Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CHÍNH SÁCH CÔNG thực tiễn công tác đánh giá chính sách ở việt nam hiện nay và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.52 KB, 19 trang )

Đề 5: Chứng minh đánh giá chính sách là cần thiết trong quy trình chính
sách? Trình bày thực tiễn công tác đánh giá chính sách ở Việt Nam hiện
nay và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
Chính sách công là quyết định của các chủ thể quản lý và chế định hoạt động
của những đối tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề nhất định mà xã hội
đặt ra. Đó là tổng thể các chuẩn mực, biện pháp, thủ thuật mà nhà nước sử
dụng để quản lý xã hội.
Đánh giá chính sách công là việc xem xét mức độ đạt được mục tiêu đề ra
(hiệu quả kinh tế, - xã hội của một chính sách) làm căn cứ cho việc lựa chọn và
hoàn thiện chính sách công.
Đánh giá chính sách công có nhiệm vụ: sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính
sách; rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết … Đánh giá chính sách công để
trả lời các câu hỏi: Chính sách đó có cần thiết hay không? Mục đích của chính sách
là gì? Chính sách đã tác động đến đối tượng ra sao?, hiệu quả thế nào? Ai đánh giá
tác động? Các phản hồi của chính sách là gì? Những tiêu chuẩn để đánh giá chính
sách? Chính sách đó nên tiếp tục duy trì, phát triển hay chấm dứt?
Đánh gia chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả thu được
khi thực hiện chính sách công.
Nghiên cứu, đánh giá chính sách công thường tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
Một là, xem xét vấn đề một cách tổng thể, trên bình diện quốc gia, liên quan
đến vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội.
Hai là, đánh giá thực hiện chương trình chính sách.
Ba là, đánh giá kết quả chính sách.
1


Đánh giá chính sách công là giai đoạn cuối cùng trong quy trình chính sách
nhưng trên thực tế, đánh giá chính sách công được thực hiện trong suốt quá trình
chính sách.
Đánh giá chính sách công bao gồm đánh giá kết quả thực tế triển khai chính
sách cũng như việc đánh giá về bản thân quá trình triển khai để tổng kết các kinh


nghiệm. Việc đánh giá chính sách trước và sau khi triển khai có ảnh hưởng sống
còn đối với một chính sách, không những trên phương diện vật chất mà còn cả về
uy tín và sinh mạng chính trị của các chủ thể liên quan.
Đánh giá chính sách công là công việc khó khan, phức tạp, bởi các lý do:
Một là, thực thi chính sách công luôn là một quá trình biến động theo những
điều kiện cụ thể trong thực tế, nên rất khó xác định được một căn cứ nhất định để
đánh giá.
Hai là, các mục tiêu ban đầu đặt ra cho chính sách công nhiều khi thiếu phân
minh, cụ thể và hiếm khi đạt được sự đồng thuận hoàn toàn từ các bên tham gia. Vì
thế, cơ sở của đánh giá chính sách công là mơ hồ.
Ba là, khó khăn để đạt đến sự thống nhất giữa người quản lý và người đánh giá
trong vấn đề xác định đầu ra.
Tóm lại: Đánh giá chính sách cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách
những kinh nghiệm, bài học trong việc ban hành chính sách; xem xét tính hợp lý
của chính sách; cung cấp cách nhìn, bài học thực tiến trong việc thực hiện chính
sách; góp phần tổng kết thực tiễn, hoàn thiện chính sách thông qua việc rút ra
những thiếu sót của các chính sách để bổ sung cho chính sách mới.
Các đặc trưng của đánh giá chính sách công:
Đánh giá chính sách công tập trung vào việc phán xét các giá trị thu được.
2


Đánh giá chính sách công căn cứ vào kết quả thực tế.
Tác dụng của việc đánh giá chính sách công:
Một là, nuôi dưỡng, thuc đẩy sự phát triển của chính sách.
Hai là, tăng cường tính hiệu quả của chính sách.
Ba là, xác định, đo lường các kết quả thực hiện chính sách.
Bốn là, xác định mực độ thỏa mãn của các đối tượng chính sách.
Năm là, cải tiến chính sách.
Các kiểu đánh giá chính sách: Có 3 kiểu đánh giá chính sách, đó là: Đánh giá

chính trị, đánh giá kỹ thuật và đánh giá toàn diện.
Các hính thức đánh giá chính sách công: Đánh giá theo phương pháp chuyên
môn, đánh giá dự trên cơ sở so sánh các kết quả thu được với những mục tiêu và
chỉ tiêu mà cơ quan hoạch định và thực hiện chính sách đã công bố và cuối cùng là
đánh giá thông qua thăm dò ý kiến các đối tượng của chính sách.
* Thực tiễn công tác đánh giá chính sách ở Việt Nam hiện nay và phân tích
nguyên nhân của thực trạng đó:
Cùng với hoạch định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là một
khâu không thể thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự coi trọng
trong thực tiễn Việt Nam.
Chính sách công là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được hiện
thực hóa.

3


Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản:
hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam, lâu
nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính sách, song
việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi
ban hành và thực thi một chính sách công. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách
công được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và đánh giá
chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này có phù
hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế
nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện trong các quy định
pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động
của nhà nước. Do đó, đánh giá chính sách công sẽ bao quát việc xem xét về tổng

thể các quyết định của nhà nước (chính phủ trung ương và chính quyền địa
phương) trong việc giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn quản lý
nhà nước. Đánh giá chính sách cho phép xem xét, nhận định không chỉ về nội dung
chính sách, mà còn về quá trình thực thi chính sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh
phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những nhân tố,
môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời gian khá
dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế, nhằm tạo
các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng loạt văn
bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp,
thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối cùng là sự chi phối
của chúng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội theo các chiều khác nhau, khiến
cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói cách khác,
hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc chính sách đó
4


có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu thì dường như
không được quan tâm. Đôi khi chính sách được ban hành chẳng những không giải
quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm
vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn
đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết
được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu
phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế,
việc hoạch định chính sách (thông qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn
bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn
tiền của của nhân dân và sức lực của không ít người, song nhiều khi các chính sách
này không đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần
coi đánh giá chính sách như một khâu không thể thiếu trong quy trình chính sách.

Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước ta,
nhiều chính sách không được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát từ các lý
do sau đây:
1. Nhận thức về đánh giá chính sách còn đơn giản. Điều đó được biểu
hiện:
Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể chế
hóa trong văn bản pháp luật, song không thể đồng nhất chính sách với một văn bản
đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những chính sách bộ
phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính sách hỗ trợ người
nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách miễn giảm học phí
cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo… Do đó,
việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, đòi hỏi có cách nhìn tổng thể.
Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ đợi
khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh giá.
5


Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với đánh
giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến diện: hoặc
cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm trong khâu thực
thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính sách bằng cách đổ lỗi
cho sự không phù hợp của các quy định pháp luật.
2. Các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá chính
sách.
Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm túc, bài
bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ trì tổ
chức thực hiện chính sách) không đưa việc đánh giá chính sách vào chương trình
hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều nguyên nhân của tình trạng này: do không
có đủ nhân lực, không có nguồn lực tài chính để đánh giá, do chính sách được thực
hiện rất “bình lặng” không gây ra vấn đề gì, do bản thân các cơ quan này không

muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban hành và thực thi… Đương nhiên,
việc đánh giá chính sách không chỉ do các cơ quan nhà nước tiến hành. Các đánh
giá chính sách có thể được phản ánh qua công luận, qua ý kiến của nhân dân, của
các tổ chức chính trị – xã hội. Song sự đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ có giá
trị thực sự nếu được các cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm.
Trong không ít trường hợp, sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu
thiếu sự chủ trì của các cơ quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động
đến các nhà hoạch định và thực thi chính sách.
3. Việc xem xét lại chính sách đôi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện “vấn
đề”.
Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình yên” trong một thời gian
dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được những “lỗ
hổng” của chính sách.
6


4. Thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học.
Khi đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục
tiêu chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu
chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân
số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường… Song, trên thực tế đa số các
mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu không
rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có thể
không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về nguyên
tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính sách. Việc
thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá không toàn diện, đầy đủ, mang
tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ 22% năm 2005
xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Song, nếu đi
vào đánh giá tác động có nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, khi

đánh giá chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến phản hồi từ
nhân dân hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi, công khai. Trong một số
trường hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ các
phương tiện truyền thông, hay tổ chức các buổi đóng góp ý kiến thông qua các
đoàn thể chính trị – xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào các ý kiến này cũng phản
ánh đầy đủ và chính xác những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính
sách được đánh giá.

6. Thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách.

7


Các cơ quan thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các
công việc mới (nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét
lại những gì đã làm.
Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách công
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một
số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những chính sách quan
trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời sống, đến lợi ích của nhiều
người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết để hoàn thiện chính sách, tránh
các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh những phản ứng ngược lại với mong
muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch đánh giá chính sách và xây dựng lịch trình
đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ
thể tham gia, các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần
tổng kết việc đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết. Tổ
chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với những sai sót về nội dung chính sách và
những hạn chế, vướng mắc trong thực thi chính sách.
Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và đúng đắn.
Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác nhau. Thông

thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện sau đây:
Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính
sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của Nhà
nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được các mục tiêu đề ra.
Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do
chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí – lợi ích
thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu không quan tâm
tính toán hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thoát tiền của và kinh phí từ ngân sách
nhà nước.
8


Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, Nhà nước
thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời trợ giúp cho
các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già, trẻ em và người tàn tật
để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm xã hội. Tính công
bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi phí và lợi ích, các
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực thi chính sách và các
nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng lợi từ
chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết quả cuối cùng
của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh giá chính sách công.
Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu khó khăn nhất trong đánh
giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường. Chẳng hạn, để
đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến đối tượng người nghèo như thế
nào, cần xem xét việc người nghèo được hưởng những lợi ích gì từ chính sách của
Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp họ thoát nghèo đến đâu. Việc đánh giá tác động
này không thể căn cứ vào những ý kiến chủ quan của các cấp chính quyền, mà phải
được đo lường bằng mức độ hài lòng của người dân về các lợi ích được hưởng. Cần
tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người dân, đối tượng hưởng lợi

từ chính sách. Kinh nghiệm thành công của các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách
hàng về việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng là những minh chứng có giá trị trong việc đánh giá mức độ hưởng lợi của các
đối tượng chính sách.
Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng khởi
nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách – đó là nhu cầu xã hội hay mâu thuẫn
trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải quyết nhằm đạt
tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu giải quyết vấn đề của
chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính sách. Tuy nhiên, đôi khi mục
9


tiêu được đề ra quá rộng, chung chung, không rõ ràng, khi đó dù các chính sách có
được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề ra, thì cũng rất khó xác định vấn đề
chính sách đã được giải quyết đến đâu. Hơn nữa, vấn đề chính sách thường có ảnh
hưởng đến nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức độ giải quyết vấn
đề chính sách có thể đo lường được bằng một loạt tiêu chí liên quan đến các khía
cạnh kinh tế – xã hội này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải quyết vấn đề đói,
nghèo, sẽ không thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống bao nhiêu phần trăm,
mà còn phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo được tiếp cận như thế
nào đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục, nước sạch; việc tạo điều
kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của công dân…
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy
được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách. Việc đánh giá
chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực trạng các thành
công và yếu kém của chính sách. Song, không chỉ chờ đến khi các cơ quan chức
năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới bộc lộ ra. Các phương
tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng góp của các tổ chức quần
chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính sách. Việc quan tâm theo dõi và
tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp cáccơ quan chức năng của Nhà nước định

hướng việc đánh giá chính sách. Những ý kiến nói trên cũng sẽ tạo cơ sở đề hình
thành các đề xuất nhằm tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung chính sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song
tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập, khách quan theo
mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Thứ năm, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách. Việc bỏ
ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó cho đánh giá
10


chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho quá trình tiếp tục vận hành chính sách
trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách và bảo
đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống.
Kết luận:
Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá các
chính sách công ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh giá
chính sách công giúp Nhà nước xác định được các bất cập trong đời sống kinh tế –
xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó.

11


Câu 12:
Phân tích các phương pháp thực hiện chính sách? Lựa chọn một chính
sách công mà anh (chị) quan tâm và cho biết các chủ thể thực hiện đã thực hiện
các phương pháp trong thực hiện chính sách đó như thế nào?
Bài làm

A. Phân tích các phương pháp thực hiện chính sách

Phương pháp thực hiện chính sách là những cách thức mà chủ thể sử dụng tổ
chức triển khai các chính sách. Đó là tổng thể các cách thức tác động có chủ đích
của chủ thể quản lý lên đối tượng chính sách để đạt được các mục tiêu chính sách
đặt ra. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu trong thực thi chính sách:
Phương pháp kinh tế: là cách thức tác động có chủ đích và biện pháp chi
phối trực tiếp lên các đối tượng tham gia thực hiện chính sách bằng các lợi ích (vật
chất và phi vật chất) để thực hiện mục tiêu chính sách. Thực chất của phương pháp
kinh tế là đặt các cá nhân và tổ chức bào trong những điều kiện kinh tế để họ có
khả năng kết hợp đúng đắn lợi ích của mình. Nhờ tác động của các lợi ích kinh tế,
các đối tượng tự lựa chọn phương án hành động có hiệu quả nhất để thực hiện
nhiệm vụ, biến sự thụ động của con người thành chủ động, sáng tạo.
Đây là phương pháp liên quan trực tiếp đến lợi ích của các nhóm đối tượng
chính sách, nên nó có tác động rất mạnh so với các phương pháp khác. Phương
pháp kinh tế thường được sử dụng cho các chính sách phát triển kinh tế của một
quốc gia. Trong điều kiện thực hiện theo nền kinh tế thị trường ở nước ta, phương
pháp kinh tế được sử dụng rộng rãi không chỉ cho các chính sách kinh tế mà cho cả
các chính sách xã hội. Mặc dù được sử dụng phổ biến, nhưng phương pháp kinh tế
không thể thay thế các phương pháp khác. Đồng thời khi sử dụng các phương pháp
kinh tế, chủ thể quản lý phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện để lợi
ích cá nhân và phân hệ phù hợp với lợi ích chung của cả hệ thống. Việc áp dụng các
12


phương pháp kinh tế luôn gắn với việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: giá cả, lợi
nhuận, tín dụng, lãi suất, tiền lương, tiền thưởng. Nhìn chúng, sử dụng các phương
pháp kinh tế có liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng các quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Phương pháp giáo dục, thuyết phục:
Là cách thức tác động lên đối tượng và quá trình chính sách bằng biện pháp
tâm lý, tư tưởng; tạo ra môi trường đồng thuận về mặt tinh thần trong quá trình
thực hiện chính sách. Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật

tâm lý, tác động vào nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực hiện
nhiệm vụ. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho con
người phân biệt được phải – trái, đúng – sai, lợi – hại, đẹp – xấu, thiện – ác, từ đó
giúp cho đối tượng nâng cao tính tự giác và nhiệt tình, tham gia một cách tự nguyện
vào việc thực hiện mục tiêu chung.
Phương pháp giáo dục thường được kết hợp với các phương pháp khác một
cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sát đến từng người. Khi nền
kinh tế chưa phát triển, các nhà nước thường sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết
phục và phương pháp hành chính.
Phương pháp hành chính:
Là cách tác động mang tính pháp quyền của Nhà nước lên các hoạt động và
quan hệ xã hội nhằm hướng các hành vi xã hội đạt tới các mục tiêu chính sách đã
đề ra. Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động lên đối tượng và quá trình
chính sách bằng quyền lực (cưỡng chế), được thể hiện thông qua tác động trực tiếp
của người lãnh đạo lên tập thể những người dưới quyền bằng quyết định dứt khoát,
mang tính bắt buộc. Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết
định, đòi hỏi mọi người phải chấp hành nghiêm ngặt, nếu bi phạm sẽ bị xử lý kịp
thời, thích đáng. Vì như vậy, các phương pháp hành chính được xem là cần thiết
trong trường hợp hệ thống bị rơi vào tình huống khó khan, phức tạp. Trong trường
13


hợp các phương pháp kinh tế và giáo dục, thuyết phục không mang lại kết quả,
người ta sẽ dùng đến phương pháp hành chính để cưỡng chế thi hành.
Các phương pháp hành chính có vai trò lớn trong thực hiện chính sách. Về
phương diện quản lý, đó là quan hệ giữa quyền uy và phục tùng. Vì vậy, nó là cơ sở
để xác lập trật tự, kỷ cương làm việc trong hệ thống, khâu nối các phương pháp
quản lý và giải quyết các vấn đề đặt ra nhanh chóng.
Phương pháp kết hợp:
Là phương pháp tác động lên đối tượng và quá trình chính sách bằng nhiều

biện pháp có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau để triển kahi thực hiện chính sách.
Đây là phương pháp được hình thành trên cơ sở kết hợp các phương pháp trên theo
một trình tự, quy mô nhất định; theo nguyên tắc phát huy ưu điểm, hạn chế nhược
điểm của mỗi phương pháp cụ thể, để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình
thực thi chính sách. Phương pháp kết hợp không có cấu trúc cố định mà nó được
thiết lập tùy theo điều kiện cụ thể và phù hợp với yêu cầu tổ chức thực hiện chính
sách.
Trên cơ sở các phương pháp nêu trên, người ta đã xây dựng một mô hình bao
quát làm cơ sở để lựa chọn phương pháp. Đó là dựa vào năng lực hay khả năng tổ
chức của Nhà nước để tác động lên đối tượng xã hội và tính phức tạp của các nhóm
đối tượng chính sách.
Nếu năng lực của Nhà nước cao, có thể sử dụng các phương pháp dựa vào thị
trường và các phương pháp điều tiết hoặc mệnh lệnh trực tiếp. Trong trường hợp
không đủ năng lực, Nhà nước có xu hướng khuyến khích các phương pháp tự giác,
dựa vào cộng đồng hoặc gia đình. Tuy nhiên, việc lựa chọn các phương pháp cũng
phụ thuộc vào mức độ phức tạp của đối tượng chính sách. Với những chính sách
liên quan đén các nhóm lớn và có mâu thuẫn, Nhà nước sẽ có xu hướng sử dụng
phương pháp thị trường hoặc phương pháp tự giác để có thể thỏa mãn được nhiều
14


đối tượng, nhiều lợi ích nhất. Trong trường hợp số lượng đối tượng nhỏ hơn và tổ
chức ít phức tạp hơn, Chính phủ có thể sử dụng các phương pháp trực tiếp hoặc kết
hợp.

B. Lựa chọn một chính sách công mà anh (chị) quan tâm và cho biết các
chủ thể thực hiện đã thực hiện các phương pháp trong thực hiện chính
sách đó như thế nào?
Đề xuất các biện pháp về công nghệ, nâng cao năng lực và cảnh báo
nhằm thích ứng với tác động của BĐKH.

1 Các biện pháp liên quan đối tượng và công nghệ
Đa dạng hóa đối tượng nuôi, mô hình nuôi cũng như đa đạng hóa đối
tượng và loại nghề khai thác là biện pháp hiệu quả đối với nuôi trồng và khai
thác thủy sản.
Hồ chứa xuất hiện ngày càng nhiều, do vậy vừa tận dụng diện tích phát
triển nuôi trồng và khai thác, vừa tăng số lượng các đối tượng được nuôi. Ngoài
trắm cỏ, cá mè đã trở nên phổ biến, cần tăng cường nuôi những đối tượng có giá
trị kinh tế cao hơn, có nhu cầu và khả năng tiêu thụ tốt hơn, như cá rô phi, rô phi
hồng, cá lăng, cá bống tượng... Bên cạnh đó, các hình thức tổ chức, quản lý sản
xuất phù hợp cần được áp dụng.
Chọn tạo các đối tượng nuôi chịu mặn, thích nghi với vùng bị xâm nhập
mặn hoặc chịu được độ mặn cao.
Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, các quy trình công nghệ trong nuôi và
chế biến thuỷ sản, những mô hình sản xuất nhằm thích ứng với xu thế nhiễm
mặn, thay đổi lịch thời vụ.
Đẩy mạnh nuôi trồng các đối tượng bản địa mới, có giá trị kinh tế cao, ít
15


chi phí năng lượng và thức ăn so với các đối tượng truyền thống hiện nay hoặc
nhập nội lâu năm.
Áp dụng các biện pháp khai thác xa bờ, hạn chế xả thải khí gây hiệu ứng
nhà kính để giảm thiểu BĐKH .
2 Thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về BĐKH. Tăng cường
cảnh báo và xây dựng quy hoạch.
Tổng hợp, thu thập, thống kê các tài liệu liên quan trong quá khứ, điều tra
cơ bản, nghiên cứu xu thế biến đổi, đánh giá nguy cơ tác động của BĐKH và
phát triển khoa học công nghệ đối với công tác đê điều, phòng chống bão lụt,
giảm nhẹ thiên tai.
Xây dựng cơ sở dữ liệu, thiết lập hệ thống quan trắc, theo dõi phân tích

đánh giá tác động của BĐKH đối với các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tài nguyên và
môi trường.
Ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong dự báo, cảnh
báo khí hậu, duy trì thông tin liên lạc từ trung ương đến địa phương, (vùng núi,
vùng biển, vùng sâu, vùng xa). Từng bước xây dựng hệ thống quan trắc phục vụ
cảnh báo thiên tai, tai biến môi trường cho lĩnh vực nuôi trồng và đánh bắt hải
sản.
Quy hoạch hệ thống phòng chống thiên tai lĩnh vực thủy sản. Thông qua
đó lập các kế hoạch, dự án chi tiết cho mỗi lĩnh vực sản xuất cụ thể. Tập trung
vào những vùng sinh thái-địa lý quan trọng đối với nuôi trồng ở cửa sông, ven
biển, đảo.
3 Công tác quản lý, củng cố hệ thống đê điều
Ứng dụng khoa học công nghệ mới trong thiết kế, thi công, quản lý khai
thác đê điều, phòng chống thiên tai, giảm thiểu BĐKH. Thực hiện chương trình
16


củng cố, nâng cấp đê điều, ưu tiên những hệ thống đê liên quan nuôi trồng thủy
sản tập trung. Tận dụng và bảo tồn các cồn cát tự nhiên để ngăn sóng thần, ngăn
nước biển, ngăn mặn; Xây dựng các hồ chứa, tăng cường trồng rừng, triển khai
các giải pháp tăng cường dòng chảy mùa kiệt và nước ngấm, tăng cường các
công trình thủy lợi để chống hạn, chống úng…
Tăng cường nghiên cứu đề xuất các giải pháp chống bồi lấp cửa sông, nạo
vét lòng dẫn tăng cường khả năng thoát lũ, kết hợp giao thông thủy.
Hình thành mới và đưa vào sử dụng hệ thống thủy lợi phục vụ thủy sản.
Nâng cấp hệ thống bờ bao, củng cố hệ thống cống cấp, thoát nước phục vụ nuôi
trồng thủy sản,

4 Sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên nước
Về tài nguyên nước, Việt Nam có 23.600km2 diện tích lưu vực sông.

Tổng lượng nước hàng năm chảy qua các sông, suối khoảng 835 tỷ m3. Do vậy,
quản lý nước lưu vực sông và các hệ thống thủy lợi ở nước ta là vấn đề cần được
quan tâm trong điều kiện khí hậu biến đổi.
Quản lý nước lưu vực sông là một vấn đề đã được thực hiện từ nửa cuối
của thế kỷ 20 và phát triển rất mạnh trong vài thập kỷ gần đây nhằm đối phó với
những thách thức về sự khan hiếm nước, sự gia tăng tình trạng ô nhiễm và suy
thoái các nguồn tài nguyên và môi trường của các lưu vực sông.
Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước, phải xác định lượng nước cần
duy trì để đảm bảo yêu cầu cấp nước cho sinh hoạt đối với tất cả các sông, các
hồ chứa nước, các tầng chứa nước, đặc biệt đối với các vùng khó khăn và khan
hiếm nước tại các tỉnh ven biển miền Trung.
5 Sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng
17


Ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến về tiết kiệm năng lượng, sử dụng
năng lượng hiểu quả, môi trường xanh, nuôi sinh thái, tăng cường sử dụng các
nguồn năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời ... trong các hoạt động sản
xuất thủy sản nhằm bảo về môi trường, phục hồi các hệ sinh thái đã bị phá hủy
dưới tác động của BĐKH – nước biển dâng.
6 Nâng cao nhận thức
Xây dựng và triển khai các chương trình nâng cao nhận thức trong cộng
đồng ngư dân, trong cộng đồng doanh nghiệp và các nhà quản lý.
Thực hiện tập huấn, tham quan trong và ngoài nước, nhất là những nước có
điều kiện tương tự và chịu ảnh hưởng nhiều của BĐKH như Việt Nam.
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng và các hội thảo về BĐKH về các nguy cơ của BĐKH trong sản xuất thủy
sản.
Xây dựng chương trình truyền thông về tác động của BĐKH đến mọi
người dân để vừa nâng cao ý thức, vừa tạo tâm lý chủ động phòng tránh và thích

ứng với BĐKH.
7. Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý và cơ quản nghiên cứu
Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và hiểu biết sâu rộng về BĐKH và tác
động tới ngành thủy sản ở các cơ quan đầu ngành, các cơ quan quản lý, các viện
nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức khuyến ngư;
Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, đánh giá tác động bất lợi của
các biểu hiện của BĐKH đến sản xuất thủy sản. Từng bước hình thành hệ thống
các đơn vị có lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về BĐKH và các tác động của
BĐKH.
Ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến trong thu thập và xử lý số liệu.
18


Thiết lập cơ sở dữ liệu, mạng lưới thông tin và trao đổi thông tin giữa các bên
liên quan.
Theo dõi, đánh giá và dự báo ảnh hưởng của nước biển dâng đến diện tích
NTTS các loại làm cơ sở bố trí và chuyển đổi cơ cấu giống/loài thích hợp.
8 Xây dựng cơ chế chính sách
Rà soát, bổ sung và xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật, xây
dựng các chính sách hỗ trợ sản xuất thủy sản và ổn định đời sống ngư dân để
chủ động ứng phó và khắc phục hậu quả của BĐKH. Đặc biệt là chính sách quản
lý, sử dụng tài nguyên đất, nước, chính sách an ninh lương thực, chính sách
chuyển đổi cơ cấu sản xuất thích ứng với BĐKH, chính sách bảo hiểm thủy
sản…
Tăng cường hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong, ngoài Bộ và các
địa phương; tăng cường mối liên kết, chỉ đạo giữa Văn phòng thường trực BCĐ
về BĐKH của Bộ và các Cục, Vụ.
Xây dựng các cơ chế chính sách nghiên cứu, bảo vệ và sử dụng các nguồn
gen địa phương, bản địa quý hiếm phục vụ công tác chọn tạo giống thích ứng
với BĐKH.

9 Phát huy kế thừa kinh nghiệm truyền thống
Các bài học tích lũy rất hiệu quả từ việc xây dựng hệ thống đê điều ở khu
vực miền Bắc, kinh nghiệm “sống chung với lũ” ở khu vực miền Nam và kinh
nghiệm “sản xuất không mùa vụ” ở khu vực miền Trung đều rất có ý nghĩa khi
kế thừa và phát huy được hiệu quả trong các kế hoạch xây dựng để ứng phó với
BĐKH khu vực nông nghịêp, nông thôn nói chung và lĩnh vực thủy sản nói
riêng.

19



×