá trình rèn luyện cũng như kết quả rèn
luyện của con ở trường, không thường xuyên trao đổi với giáo viên về tình hình
của trẻ khi ở nhà...Đây cũng là nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo
dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
7


* Kết quả thực trạng:
Với thực trạng trên, qua việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, tôi đã
chú ý, quan sát theo dõi và khảo sát trẻ, kết quả khảo sát đầu năm trên trẻ tại lớp
mẫu giáo Lớn A tôi thu được một số kết quả sau:
Kết quả trên trẻ
Tiêu chí

Đạt
Số trẻ


Chưa đạt
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số trẻ
%
%
65,6% 11
34,4%
56,2% 14
43,8%
59,4% 13
40,6%

Kĩ năng bảo vệ môi trường.
21/32
Kĩ năng vệ sinh trong sinh hoạt cá nhân
18/32
Kĩ năng tự bảo vệ mình trước người lạ.
19/32
Kĩ năng phục vụ sinh hoạt cá nhân của
22/32 68,7% 10
31.3%
bản thân ở mọi lúc mọi nơi
Kết quả khảo sát trên cho thấy % trẻ có kiến thức, kỹ năng và thái độ với
các kỹ năng tự phục vụ còn thấp, đạt từ 56,2- 68,7%. Đáng buồn là có tới 31,343,8% trẻ ở mức chưa đạt. Đứng trước tình hình như vậy tôi luôn trăn trở và suy
nghĩ xem mình phải làm gì và làm thế nào để nâng cao kết quả công tác giáo dục
kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Đồng thời tuyên truyền như thế nào đến tất cả phụ
huynh để đánh thức ở họ ý thức giáo dục kỹ năng tự phục vụ, kết hợp với cô
giáo giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
2.3. Cá giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

* Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch, hình thức, phương pháp, tổ chức
thực hiện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
Hàng năm khi bước vào một năm học mới, căn cứ vào kế hoạch chỉ đạo của
Sở giáo dục, Phòng Giáo Dục & Đào tạo Thành phố Thanh Hóa về hướng dẫn
nhiệm vụ năm học. Căn cứ vào nhận thức Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non là một nhiệm vụ quan trọng đang được ngành giáo dục triển khai và thực
hiện trong trường mầm non. Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường, vào
mục tiêu và kế hoạch giáo dục kỹ năng sống chung của nhà trường tôi đã tiến
hành lập kế hoạch cụ thể cho công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong một
năm hoc. Trong kế hoạch đó, bên cạnh việc xây dựng kế hoạch cho các kỹ năng
sống như: kỹ năng vận động, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự tin, tò mò, hớp tác,
tôi đặc biệt quan tâm xây dựng kế hoạch gióa dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Kế hoạch được xây dựng dựa trên khả năng của trẻ. Nó xuyên suốt cả năm học
với 35 tuần, phân bố đồng đều cho 10 chủ đề và 5 lĩnh vực, đặc biệt là khi xây
dựng kế hoạch riêng cho từng lĩnh vực, từng môn học, trong đó tôi luôn chú
trọng việc lựa chọn để xây dựng các đề tài rèn luyện kỹ năng tự phục vụ phù
hợp với khả năng của trẻ trong độ tuổi mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi.
Từ kế hoach đã xây dựng, tôi xác định được một số hình thức, phương
pháp có thể thực hiện kế hoạch như sau:
- Giáo viên và phụ huynh có thể giúp trẻ phát triển các kỹ năng tự phục vụ bằng
cách tạo ra các mối liên kết với bạn bè của trẻ tại lớp, gia đình. Hãy hỏi xem trẻ
muốn nói gì? Muốn làm gì? Muốn cùng chơi với ai? Chơi như thế nào? Để có
8


thể thấy trẻ dễ dàng kết bạn khi chơi trong môi trường của riêng trẻ.
- Giáo viên cho trẻ chia sẻ với bạn theo nhóm, có thể hình thành nhóm liên kết
với các bạn trong nhóm. Khi có được mối liên kết với nhóm nào đó, các mối liên
hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
- Trẻ học và khám phá trải nghiệm thông qua các trò chơi. Các hành động chơi

đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Khi chơi
trẻ biết sáng tạo cách chơi và đạt được mục đích, đây chính là kỹ năng cơ bản để
sống và làm việc sau này.
Mỗi năm có 9 tháng học, việc tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ
năng tự phục vụ trong năm học được cụ thể hóa như sau:
+ Tháng 9: Giáo viên tiến hành xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung về giáo
dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ. Nghiên cứu nội dung giáo dục kỹ năng tự phục
vụ cho trẻ ở các tài liệu bồi dưỡng. Cho trẻ làm quen với một số kỹ năng tự phục
vụ đơn giản hàng ngày. Lồng ghép nội dung tuyên truyền qua các bảng tuyên
truyền tại lớp theo từng chủ đề sao cho phù hợp. Dạy trẻ 1 số kỹ năng tự phục
vụ đơn giản nhất: Để dép vào gía dép, để cặp, mũ vào tủ đựng tư trang mang kí
hiệu của mình, rửa tay với Xà phòng...
+ Tháng 10: Tập cho trẻ có một số thói quen tốt và các kỹ năng tự phục trong
sinh hoạt hàng ngày. Chú ý lồng ghép kỹ năng tự phục vào hoạt động có chủ
định, ở mọi lúc mọi nơi và các hoạt động khác. Giáo dục trẻ biết tự thay quần
áo; Tự mang giày dép; tự sắp xếp đồ dùng cá nhân ngăn nắp.
+ Tháng 11: Tham gia tập huấn về giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ
của trẻ do nhà trường tổ chức. Rèn cho trẻ có một số thói quen tốt và kỹ năng tự
phục vụ cơ bản trong sinh hoạt như: kỹ năng chải tóc, cài cúc áo, đánh
răng,..Tập cho trẻ làm quen với các thao tác kỹ năng phòng chống các tai nạn
thông thường hàng ngày trẻ hay gặp.
+ Tháng 12: Trẻ được thực hiện hoạt động khám phá trải nghiệm đơn giản về
các kỹ năng tự phục vụ hàng ngày : Kê bàn ăn giúp cô, lau bàn ghế, giá đồ
chơi...Trẻ biết thực hiện thao tác chơi ở góc phân vai và thao tác chơi tương đối
thành thạo. Lồng ghép nội dung tuyên truyền qua nội dung của chủ đề trong
tháng về các kỹ năng tình cảm xã hội.
+ Tháng 1 +2: Hướng dẫn trẻ làm sách tranh về các hoạt động giáo dục kỹ năng
tự phục vụ của trẻ. Trao đổi kinh nghiệm khi thực hiện giáo dục kỹ năng tự phục
vụ của trẻ trong quá trình hoạt động với đồng nghiệp. Giáo dục trẻ biết quyét
nhà, gấp quần áo, hay vắt nước cam…

+ Tháng 3: Tiếp tục cho trẻ học và khám phá về các kỹ năng tự phục vụ qua các
hoạt động học, trò chơi ở các góc và ở mọi lúc mọi nơi. Trẻ thể hiện được các kỹ
năng tự phục vụ qua quá trình trẻ chơi và khám phá, trải nghiệm.
+ Tháng 4: Sưu tầm tranh ảnh về giáo dục các kỹ năng tự phục vụ của trẻ qua
các hoạt động hàng ngày. Lồng ghép nội dung tuyên truyền qua nội dung của
chủ đề trong tháng về những kỹ năng nhận thức.
+ Tháng 5: Theo dõi sự tiến bộ của trẻ về thực hiện các kỹ năng tự phục vụ cơ
bản thường ngày.Tham gia đánh giá kết quả trên trẻ qua phiếu khảo sát về kỹ
năng tự phục vụ [9].
9


* Giải pháp 2: Nghiên cứu tài liệu, sưu tầm, lựa chọn một số kỹ năng
tự phục vụ phù hợp với lứa tuổi với khả năng của trẻ và với chủ đề
Việc nghiên cứu tài liệu giúp cho tôi hiểu biết nắm vững thêm về thông
tin, kiến thức và đặc điểm tâm sinh lý, sự phát triển vận động của trẻ 5- 6 tuổi.
Nếu như ở trẻ mẫu giáo bé - trẻ đang trong giai đoạn khủng hoảng của tuổi lên
3, trẻ bắt đầu so sánh mình với người lớn, muốn giống như người lớn, và làm
những việc như người lớn, muốn được độc lập và tự chủ, nên ở trẻ bắt đầu xuất
hiện nhu cầu tự khẳng định mình, nguyện vọng độc lập. Trẻ thích tự mình làm
mọi việc, kể cả những việc trẻ chưa làm được, thích tự mình làm mà không
cần người lớn giúp đỡ như: “ Tự xúc cơm, tự đi dép…” giáo viên sẽ chú trọng
trong việc rèn kỹ năng tự lập cho trẻ, thì trẻ mẫu giáo lớn 5- 6 tuổi khi đã hình
thành được một số kỹ năng ở các độ tuổi trước trẻ bắt đầu thích làm việc, đây
cũng chính là điều kiện thuận lợi để người lớn và đặc biệt là giáo viên có thể
giúp trẻ dần có khả năng làm được một số việc tự phục vụ bản thân, phát triển
tính độc lập ở trẻ bằng cách khuyến khích trẻ làm việc. Tuy nhiên với trẻ lứa
tuổi này còn nhỏ, ý thức của trẻ chưa ổn định, lúc thích, lúc không. Vì vậy mà
việc dạy cho trẻ hình thành được một số kỹ năng tự phục vụ cũng không phải
là vấn đề đơn giản.

Ở mỗi độ tuổi, mỗi thời kỳ, trẻ có những đặc điểm tăng trưởng và phát
triển khác nhau. Do đó giáo viên cần lựa chọn những kỹ năng sao cho phù hợp
với trẻ để có thể đạt được kết quả tốt nhất. Từ việc tìm trên mạng Internet, qua
đồng nghiệp, qua tủ sách của nhà trường. Thường xuyên tham gia các lớp bồi
dưỡng chuyên đề về dạy trẻ một số kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ, do
nghành và nhà trường tổ chức. Tôi đã tiến hành nghiên cứu sắp xếp, lập kế
hoạch kỹ năng tự phục vụ phù hợp với khả năng, kỹ năng, ý thích, mong muốn
của trẻ, đặc biệt là phù hợp cho từng môn học, từng hoạt động và từng chủ đề
để đưa vào tổ chức cho rèn luyện, thực hành và trải nghiệm nhằm thu hút được
sự hứng thú, tích cực, say mê của trẻ. Sau một quá trình nghiên cứu, sưu tầm
lựa chọn, tôi đã tìm được một số kỹ năng tự phục vụ phù hợp với trẻ 5- 6 tuổi,
cụ thể như sau:
TT

Tên kĩ năng

Cách thực hiện

1

Đi cầu thang

- Hướng dẫn trẻ đi về phía bên phải của cầu thang, một
tay bám vịn vào thành. Lần lượt bước từng chân từng
bậc 1. Không chạy nhay nô đừ khi đi cầu thang

2

Cất ba lô vào
đúng vị trí


- Khi đón trẻ cô hướng dẫn trẻ cởi bỏ ba lô xuống, Sau
đó cất ba lô vào đứng ngăn tủ đựng đồ của mình một
cách nhanh chóng gọn gàng, tránh để ba lô rơi ra ngoài

3

Cất giày, dép
đứng nơi quy
định

4

Sử dụng ghế

- Tại các lớp học trẻ trẻ ko được đi giày dép vào lớp, sẽ
có giá để giày dép bên ngoài hành lang của lớp học,
trước tiên cô cần cho trẻ biết đâu là vị trí để giày dép
Dạy trẻ để giày dép vào giá đúng nơi quy định
- Hướng dẫn trẻ quan sát và tìm một vị trí thích hợp để
10


đặt ghế xuống, cho trẻ giơ hai tay bê ghế lên, di chuyển
ngồi thành thạo
đến vị trí mới, mà không hề gây ra tiếng động mạnh,
văn minh
điều chỉnh ghế ngồi một cách thoải mái.
Cách rửa tay
bằng xà phòng


- Cho trẻ làm ướt tay dưới vòi nước, sau đó đưa xà
phòng lên bàn tay cho trẻ, làm mẫu rửa sạch tay trong
nước theo các bước theo quy định. Khi trẻ rửa xong cho
trẻ lau khô tay bằng khăn sạch.

6

Cách tự uống
nước

- Hướng dẫn trẻ cầm cốc bằng tay phải, đưa tay xuống
dưới vòi, dùng tay gạt vòi nước và chỉ lấy một lượng
nước đủ uống. Uống xong cất cốc vào nơi quy định,
nếu uống không uống hết lượng nước trong cốc thì cần
phải đổ bỏ nước vào xô hoặc chậu.

7

Đóng mở cửa
nhẹ nhàng và
không bị kẹt
tay

- Sử dụng cả hai bàn tay, dùng sức xoay chốt và mở nhẹ
nhàng không gây tiếng động mạnh.

Cách sử dụng
kéo an toàn


- Cho trẻ sử dụng tay phải, giơ cả ba ngón tay để lồng
vào chỗ tay cầm của kéo, một bên cho ngón cái, một
bên cho ngón giữa và ngón chỏ, để cắt giấy.

5

8

9

10

11

12

Che miệng khi
ho và hắt xì

- Cho trẻ làm quen với khăn giấy và công dụng của
chúng, hướng dẫn trẻ gấp khăn giấy, gấp đôi lại, khi ho
và hắt xì, sẽ sử dụng giấy đó để che miệng, sử dụng
xong nhớ vứt vào thùng rác

Mặc hoặc cởi
áo

- Chuẩn bị sẵn cho trẻ một chiếc áo, cho trẻ trải áo lên
bàn, và sau đó đưa tay trái lên cầm ống tay phải, còn
tay phải luồn vào ống tay trái, rồi đứng dậy và cài khuy

tuần tự từ dưới lên trên.

Gấp áo

- Trải mặt áo lên trên mặt sàn, mặt trước của áo úp
xuống dưới, gấp hai mép, tay áo ra phía sau, cuối cùng
gấp đôi ngược từ vạt áo lên trên cổ áo.

Cài khuy áo

- Trẻ biết tập bộ cài khuy áo để trên mặt thảm cởi cúc
áo từ trên xuống dưới, lật hai vạt áo lần lượt sang hai
bên, sau đó đóng lần lượt hai vạt áo, so hai vạt áo bằng
nhau, cuối cùng cài khuy áo từ dưới lên trên

Trên đây là một số kỹ năng tự phục vụ cơ bản mà thầy cô và bố mẹ cần
rèn luyện cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ, hãy lựa chọn đúng thời điểm để áp
dụng[11]. Thông thường từ 2- 5 tuổi là giai đoạn trẻ có thể bắt đầu phát triển
toàn diện các kỹ năng tự phục vụ cần thiết.. Trẻ cần được rèn luyện về ý thức
cũng như tư duy, nhận thức về sự vật, sự việc, các vấn đề xung quanh. Những kỹ
11


năng tự phục vụ này sẽ là tiền đề cho trẻ hình thành cá tính, thói quen tốt sau
này cả trong học tập và vui chơi.
* Giải pháp 3: Hình thành kỹ năng tự phục vụ qua việc trò chuyện, làm
mẫu, hướng dẫn, luyện tập, trải nghiệm
Để có thể giúp trẻ hình thành một số kỹ năng tự phục vụ được thành công
thì cô giáo cần phải thực hiện một số việc như sau:
Trò chuyện, đàm thoại: Thông qua xem tranh ảnh, trò chuyện, cô giáo giới

thiệu cho trẻ về một số kỹ năng tự phục vụ bản thân, từ đó giúp trẻ nhận biết về
các kỹ năng tự phục vụ và muốn làm được như vậy, khi trẻ đã có mong muốn
được làm những công việc tự phục vụ thì việc cô giáo hướng dẫn cho trẻ sẽ dễ
dàng hơn.
Làm mẫu, hướng dẫn cho trẻ: Muốn hình thành được kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ thì việc đầu tiên là cô phải làm mẫu cho trẻ xem, hướng dẫn trẻ thực
hiện, sau đó cô cho trẻ làm lại giống cô, ở giai đoạn này trẻ rất thích làm theo
người lớn, trẻ thích bắt chước, chính vì vậy mà việc cô giáo làm mẫu cho trẻ
xem và hướng dẫn cho trẻ về một số kỹ năng tự phục vụ một cách chính xác và
phù hợp với khả năng của trẻ sẽ giúp trẻ nhanh chóng có được những kỹ năng tự
phục vụ bản thân.
Luyện tập các kỹ năng một cách thường xuyên: Trong sinh hoạt hàng ngày
hầu như lúc nào trẻ cũng phải xử dụng đến các kỹ năng tự phục vụ, có những lúc
trẻ làm được, có lúc trẻ chưa làm được, do đó người lớn phải kiên trì theo dõi và
kịp thời bảo ban, giúp đỡ cho trẻ đúng lúc. Giai đoạn này trẻ dễ nhớ nhưng cũng
nhanh quên chính vì vậy mà việc thường xuyên tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, tập
luyên kỹ năng tự phục vụ trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi, sẽ giúp trẻ hình
thành kỹ năng bền vững hơn. Ví dụ: Khi cô nhìn thấy có một đồ chơi nằm ở giữa
lớp, cô hỏi trẻ “ đồ chơi ai để kia nhỉ? Có phải đồ chơi được cất ở đó không nhỉ?
Ai giúp cô cất đồ chơi về đúng chỗ nào?” Hay khi cô giáo nhìn thấy đôi dép đi
trong lớp không được cất gọn gàng, cô nói với trẻ “ Ai để đôi dép ở kia nhỉ? Minh
ơi! con giúp cô cất đôi dép vào giá dép đi nào!”…
Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như: Trò chơi: “Cái này cất ở đâu?” Cô
giáo để các đồ dùng, đồ chơi quanh lớp không đúng vị trí và cho trẻ đi đến từng
đồ dùng đồ chơi và hỏi trẻ xem cái này để ở đâu? Để ở đây có đúng không? Sau
đó cho trẻ cầm để vào đúng nơi quy định. Trò chơi: “Nơi nào nguy hiểm” Cô
giáo cho trẻ xem những bức tranh về việc tránh xa nguy hiểm và đàm thoại
cùng trẻ về bức tranh, giúp trẻ nhận ra những nguy hiểm dễ gặp như: Bàn là
nóng, ổ điện, ao, hồ, canh nóng, phích nước...
Lúc đầu, giáo viên thường giúp trẻ xây dựng kế hoạch. Khả năng xây dựng

kế hoạch hoạt động được hình thành dần dần từ những hành động đơn giản được
thực hiện theo trình tự lôgic.
Ví như: Trẻ mẫu giáo bé có thể đề ra yêu cầu hành động có tổ chức trong quá
trình sinh hoạt. Lúc đầu làm gì, sau đó làm gì, vì sao làm theo trình tự này chứ
không theo một trình tự khác (đi rửa mặt, cởi khuy áo, xắn tay áo, mở vòi rửa
tay, xát xà phòng, rửa sạch, lau tay v.v…). Sang đến tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu
giáo lớn, cô giáo cần khích lệ trẻ tự xác định trình tự công việc cần làm sao cho
12


hợp lí, nhằm mang lại kết quả tốt đẹp. Đó là cơ sở ban đầu để hình thành kế
hoạch hành động - một yêu cầu quan trọng trong hoạt động lao động sau này.
Cần tạo ra tình huống đặt trẻ vào điều kiện bắt buộc phải suy nghĩ sơ bộ về kế
hoạch hành động. Việc hoàn thiện kỹ năng xây dựng kế hoạch diễn ra trong công
việc hằng ngày (làm trực nhật, chăm sóc góc thiên nhiên…)[12]. Trẻ mẫu giáo
lớn thích được làm việc. Thông qua việc trò chuyện, đàm thoại, làm mẫu, hướng
dẫn với độ tuổi này là không đủ, mà với độ tuổi này cần cho trẻ luyện tập, trải
nghiệm phù hợp với dạy trẻ làm trung tâm và học bằng trải nghiệm thì cô giáo
mới có thể giúp trẻ có được một số kỹ năng tự phục vụ phù hợp với khả năng
của trẻ.
* Giải pháp 4: Giáo dục kỹ năng tự phục vụ mọi lúc mọi nơi phù hợp
+ Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động có chủ đích:
Trong quá trình hướng dẫn, tổ chức các hoạt động dạy trẻ các kỹ năng tự
phục vụ, cô giáo cũng cần lên kế hoạch cụ thể dựa trên đặc điểm, kinh nghiệm,
khả năng của trẻ, dựa trên các hoạt động học hàng ngày của trẻ, ở giờ học này
thì cần lồng ghép kỹ năng tự phục vụ nào vào cho trẻ, ở họat động kia thì cần
phải lồng ghép kỹ năng nào cho trẻ. Để làm sao các kỹ năng mà cô giáo lựa
chọn để dạy cho trẻ phải đơn giản, gần gũi, phù hợp với trẻ. Ví dụ như trong một
số hoạt động sau:
- Hoạt động phát triển vận động: Ở hoạt động phát triển thể chất cô giáo có

thể giúp trẻ hình thành một số kỹ năng tự phục vụ rất tốt như: Trong giờ thể dục
buổi sáng hay ở bài tập phát triển chung của giờ học thể dục khi tập với dụng cụ
như bóng, vòng, gậy, bông… cô giáo có thể cho trẻ tự đi lấy đồ dùng để tập; trẻ
cũng có thể giúp cô thu dọn đồ dùng khi tập xong, hay cô giáo cũng tạo cơ hội
cho trẻ có được kỹ năng tự phục vụ khi cho trẻ cùng cô chuẩn bị đồ dùng cho
bài tập như: khi dạy trẻ bài vận động “ Đi trong đường hẹp” cô có thể cho trẻ
sách sỏi đổ vào đường để giúp cô hoàn thành con đường bằng sỏi; Hay khi cho
trẻ tập bài vận động “ Bò chui qua cổng” cô giáo cũng có thể cho trẻ giúp cô xếp
những chiếc cổng ra để tập.
- Hoạt động tạo hình: Trong giờ tạo hình khi tổ chức cho trẻ học xé dán, vẽ,
hay nặn cô có thể lồng ghép kỹ năng ngồi ghế, trẻ biết chấm hồ bôi hồ để dán,
biết lau tay khi dán xong, trẻ biết tự lấy bút, cầm bút để tô và cất bút vào hộp sau
khi tô xong, trẻ biết lấy và cất đất trong giờ nặn, biết lau tay sau khi nặn.
- Hoạt động giáo dục âm nhạc: Trong các giờ hoạt động giáo dục âm nhạc
cô giáo cũng có thể kết hợp hình thành cho trẻ kỹ năng tự phục vụ như ngồi
ghế, cô cho trẻ tự lấy và cất dụng cụ âm nhạc khi trẻ lên hát, vận động theo bài
hát có kết hợp với dụng cụ âm nhạc…
Khi thường xuyên chú ý đến việc lồng ghép các kỹ năng tự phục vụ vào
trong các giờ học có chủ đích thì tôi nhận thấy trẻ thực hiện rất tốt, trẻ mạnh dạn
tự tin hơn, trẻ chủ động hơn, các kỹ năng tự phục vụ của trẻ được hình thành khá
nhanh và thuần thục hơn qua mỗi hoạt động có chủ đích hàng ngày.
Vì vậy, thông qua các giờ học có chủ đích giáo viên có thể lựa chọn các kỹ
năng tự phục vụ phù hợp với trẻ, phù hợp với bài dạy để lồng ghép vào trong
13


hoạt động nhằm phát triển khả năng tự lập, khả năng tự phục vụ bản thân, từ đó
phát huy tính tích cực, tính mạnh dạn tự tin, tính chủ động ở trẻ. Đây cũng chính
là một trong những biện pháp mà tôi đã áp dụng để giúp trẻ hình thành các kỹ
năng tự phục vụ và đã có kết quả.

+ Dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động khác:
Ngoài việc tổ chức các giờ chơi - tập có chủ đích, việc giúp trẻ hình thành
các kỹ năng tự phục vụ cần phải được tiến hành thường xuyên, ở mọi lúc, mọi
nơi, đây cũng chính là hình thức quan trọng để giúp trẻ hình thành các kỹ năng
tự phục vụ một cách tốt nhất vì nó rất phù hợp với đặc điểm của trẻ nhỏ. Bởi vì
với trẻ càng nhỏ thì việc giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi càng được đặc biệt chú
trọng. Trẻ dễ nhớ nhưng cũng chóng quên, nếu các kỹ năng của trẻ được tập
luyện thường xuyên và ở mọi lúc, mọi nơi thì các kỹ năng đó sẽ bền vững hơn.
Cô giáo có thể hướng dẫn, giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ ở hầu hết các thời
điểm trong ngày như: Khi đón, trả trẻ; cho trẻ ăn, cho trẻ đi vệ sinh; uống nước;
cho trẻ ngủ; giờ ngủ dậy, hoạt động học, giờ hoạt động vui chơi ở góc; dạo chơi
ngoài trời. Cô giáo có thể lồng ghép rất nhiều kỹ năng tự phục vụ vào trong các
hoạt động này để hình thành các kỹ năng tự phục vụ phù hợp với trẻ lứa tuổi
mẫu giáo lớn. Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích tự làm những công việc vừa sức
của mình để phục vụ cho bản thân. Hiểu được điều này, các cô luôn khuyến
khích trẻ rèn luyện tính tự lập ngay từ khi còn nhỏ.
Ví dụ: Trước giờ ăn cô dạy trẻ cách rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng đúng
cách, lồng ghép giáo dục các con rất hào hứng khi được giúp cô giáo những việc
đơn giản như: chuẩn bị bàn, ghế cho giờ ăn:

Trẻ tự rửa tay và chuẩn bị bàn ghế trước khi ăn
Trong giờ ăn, các bé được tập cách bê bát ăn cơm một cách cẩn thận về
chỗ ngồi của mình, cô dạy trẻ biết cầm thìa và tự xúc cơm ăn, biết ăn gọn gàng
không làm rơi cơm, biết nhặt cơm rơi vào khay, và sau khi ăn xong các bé biết
tự mang bát đến khu vực quy định, cất ghế sau khi ăn xong.
Sau khi ăn xong trẻ rửa mặt, biết lau miệng, đánh răng và uống nước:

14



Trẻ tự đánh răng và uống nước sau khi ăn cơm trưa
Khi cho trẻ uống nước tôi cũng đã tập cho các con biết tự lấy cốc uống
nước và cất cốc sau khi uống xong, sau một thời gian mỗi khi đi uống nước các
con biết tự lấy cốc và cất cốc đúng nơi quy định.
Trong giờ đi vệ sinh cô giáo dạy trẻ biết đi vệ sinh đúng chỗ, biết tự đi vệ
khi có nhu cầu.
Khi trẻ ăn quà bánh xong những ngày đầu tôi cũng hướng dẫn trẻ bỏ rác
vào thùng rác, từ đó mỗi khi có rác là trẻ biết bỏ rác vào đúng nơi quy định,
không vứt rác lung tung như trước nữa.
Ở giờ ngủ cô giáo cũng có thể giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ như
hướng dẫn trẻ biết lấy và cất gối đúng nơi quy định, biết gập chăn sau khi ngủ dậy.
Với giờ hoạt động góc, đây cũng chính là hoạt động mà cô giáo có thể giúp
trẻ hình thành một số kỹ năng tự phục vụ như trẻ biết xúc cho em bé ăn trong trò
chơi bế em, cất đồ chơi sau khi chơi xong, rèn kỹ năng gấp quần áo và lau dọn
giá đồ chơi sau khi chơi xong:

Trẻ học kỹ năng gấp quần áo và tự lau dọn giá đồ chơi
Khi cho trẻ hoạt động ngoài trời cô giáo có thể dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ
như biết lấy dép, đi dép, khi hoạt động ngoài trời xong cô hướng dẫn trẻ biết cất
dép lên giá dép.
15


Cô giáo hướng dẫn trẻ cất dép vào giá dép đúng nơi quy định
Trong giờ Hoạt động chiều, rèn cho trẻ kĩ năng quét nhà hay vắt nước cam:

Trẻ được rèn kỹ năng quyét nhà và vắt nước cam
Qua việc dạy trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ ở mọi lúc, mọi nơi, cô
giáo đã giúp trẻ hình thành được một số kỹ năng tự phục vụ phù hợp với khả
năng của mình.

* Giải pháp 5: Hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ qua việc động
viên, khích lệ, nêu gương
Chính những việc làm của người lớn thường ngày sẽ được trẻ chú ý quan sát và
ghi nhớ để thực hiện lại. Vì vậy, ngoài việc nâng cao tính tự giác, tự lập, trẻ còn
tạo dựng được tinh thần tập thể, biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh.
Đó có thể là những hành động nhỏ trẻ có thể hỗ trợ bạn bè trong giờ học hay giờ
hoạt động vui chơi. Đối với trẻ mới vào lớp chưa quen kỹ năng tự phục vụ bản
thân thì những trẻ đã được học trước sẽ trở thành người hướng dẫn cho bạn mới.
Những lúc như vậy các cô giáo luôn chú ý khen ngợi, động viên,

16


khuyến khích trẻ và trẻ luôn vui thích và cố gắng phát huy những kỹ năng tốt
này. Các cô luôn tạo điều kiện để trẻ học những kỹ năng sống vì những trải
nghiệm sẽ giúp trẻ thích ứng nhanh với môi trường xung quanh, phát triển tính
nhanh nhẹn, khả năng tư duy, ý thức tự giác và tinh thần tập thể.
Trong việc dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ, người lớn cần biết khen ngợi và động
viên trẻ kịp thời. Khi trẻ làm được một việc gì đó, cần khen ngay bằng những lời
biểu dương ngọt ngào, những phần thưởng mang ý nghĩa tinh thần hơn là vật chất
để khuyến khích, động viên trẻ. Chúng ta cần động viên, khuyến khích và khen
ngợi trẻ, tuy nhiên chúng ta cũng cần phải chú ý rằng không phải khi trẻ làm được
thì chúng ta mới khen trẻ, mà khi trẻ chưa làm được chúng ta cũng nên động viên
trẻ, khuyến khích trẻ để lần sau trẻ làm tốt hơn. Bởi trẻ nhỏ rất thích được khen
ngợi, không muốn bị chê, nên chúng ta cần biết khen ngợi và nhắc nhở động viên
trẻ sao cho trẻ không bị cảm thấy mặc cảm, thiếu tự tin, từ đó sẽ giúp trẻ sớm hình
thành được những kỹ năng tự phục vụ phù hợp với trẻ.
Nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành và hình thành ở trẻ một số kỹ
năng sống cơ bản, giáo viên không chỉ cho trẻ tiếp xúc từ từ với các loại kiến
thức văn hóa trong năm học, ,mà trên cơ sở hướng dẫn thực hiện các hoạt động

trải nghiệm khám phá, qua hoạt động góc, chơi thao tác vai và qua các hội thi...
giáo viên cần giúp trẻ có mối liên kết mật thiết giữa các bạn trong lớp, biết chia
sẻ, lắng nghe, diễn đạt được ý của mình. Việc thường xuyên đưa ra những gương
về những việc làm tốt của các bạn cũng giúp kích thích sự ham muốn giống được
khen như bạn ở trẻ và từ đó trẻ cũng sẽ có nhu cầu làm những việc giống như bạn
để được người lớn khen. Điều này tốt nhất là nên làm vào thì điểm bình cờ cuối
ngày, lúc này cô giáo nêu ra những việc tốt mà trẻ đã làm được trong ngày có cả
việc tự phục vụ bản thân như: Cất dọn đồ chơi; tự xúc cơm ăn; Biết xếp dép gọn
gàng khi đến lớp…Ví dụ: Hôm nay cô thấy bạn Anh Thư rất tiến bộ, bạn đã biết
tự xúc cơm ăn và ăn hết cơm, bạn xúc rất gọn gàng, không làm rơi vãi ra bàn.
Mong muốn được khen ngợi đã trở thành một nhu cầu thực sự của trẻ, và
trẻ cố gắng hết sức để đạt được điều đó. Nhờ đó mà trẻ có thể bỏ được một số
thói quen xấu, học được những tính tốt. Do đó tôi đã thường xuyên khen ngợi ,
động viên trẻ khi trẻ làm được những việc tốt. Ví dụ: Khi trẻ chơi đồ chơi xong,
bé Minh Nhật đã biết cất đồ chơi vào đúng nơi quy định, tôi đã động viên, khen
ngợi ngay lúc đó để trẻ thấy vui và các bạn khác cũng học theo.
Hay trong giờ đón trẻ, có một bạn đã biết cất dép rất gọn lên giá dép, biết
tự cất ba lô vào đúng tủ của mình, tôi đã khen trẻ ngay và tôi nói với các bạn
trong lớp về việc làm của bạn đó để từ đó kích thích các bạn khác cũng thích
làm giống bạn.
Trong năm học vừa qua từ khi thực hiện đề tài tôi đã áp dụng giải pháp là
hàng ngày tôi quay lại những việc làm của từng trẻ ở lớp, sau đó cuối tuần tôi cho
trẻ xem lại hình ảnh về các việc làm của từng trẻ để cá nhân trẻ, cũng như các bạn
trong lớp nhìn thấy được những việc mà mình và các bạn làm được. Tôi đã khen
ngợi và tuyên dương trẻ. Từ đó trẻ nào chưa làm được cũng muốn làm được giống
bạn vì ở tuổi này trẻ rất thích được bắt chiếc mọi người xung quanh, điều này giúp
trẻ có thể nhanh chóng có được một số kỹ năng tự phục vụ phù hợp với trẻ.
17



Một đứa trẻ được giáo dục tốt luôn luôn có nguyện vọng được trở thành “bé
ngoan” để được người lớn khen. Nhu cầu đó dẫn đến sự phát triển tinh thần tự
trọng và có tác dụng làm cho hành vi của trẻ trở lên tốt đẹp. dựa vào đặc điểm
tâm lý này mà tôi đã làm tốt biện pháp trên giúp trẻ sớm có được những kỹ năng
tự phục vụ phù hợp với mình.
* Giải pháp 6: Thực hiện xã hội hóa giáo dục, phối hợp nhà trường, gia
đình và xã hội trong chăm sóc, giáo dục, rèn luyện kỹ năng tự phục vụ ở cho trẻ
Trong việc dạy trẻ một số kỹ năng tự phục vụ, việc phối hợp giữa gia đình
trẻ và cô giáo là rất quan trọng. Dạy ở trường ko đủ Bố mẹ cũng có thể trở thành
người hướng dẫn trực tiếp cho trẻ tại nhà, giúp trẻ rèn luyện những kỹ năng này
dễ dàng và nhanh chóng hơn Dù cho các cô ở trường có yêu thương bé như thế
nào thì việc chăm sóc - giáo dục các bé cũng khó đem lại hiệu quả nếu thiếu đi
sự hỗ trợ, phối hợp từ các bậc cha mẹ. Vậy nên, để đạt được hiệu quả cao nhất,
các bậc phụ huynh nên chú ý kết hợp với các cô để dạy dỗ bé, rèn luyện các kỹ
năng cho bé, việc thống nhất về các kỹ năng cần dạy cho trẻ không chỉ có ở
trường lớp mà cha mẹ trẻ và cô giáo cần có sự thống nhất và phối hợp cùng với
nhau để giúp trẻ sớm hình thành được những kỹ năng cần thiết, phù hợp với trẻ.
Đều này rất cần thiết cho sự hình thành và phát huy các kỹ năng tự phục vụ ở
mỗi trẻ, để bé nhận được sự quan tâm tốt và các điều kiện tốt nhất cho sự phát
triển về sau.
Ví dụ: Khi ở nhà cha mẹ có thể hướng dẫn cho trẻ biết thu dọn đồ chơi khi
chơi xong, biết rửa mặt, rửa tay bằng xà phòng đúng cách, dạy trẻ biết xúc cơm,
dạy trẻ biết cất gọn đồ dùng cá nhân như dép, mũ, ba lô, dạy trẻ biết tranh xa
những nơi nguy hiểm…Khi đưa con đến lớp cha mẹ cũng hướng dẫn các con
biết để dép lên giá dép, biết cất ba lô vào ngăn tủ của mình:

Phụ huynh hướng dẫn con cất dép vào giá dep và ba lô vào đúng tủ đồ
Trong sự phối hợp này, các cô giáo của trường mầm non cần chủ động lên
kế hoạch. Vì cô giáo là người được trang bị những tri thức khoa học nuôi dạy
trẻ, là người gần gũi trẻ suốt cả ngày nên có thể phát hiện ra những kỹ năng nào

cần cho trẻ, phù hợp với trẻ. Từ đó có giáo viên có thể tìm ra các biện pháp giáo
18


dục, cách giải quyết phù hợp với quy luật phát triển của trẻ.
Sự kết hợp giữa giáo viên với cha mẹ trẻ trong việc giáo dục có thể tiến
hành ở nhiều lúc, nhiều nơi, nhưng ở thời điểm nhận trẻ và trả trẻ là thuận lợi
hơn hết. Trong thời gian đó, cô giáo có thể tranh thủ trao đổi với cha mẹ trẻ về
kỹ năng tự phục vụ của trẻ ở nhà, cũng như ở lớp. Tìm hiểu xem trẻ đã có những
kỹ năng tự phục vụ nào rồi, hay chưa có kỹ năng tự phục vụ để cùng với cha mẹ
trẻ phối hợp giúp trẻ hình thành các kỹ năng tự phục vụ phù hợp với trẻ. Ngược
lại, các bậc cha mẹ cũng nên tranh thủ dịp này để phản ánh cho cô giáo biết về
kỹ năng tự phục vụ của con mình, nhằm phối hợp với giáo viên để hình thành
các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ có hiệu quả hơn.
Tại lớp, cô giáo trang bị một góc nhỏ bảng thông tin tuyên truyền về các kỹ
năng tự phục vụ cần thiết đối với học sinh mầm non dành cho phụ huynh. Bên cạnh
đó, cô yêu cầu phụ huynh mạnh dạn giao những công việc nhà vừa sức để các em
thực hiện. Ngoài ra, cô cũng chủ động lắng nghe ý kiến đóng góp, trao đổi của phụ
huynh để từ đó có sự điều chỉnh kịp thời những thiếu sót của bản thân…
Thông qua việc phối hợp với hài hòa giữa phụ huynh và cô giáo mà đã giúp
trẻ hình thành một số kỹ năng tự phục vụ rất tốt. Có phụ huynh đã nói với tôi
rằng: Cô giáo ạ! từ ngày đến lớp đến giờ con có nề nếp hơn hẳn sáng ra ngủ dậy
là đòi đến lớp, rồi còn tự lấy mũ, khẩu trang, ba lô ra để đi học, khi đến lớp còn
biết tự cất dép cất ba lô nữa cô ạ! Có phụ huynh lại nói con tôi ngày trước ở nhà
chưa biết tự xúc cơm ăn bao giờ thế mà từ ngày đến lớp đến giờ về nhà đến bữa
ăn là biết đi rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng ăn cơm không cho ai bón mà đòi tự
xúc cơm ăn, ăn xong lại còn biết xúc miệng bằng nước muối và đi rửa tay nữa
đấy. Mà bây giờ về nhà có lúc thấy mọi người để dép chưa gọn gàng thế là con
tự ra xếp gọn lên giá đấy cô ạ! Thấy phụ huynh nói vậy tôi cảm thấy rất vui, vì
nhờ có sự phối hợp tốt giữa cô giáo và phụ huynh mà đã có được những kết quả

như vậy.
* Giải pháp 7: Thường xuyên kiểm tra đánh giá hoạt động giáo dục kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ
Trong công tác giáo dục trẻ ở trường mầm non, kiểm tra vừa là một chức
năng quan trọng vừa là biện pháp có hiệu quả. Việc đánh giá hoạt động giáo dục
kỹ năng tự phục vụ cho trẻ một cách thường xuyên sẽ giúp bản thân tôi rút ra
được những bài học bổ ích, có những điều chỉnh hoặc cải tiến các hoạt động tiếp
theo đạt hiệu quả hơn.
Có thể tiến hành các hình thức như sau để tiến hành kiểm tra, đánh giá:
khảo sát trực tiếp trẻ; trò chuyện trao đổi trực tiếp với trẻ, với phụ huynh. Trực
tiếp kiểm tra việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ thông qua chế độ sinh
hoạt hàng ngày của trẻ: đón trẻ, chơi, thể dục sáng; tổ chức giờ hoạt động học có
chủ định; Hoạt động chơi các góc chơi; Hoạt động ngoài trời; tổ chức giờ ăn; giờ
ngủ; hoạt động chiều, tổ chức ăn phụ, trả trẻ. Hoặc có thể trực tiếp trò chuyện
với trẻ, làm trắc nghiệm nhỏ bằng hệ thống các câu hỏi, hỏi trẻ và yêu cầu trẻ
thực hiện một số kỹ năng phù hợp độ tuổi. Trên cơ sở đó xem xét và phân tích
thực tế, thông tin phản hồi từ trẻ. Việc đánh giá hoạt động giáo dục cho trẻ một
cách thường xuyên sẽ giúp bản thân tôi rút ra được những bài học
19


bổ ích, có những điều chỉnh hoặc cải tiến các hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả
hơn. Khi tiến hành kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính công khai, chính xác,
khách quan. Giáo viên cần động viên, khen thưởng kịp thời đối với những kỹ
năng tự phục vụ tốt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
+ Đối với trẻ:
Sau khi áp dụng các biện pháp trên, kết quả giáo dục kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ lớp tôi đã có những chuyển biến rõ dệt. Tôi tiến hành khảo sát trên trẻ,
kết quả khảo sát lần 2 thu được như sau:

Kết quả trên trẻ

Đạt
Số trẻ Tỷ lệ %
32
100
32
100
32
100

Tiêu chí
Kĩ năng bảo vệ môi trường
Kĩ năng vệ sinh trong sinh hoạt cá nhân
Kĩ năng tự bảo vệ mình trước người lạ
Kĩ năng phục vụ sinh hoạt cá nhân của
32
bản thân ở mọi lúc mọi nơi

100

Chưa đạt
Số trẻ Tỷ lệ %
0
0
0
0
0
0
0


0

Kết quả khảo sát trên cho thấy 100% trẻ đã có kiến thức, kỹ năng và thái độ
với các hoạt động rèn luyện kỹ năng tự phục vụ. Kết quả này đã chứng minh cho
ưu điểm của việc thực hiện có hiệu quả các biện pháp trên.
+ Đối với bản thân:
Sau một năm thực hiện đề tài này, bản thân tôi cũng có thêm những kiến
thức về giáo dục kỹ năng tự phục vụ quý giá: Luôn đặt vấn đề giáo dục kỹ năng
tự phục vụ của trẻ lên hàng đầu bằng cách coi trọng việc tổ chức các hoạt động
rèn luyện kỹ năng cho trẻ cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Nhận thức rõ vai trò của
giáo viên- là người mẹ thứ 2 của trẻ phải yêu thương tôi trọng trẻ như con, em
của mình. Luôn là tấm gương để trẻ noi theo trong mọi hoàn cảnh, tình huống dù
là nhỏ nhặt nhất. Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh… Có thêm một
số kinh nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng tự
phục vụ thông qua các hoạt động được tổ chức hàng ngày. Bên cạnh đó, qua
việc tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ vho trẻ bản thân tôi có thêm
vốn tư liệu, sưu tầm thêm được các bài tập, trò chơi, tích cực chủ động lựa chọn
các bài tập, các trò chơi phù hợp với độ tuổi 5- 6 tuổi, với chủ đề,...từ đó nâng
cao chất lượng giáo dục kỹ năng tự phục cho trẻ.
+ Đối với đồng nghiệp:
Sau khi áp dụng thành công các biện pháp trên, tôi thấy trẻ lớp tôi đã biết ý
nghĩa và phát triển kỹ năng tự phục vụ phù hợp với lứa tuổi. Các bạn đồng
nghiệp sẽ học tập được những phương pháp này để áp dụng khi giáo dục kỹ
năng tự phục vụ cho trẻ thông qua hoạt động cho trẻ lớp mình, nhờ đó mà kết
quả giáo dục kỹ năng tự phục cho trẻ ở trường chúng tôi được nâng lên rõ rệt.
+ Đối phụ huynh:
Sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ huynh nhận thấy rõ con
em mình khỏe mạnh, hoạt bát, mạnh dạn, tự tin khi tham gia hoạt động vì thế
phụ huynh đã rất vui mừng, phấn khởi, tin vào kết quả giáo dục của nhà trường.

20


Các bậc phụ huynh đã nhiệt tình hưởng ứng, phối hợp cùng với giáo viên
như đóng góp tranh ảnh...có nội dung về các kỹ năng tự phục vụ, đồ dùng,
nguyên liệu,…để các đồ dùng, đồ chơi rèn kỹ năng, quan tâm hơn đến quá trình
chăm sóc giáo dục của nhà trường với con em mình. Bản thân các bậc phụ
huynh nắm được một số kiến thức về giáo dục kỹ năng tự phục vụ, tôn trọng trẻ
và là tấm gương cho trẻ trong mọi tình huống cho trẻ noi theo.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được, tôi rút ra một số kinh
nghiệm sau:
- Giáo viên cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ, đồng thời xây dựng tình huống thực tế cho trẻ trãi nghiệm và
việc lựa chọn các tình huống đó phải gần gũi, thiết thực với cuộc sống của trẻ,
với khả năng của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được vận dụng kiến thức mà giáo
viên đã cung cấp vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống hàng ngày.
- Việc tổ chức các hoạt động giáo dục phải lấy trẻ làm trung tâm, trẻ phải
được trải nghiệm, khuyến khích sự tích cực ở trẻ và phải biết lắng nghe ý kiến
của trẻ trên cơ sở đó cùng trẻ đúc kết những kinh nghiệm để xử lý tình huống
hiệu quả nhất trong từng trường hợp.
- Để đảm bảo tính liên tục thì cần phải dạy kỹ năng này ở mọi lúc mọi nơi
và biết tận dụng tối đa các tình huống thông qua các hình thức để giáo dục trẻ.
- Thực hiện tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh để giúp trẻ tiếp cận và
lĩnh hội các kỹ năng cơ bản một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất.
3.2. Kiến nghị :
Trong quá trình giảng dạy, tôi có một số ý kiến đề xuất sau:
+ Đối với nhà trường:
Cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với chính quyền địa phương đầu tư

xây dựng những môi trường học tập thân thiện với trẻ, tạo cho trẻ những không
gian vui chơi an toàn ngay tại trường và tăng cường về cơ sở vật chất tạo điều
kiện cho việc tổ chức hoạt động dạy và học tốt hơn.
+ Đối với phòng giáo dục:
Là giáo viên đứng lớp nhưng khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào
việc giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ và các hoạt động khác còn hạn chế bởi
trình độ sử dụng thiết bị tin học của bản thân còn thấp. Tôi mong muốn có một
lớp học tổ chức vào thời gian hợp lý để giáo viên được tham gia học tập, nâng
cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức các hoạt động cho
trẻ, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục.
+ Đối với Sở giáo dục:
Tuyển chọn và giới thiệu những tiết dạy hay, giáo án hay, sáng kiến kinh
nghiệm tốt đưa lên trang giáo dục để giáo viên có cơ hội học hỏi. Đồng thời mở
những lớp học về kỹ năng sống, các kỹ năng tự phục vụ cần thiết dạy trẻ theo
từng độ tuổi và cách lồng ghép vào các hoạt động để cho tất cả giáo viên được
tham gia học tập.

21


Thuật ngữ “Kỹ năng sống – kỹ năng tự phục vụ” đã quá quen thuộc với
các phụ huynh có con nhỏ đúng không nào[11]. Kỹ năng tự phục vụ là một trong
những kỹ năng sống vô cùng quan trọng và cần thiết đối với trẻ ở mọi lứa tuổi.
Kỹ năng tự phục vụ là yếu tố quan trọng có thể giúp trẻ tăng cường tính độc lập
và cảm giác về sự thành công. Khi trẻ có kỹ năng tự phục vụ, trẻ ý thức được sự
cần thiết của việc tự phục vụ bản thân, biết tự chăm sóc mình, tăng cường tính
độc lập, trẻ sống có trách nhiệm hơn đối với chính mình, dạy trẻ biết quan. Vì
vậy giáo dục kỹ năng tự phục vụ trong trường mầm có vai trò rất quan trọng.
Bởi vì việc hình thành được kỹ năng tự phục vụ của trẻ ngày mai phụ thuộc vào
chính hành động của trẻ ngày hôm nay. Tình trạng trẻ thiếu kỹ năng tự phục vụ

đã xảy ra trên phạm vi toàn cầu, tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia. Trẻ em
hôm nay phải lớn lên trong một thế giới đang chịu ảnh hưởng nặng nề của quá
trình toàn cầu hóa, công nghệ số. Việc nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ là góp phần tạo điều kiện cho trẻ em- những mầm non khỏe mạnh
và sẵn sàng vươn lên được sống trong môi trường thân thiện, tích cực.
Tôi mong rằng, những biện pháp tôi đã áp dụng sẽ được phổ biến và thu
được kết quả cao. Đề tài không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Rất mong được
sự góp ý bổ sung của hội đồng khoa học giáo dục các cấp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 17 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác

Người viết sáng kiến

Thiều Thị Lan Anh

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. www. Siters. Goole.com. Hiểu biết là nền tảng của kĩ năng (2012)
2. Đỗ Thị Bắc (2015), Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục: Giáo dục kĩ
năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở trường mầm non thành phố Thái
Nguyên..
3. www. Vi. Bassicefinitions. Org. Định nghĩa tự phục vụ
4. www.kynaoforkid.vn. Dạy trẻ kĩ năng tự phục vụ những điều phụ huynh cần
biết (2019).

5. www. VietNamUstralia.Internation school( 2014), Dạy con kĩ năng tự
phục vụ bản thân.
6. www. Text.123.doc.net ( 2019), Cơ sở lý luận về tổ chức giáo dục kĩ
năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo dựa vào cộng đồng.
7. www. Tratu.soda.com
8. Thiều Thị Lan Anh (2018), SKKN: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng
phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ 5-6 tuổi ở trường MN Đông Tân.
9. Kế hoạch rèn kĩ năng tự phục vụ (2017), trường MN Phương Trung II,
Phòng GD&ĐT huyện Thanh Oai, Hà Nội.
10. www. Vietinfo.Vuahocvualam.com(2017), Giáo dục lao động cho trẻ
em lứa tuổi mầm non.
11. www. Kids. Oline. 12 kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non.
12. https:// dienbien.edu.vn (2017), Đảm bảo an toàn, phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non, Sở Giáo dục và Đào tỉnh
tạo tỉnh Điện Biên.
13. Nghị quyết 29, HN lần thứu 8, BCH TW Đảng khóa XI.
14. Trần Lệ Thùy (2012), Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm
non tại trường Mầm non Sao Mai, Khoa giáo dục tiểu học,trường Đại Học Sư
Phạm Hà Nội 2.
15. www. https:// theki.vn(2019), Suy nghĩ về tình trạng thiếu kỹ năng sống
của giới trẻ ngày nay.
16. Sáng kiến kinh nghiệm (2016): Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự
phục vụ cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi cá biệt”, Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội.

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT VÀ

CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả : Thiều Thị Lan Anh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường mầm non Đông Tân
Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá
Năm học
xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá
(Phòng, Sở,
(A, B
xếp loại
Tỉnh…)
hoặc C)
1

Một số kinh nghiệm dạy kỹ
năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi
ở trường mầm non Đông
Tân

Phòng GD & ĐT
Thành phố

B

2012 – 2013


2

Một số biện pháp giáo dục
an toàn giao thông cho trẻ 5
- 6 tuổi

Phòng GD & ĐT
Thành phố

B

2013 – 2014

3

Một số biện pháp giá nâng
cao chất lượng giáo dục lễ
giáo cho trẻ 5 - 6 tuổi

Phòng GD & ĐT
Thành phố

B

2014 – 2015

4

Một số biện pháp giúp trẻ 4

- 5 tuổi học tốt môn làm
quen với văn học ở trường
mầm non Đông Tân

Phòng GD & ĐT
Thành phố

B

2015 – 2016

5

Một số biện pháp giáo dục
bảo vệ môi trường cho trẻ 5
- 6 tuổi ở trường mầm non
Đông Tân

Phòng GD & ĐT
Thành phố

A

2016 – 2017

6

Một số biện pháp giáo dục
kỹ năng phòng tránh tai nạn
thương tích cho trẻ 5 - 6

tuổi ở trường mầm non
Đông Tân

Sở GD & ĐT
Thanh Hóa

C

2017 – 2018

7

Một số biện pháp phát triển
thể chất cho trẻ 5-6 tuổi qua
trò chơi vận động ở tường
mầm non Đông Tân

Sở GD & ĐT
Thanh Hóa

C

2018 – 2019

24



×