Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Chính trị phát triển, toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.28 KB, 57 trang )

Danh mục từ viết tắt
CN,CX

CÔNG

CNKT

TCH
TCTK
TCCN

XUẤT
CÔNG NHÂN KỸ THUẬT
LAO ĐỘNG
TOÀN CẦU HÓA
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
TRUNG CẤP CHUYÊN
NGHIỆP

1

NGHIỆP,CHẾ


Đề tài: Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc
làm Việt Nam.
A.Lời nói đầu
Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hoà bình, hợp tác, phát
triển.Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng tất yếu của thời đại.Các
quốc gia dân tộc qua đó có thể giải quyết những vấn đề chung để cùng phát triển. Tuy
nhiên ta cũng nhận ra mặt trái của nó khi một thế giới bao gồm đa dạng các quốc gia


dân tộc, với sự phức tạp, muôn màu của các nền kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội
đang cũng tham gia vào quá trình này.
Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá đã mang lại
nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, là một trong
những nhân tố để cơ cấu lại và hiện đại hoá nền kinh tế phát triển nguồn nhân lực,
làm tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao động. Về cơ bản
nước ta có nền chính trị-xã hội ổn định, được coi là một trong những nơi an toàn cho
đầu tư, hợp tác và giao lưu quốc tế. Tăng trưởng kinh tế đã cải thiện được tình trạng
thu nhập bình quân đầu người quá thấp trước chuyển đổi kinh tế.Và thực tiễn cho
thấy, xu thế toàn cầu hoa không những tác động đến toàn bộ nền kinh tế mà còn tác
động lớn đến các vấn đề về lao động. Các nhân tố của toàn cầu hoá đã tác động đến
mở rộng việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị trường thị
trường lao động, tăng thu nhập của người lao động trong nhiều khu vực, ngành nghề.
Năng suất lao động trong nhiều khu vực, ngành đã đạt mức cao hơn nhiều so với thời
kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra những thách thức đối với vấn
đề laođộng, việc làm và phát triển nguồn nhân lực nước ta. Lực lượng lao động qua
đào tạo chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng đào tạo còn bất cập chưa đáp ứng yêu cầu
của thị trường lao động, đặc biệt là cho các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, các khu
công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các loại hình dịch vụ hiện đại; tỷ lệ thất nghiệp
còn cao; thu nhập của người lao động con thấp. Lao động Việt Nam còn phải khắc
phục những bất cập theo chuẩn mực lao động của khu vực và quốc tế để có đủ điều
2


kiện tham gia hội nhập. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều vấn đề xã
hội của lao động. Vì thế quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi nước ta phải vượt qua
những yếu kém rất cơ bản,yêu cầu đất nước phải tích cực và chủ động nhiều
hơn.Xuất phát từ tình hình thực tế trên, em đã chọn đề tài “ Toàn cầu hóa tác động
tới lao động và việc làm Việt Nam.”


1.Mục đích nghiên cứu:
Giúp tìm ra giải pháp,định hướng cho sự phát triển của nguồn nhân lực
trong nước trước xu thế toàn cầu hó.

2.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tàichủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết
hợp với các phương pháp phân tích, thống kê so sánh, đối chiếu tổng hợp,… để làm
sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.

3.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực đó là những thuận lợi và khó
khăn mà với lao động Việt Nam gặp phải trong tiến trình toàn cầu hóa.

B.Nội Dung
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG,VIỆC LÀM VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến lao động ,việc làm thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.Tổng

quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề

lớn trên thị trường lao động Việt Nam.
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
3



2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động.

II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
TOÀN CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nan trong
bối cảnh toàn cầu hoá
1.1.FDI và vấn đề việc làm
1.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng tới
việc làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thương mại khác
1.3. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
1.3.1Biến động lao động trong khu vực doanh nghiệp dưới tác động của
toàn cầu hóa
1..3.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá

2.Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu toàn cầu hóa
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp với quá trình chuyển
giao công nghệ
2.2. Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
2.3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao
động nước ta
2.4.Những bất cập trong việc phát triển nguồn nhân lực VN đáp ứng yêu
cầu toàn cầu hóa

III.GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
1.Giải pháp về việc làm và chống thất nghiệp
+) Ổn định nền kinh tế vĩ mô và đào tạo bầu không khí đầu tư lành
mạnh trong toàn xã hội
+)Lựa chọn công nghệ ngoại nhập thích hợp

+) Hoàn thiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
+) Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối phó với những khả
4


năng tác động mạnh mẽ của việc thực hiện các quá trình tự do hoá
thương mại.

2.Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
+)Đào tạo nhân lực cho phát triển các lĩnh vực công nghệ cao.
+)Đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải
cách lao động ở nông thôn
+)Đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động
+)Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực

3.Giải pháp về chính sách lao động và giải quyết các vấn đề xã
hội của LĐ
+)Hoàn thiện chính sách lao động
+)Chính sách giải quyết các vấn đề xã hội của lao động

IV.KẾT LUẬN
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập
kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy,
khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sửdụng một cách phổ biến.
Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi người ta cách điệu thành “siêu
quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế,

nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi những tham vọng, lý tưởng chính
trị không có nguồn gốc từ những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia
dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý thức vào một quá
trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự hình thành một hệ
thống toàn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm “quốc tế hoá” được thay
thế bởi khái niệm “toàn cầu hoá”
5


Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới.
Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và vận
hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu.Toàn cầu hoá có thể được xem xét như một
quá trình lịch sử tự nhiên.
Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này.Ông gọi nó là quá
trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên phạm vi nhỏ
hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử toàn
thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua việc hình thành nên những thực thể
xã hội lớn dần ,mà lớn nhất là thực thể toàn cầu và ngay trong quá trình hình thành
các thực thể trung gian đã hàm chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng manh nha.
Ông cho rằng, tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV. Nó được mở
rộng ra ngoài phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân quá trình này
thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”, còn từ
1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa đến sự
thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định với một hỗn hợp của
những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội
học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện chứng về quá trình toàn
cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là sự thâmnhập lẫn
nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the local).Trong kinh doanh,
nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa

phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu
dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “local globalization”
(toàn cầu hoá có tính địa phương.
Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và
nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia .Đó
chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của
sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và
đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm
tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu.
6


Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả
thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát
triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể có sự lựa
chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia, hoặc chờ đợi
làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường
hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc
thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những
người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề
của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng
nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt
tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo
tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá
lànhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”.
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến thị trường lao
động và việc làm thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
Trong xu thế toàn cầu hoá, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
và sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, nhất là tác động vào các nước
đang phát triển, hai xu thế tưởng chừng như trái ngược nhau đang diễn ra đồng thời ,

đó là vừa thúc đẩy sự di chuyển lao động, vừa hạn chế dòng di chuyểnnày. Một mặt,
nhu cầu của thị trường lao động ở nhiều nước phát triển và các nước khan hiếm lao
động đã tạo ra một dòng chảy lao động tới những nước này từ những nước đang phát
triển và dư thừa lao động. Mặt khác, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia
thông qua FDI vào các nước đang phát triển đã trở thành yếu tố có tác dụng giữ lao
động tại chỗ, hạn chế dòng di chuyển lao động quốc tế, nhưng lại thúc đẩy dòng di
chuyển lao động trong nước từ nông thôn ra thành thị, từ những khu vực kém phát
triển tới những địa phương phát triển hơn và tới những ngành nghề có nhiều cơ hội
việc làm và thu nhập cao hơn.
Xét theo nghĩa rộng đây chính là những hình thức khác nhau của thị trường
lao động quốc tế vì lực lượng lao động làm việc trong các công ty được quản lý tập
trung theo những tiêu chuẩn nhất định, buộc người lao động phải học hỏi nâng cao
7


trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc giống nhau trong các chi nhánh của công ty tại
các quốc gia khác nhau. Lao động tại các quốc gia đang phát triển được thu hút vào
các chi nhánh công ty xuyên quốc gia. Như vậy, thực chất vẫn có sự dịch chuyển lao
động nhưng không vượt qua biên giới quốc gia. Một hình thức phân công lao động
quốc tế và dịch chuyển lao động vô hình nữa là trong thời đại tin học và Internet này
nay, một người vẫn ngồi ở quốc gia mình mà vẫn có thể làm việc cho một công ty ở
quốc gia khác thông qua mạng Internet. Như vậy, cho dù không có sự di chuyển lao
động, trên thực tế lao động vẫn được quốc tế hoá, có sự phân công và ràng buộc lẫn
nhau. Đây là những điểm mới của thị trường lao động quốc tế trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay.
Toàn cầu hoá, cùng với những nỗ lực cải cách đi liền với nó, đã làm tăng áp
lực cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm. Áp lực cạnh tranh gia tăng đến lượt mình
sẽ làm giảm bớt mức độ định đoạt tiền lương và phân biệt đối xử với lao động nữ của
những người sử dụng lao động.Không chỉ có vậy, nhờ có thương mại hàng hoá và
dịch vụ, nhờ sự chu chuyển về vốn và các luồng di chuyển trên thị trường, thu nhập

từ lao động trong xu hướng dài hạn ở các nước đang phát triển ngày một tăng.Tác
động tích cực của toàn cầu hoá đến tiền lương trước hết được chỉ ra trong mối liên hệ
chặt chẽ giữa tiền lương và năng suất ở trong một quốc gia. Nhìn chung các nhà kinh
tế thừa nhận: Năng suất lao động tăng nhanh hơn ở những nền kinh tế mở hơn, trong
khi đến 90% sự khác biệt về tiền lương được giải thích bởi sự khác biệt về năng suất
lao động. Với chừng mực nhất định, sự di chuyển các luồng vốn quốc tế có thể làm
cho khủng hoảng tài chính dễ xảy ra hơn, những mất mát về thu nhập do toàn cầu hoá
gây nên có thể lớn hơn rất nhiều so với những gì mà thương mại quốc tế mang lại.
Khủng hoàng tài chính nổ ra làm giảm mức thu nhập từ lao động là do các luồng vốn
đã ngày càng tự do di chuyển , trong khi lao động thì không như vậy. Do vậy, đồng
thời với việc “làm thông thoáng” thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cần quản lý kinh tế vĩ mô tốt và thực thi những chính sách tài chính có hiệu
quả. Trong khi tác động ngắn hạn của tự do hoá thương mại đến tiền lương có thể là
tiêu cực, thì tích cực ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là tích cực. Do vậy,
mở cửa nền kinh tế, tự do di chuyển lao động mà không thu hút được vốn đầu tư
8


nước ngoài sẽ dẫn đến những mất mát lớn về tiền lương và thu nhập từ lao động. Tại
Việt Nam cũng đang diễn ra những xu hướng tiền lương và dòng dichuyển lao động
khác nhau. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những khu
công nghiệp và khu chế xuất và sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo nên dòng di chuyển
lao động từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển đến khu
công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn đến khu có thu nhập cao hơn. Ngoài ra,
dòng di chuyển lao động ra nước ngoài làm việc cũng tuân theo quy luật trên, tức là
tới những nơi có cơ hội việc làm nhiều hơn và trả công cao hơn. Xét về khía cạnh
kinh tế, đây là những sự dịch chuyển lao động tuân theo quy luật thịtrường, làm cho
nguồn lực lao động được sử dụng hợp lý hơn, hiệu quảhơn. Tuy nhiên, sự di chuyển
lao động theo quy luật thị trường nhiều khi lại không phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội. Thể hiện rõ nhất là sự bất hợp lý trong việc tập trung quá nhiều lao

động có trình độ đại học các đô thị, trong khi loại hình lao động này lại đang rất thiếu
ở những vùng kinh tế khó khăn. Ngoài ra, khác với sự di chuyển của vốn và hàng
hoá, di chuyển lao động là sự di chuyển con người nên bao giờ cũn phátsinh nhiều
vấn đề đòi hỏi có sự can thiệp và trợ giúp hiệu quả và kịp thời của của Nhà nước. Đây
là những thách thức lớn xét từ góc độ quản lý lao động.
Toàn cầu hoá đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ
cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Toàn cầu hoá mở ra
khả năng cho các quốc gia phát triển chậm hơn nhanh chóng tham gia vào hệ thống
phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội có hiệu quả
hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hoá. Xu hướng phân công lao động quốc
tế đang chuyển từ phâncông theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều
ngang , với nội dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ
sở sản xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các bộ phận, chi tiết,
linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối với nhau thành sản phẩm hoàn chỉnh. Về lâu
dài, với hình thức phân công này, Việt Nam có thể tham gia vào công đoạn nào đó
của quá trình phân công lao động quốc tếmà đẩy nhanh tiến trình điều chỉnh kết cấu
ngành của nền kinh tế quốc gia như một số quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các
“con rồng, con hổ” đã và đang áp dụng. Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, các
9


nước phát triển thường tập trung vào những ngành kỹ thuật cao, có tỷ trọng công
nghệ cao và vốn cao hơn trong khi các nước đang phát triển lại tập trung nhiều vào
những ngành sử dụng nhiều lao động. Điều đó cũng phản ánh một bức tranh chung về
phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển đan xen hiện nay,
một mặt ta tiếp tục phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, mặt
khác vẫn có thể đầu tư phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho những ngành công
nghệ cao để đa dạnh hoá cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Chiến lược phát triển
nguồn nhân lực không thể cách ly, mà luôn phải gắn chặt với chiến lược phát triển
kinh tế– xã hội, vừa có tác dụng phục vụ, vừa có tác dụng thúc đẩy chiến lược phát

triển kinh tế – xã hội. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà
nước trong lĩnh vực quản lý và phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình toàn cầu
hoá.Mặc dù toàn cầu hoá đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, với nguy cơ về sựkhông
ổn định và gạt ra bên lề một số nước, kinh nghiệm hiện tại cho thấy toàn cầu hoá mở
ra những triển vọng mới cho hội nhập của các nước đang phát triển vào nền kinh tế
thế giới.
1.2.1Những cơ hội mở ra đối với Việt Nam
Toàn cầu hoá đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho các nước trên
thếgiới. Nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông mà chi phí giao
dịch giảm đi rất nhiều, khoảng cách về không gian và thời gian giữa các quốc gia
được thu hẹp, tốc độ và điều kiện tiếp cận với tri thức mới được tăng lên. Toàn cầu
hoá làm tăng thêm tính tự chủ của các tác nhân tham gia quá trình này vì làm tăng cơ
hội lựa chọn của họ, Toàn cầu hoá có lợi cho việc thúc đẩy các nhân tố kinh tế như
tiền tệ, kỹ thuật, tri thức, phân bổ hợp lý hoá các nguồn lực, mở rộng hoạt động
thương mại, nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn chặt mối liên kết kinh tế , kỹ thuật giữa
các nước và khu vực. Thị trường thế giới đã trở thành một nguồn công nghệ và vốn
vô cùng lớn lao mà các nước đều có cơ hội để khai thác. Tri thức của loài người và
thông tin toàn cầu được phổ biến rộng rãi mà mọi người đều có cơ hội tiếp cận.
Đối với nước ta, toàn cầu hoá tạo cơ hội thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, tiếp thu các công nghệ mới để thúc đẩy phát triển kinh tế. Toàn cầu hoá thúc
đẩy phát triển thương mại và tạo điều kiện cho nước ta tham gia sâu rộng hơn vào
10


phân công lao động quốc tế nhằm phát huy tốt hơn lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế.
Như vậy, với những điều kiện phù hợp, toàn cầu hoá có thể đóng góp đáng kể vào
tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và mở ra con đường phát triển lâu dài bền
vững tiến kịp các nước đi trước.
1.2.2Những thách thức lớn đối với Việt Nam
Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng, cơ hội, xét về ý nghĩa thực tiễn

chỉ là tiềm năng. Bản thân các cơ hội không mang lại các giá trị cụ thể. Các cơ hội có
thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi các điều kiện cần thiết để thực hiện đã được hội
đủ. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng có nghĩa là nước ta cần phải tuân thủ
hàng loạt các yêu cầu để hôị nhập, từ các luật lệ về bản quyền đến các tiêu chuẩn về
ngân hàng. Trong khi đó , rất nhiều chuẩn mực, quy tắc quốc tế được soạn thảo trong
tình hình các nước phát triển giữ vai trò chính. Như vậy, đối với các nước có trình độ
phát triển thấp như nước ta, rủi ro trong vận hành kinh tế sẽ gia tăng.
Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến nhiều cơ hội lập nghiệp, nhiều cơ hội việc làm,
nhưng kèm theo là đổi mới kỹ thuật nhanh hơn , vòng quay tuổi thọngắn hơn, vốn lưu
thông linh hoạt hơn, sự cạnh tranh nhân lực sâu sắc hơn và tính rủi ro trong việc làm
cũng cao hơn. Những thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay và trong tương lai
là làm thế nào để vượt qua được những yếu kém của nền kinh tế và sự tụt hậu của
nguồn nhân lực như: Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng loại
hàng hoá, dịch vụ nói riêng còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên
thế giới và về chất lượng, giá cả, mẫu mã...; Cơ sở hạ tầng (đướng sá, bến cảng, giao
thông, thông tin liên lạc, điện nước...) kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế; Trình độ công nghệ của các ngành kinh tế rất lạc hậu (đi sau các nước
trong khu vực từ 3-5 thế hệ). Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh
doanh còn ở mức rất thấp; Các thể chế kinh tế thị trường chưa được thiết lập và phát
triển đồng bộ;Chất lượng nguồn nhân lực còn bất cập. Ngoài trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, những phẩm chất khác như ý thức chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật
công nghệ, khả năng ngoại ngữ, tình trạng sức khoẻ... cũng đáng lo ngại;Cơ sở vật
chất của hệ thống đào tạo, dạy nghề nước ta lạc hậu so với trình độ chung của nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi khả năng đầu tư cho đào tạo, dạy nghề
11


còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực. Xu hướng thương mại hoá giáo
dục, đào tạo cản trở yêu cầu tăng cường giáo dục và đào tạo cho người lao động tại
các vùng chậm phát triển và cho người nghèo .


2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề
lớn trên thị trường lao động Việt Nam
Đối với Việt Nam trong gần hai thập kỷ qua, nhiều thay đổi đã và đang diễn
ra dưới những tác động kép. Thứ nhất, đó là những thay đổi do quá trình đổi mới mà
Đảng và nhân dân ta chủ động khởi xướng và thực hiện mang lại. Thứ hai là tác động
của xu hướng toàn cầu hoá. Đường lối đổi mới của Việt nam được thực hiện trong bối
cảnh trên thế giới đang diễn ra xu hướng toàn cầu hoá và yếu tố toàn cầu hoá được
tính đến trong quá trình triển khai đường lối đổi mới. Bởi vậy, chúng ta cần đánh giá,
dự báo đúng những thay đổi đã và có thể diễn ra dưới những tác động của nhữngyếu
tố nội tại trong đường lối đổi mới và những tác động từ bên ngoài của xu hướng toàn
cầu hoá. Nói cách khác, chúng ta cần đánh giá đúng mức độ và phạm vi tác động của
toàn cầu hoá đổi với những thay đổi của Việt Nam để có những đối sách thích hợp.
Trong lĩnh vực lao động – việc làm và các vấn đề xã hội, có thể khái quátmột số tác
động của toàn cầu hoá như sau
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
Về tổng thể trên phạm vi toàn cầu, quá trình toàn cầu hoá làm tăng lưu lượng
giao dịch trên cả 3 thị trường là thị trường hàng hoá-dịch vụ, thị trường tài chính và
thị trường lao động. Đối với thị trường lao động thế giới, tổng cầu về lao động, tức số
việc làm mới được tạo ra nhiều hơn, nhưng đi kèm theo đó sẽ là sự dư thừa lao động
cục bộ, tức thất nghiệp do sự cạnh tranh và sự phân bổ lại các nguồn lực dưới tác
động điều chỉnh của thị trường toàn cầu. Như vậy, sự gia tăng của tổng cầu về lao
động và suy giảm cục bộ về lao động chính là hai yếu tố mang đến thời cơ và thách
thức cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu hoá. Trong khi
toàn cầu hoá vừa làm mất đi việc làm vừa tạo ra việc làm mới, hai quá trình này
không diễn ra đồng thời. Trong giai đoạn tự do hoá thương mại, và nói chung hơn là
giai đoạn của cải cách kinh tế, tốc độ mất việc làm có thể cao hơn so với tốc độ tạo
việc làm. Những nguyên nhân thường được nêu ra là:
12



- Do phải sắp xếp lại lao động khi dỡ bỏ những rào cản thương mại, đặt biệt
là trong những ngành được Nhà nước chính thức bảo hộ dựa vào nguồn lao động rẻ
và chất lượng thấp.
- Song song với quá trình trên là việc thu hẹp “đặc quyền” và giảm dư thừa
lao động trong doanh nghiệp Nhà nước cùng các cơ quan hành chính. Quá trình này
làm tăng đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong những năm đầu của “mở cửa”.
Nhưng hội nhập với thị trường thế giới, đẩy mạnh cạnh tranh, cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước, bãi bỏ độc quyền trong một số ngành cung cấp dịch vụ công
cộng, cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư
nước ngoài đã gắn liền với việc tạo ra khối lượng công ăn việc làm lớn, mở rộng thị
trường lao động phi nông nghiệp và hướng mạnh vào các ngành xuất khẩu. Việc làm
tạo ra dễ thấy là nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài, cụ thể nhất là trong các khu công
nghiệp và khu chế xuất. Đây chính là những động lực tạo việc làm mạnh mẽ, bởi lẽ
khu vực này không chỉ trực tiếp tạo việc làm mà còn tác động “lan tỏa” tạo cầu lao
động mới và thu hút vào các dự án liên qua. Nhìn chung, những đánh giá dài hạn và
kinh nghiệm hội nhập cho thấy trong cả quá trình, tốc độ tạo việc làm mới cao hơn
nhiều so với tốc độmất việc làm.
Đối với Việt Nam, với tư cách là một nước phát triển, toàn cầu hoá có tác
dụng tích cực trong việc tạo ra việc làm mới trong bốn khu vực: Thứ nhất là khu vực
đầu tư nước ngoài FDI, Thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất
khẩu, thứ ba là xuất khẩu lao động, và thứ tư là tại các khu vực khác, toàn cầu hoá đã
có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về hàng hoá-dịch vụ đã có tác dụng tăng
cầu lao động, tức tạo thêm việc làm.
Theo số liệu thống kê, số lao động làm việc trong khu vực đầu tư nước ngoài
tăng từ 373,7 nghìn người năm 2000 đến 1674,1 nghìn người năm 2008 và ứng với
đó là cơ cấu lao động tăng từ 0.99% đến 3.73%.Hàng triệu lao động được thu hút vào
những ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó có những ngành có tổng kim
ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, nuôi trồng và
chế biến thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp

như lúa, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su, cây ăn quả....
13


Về xuất khẩu lao động, Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết từ đầu năm
2009 đến nay, cả nước đã đưa được 65.787 người đi xuất khẩu lao động, đạt 73,1%
kế hoạch. Xét trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kết quả này thể hiện sự
nỗ lực của đội ngũ làm công tác xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích
cho rằng, đằng sau các con số là những vấn đề cần mổ xẻ một cách nghiêm túc, để
đánh giá triển vọng một cách chính xác.Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động cho
rằng, diễn biến trên thị trường lao động ngoài nước thời gian qua là khá phức tạp và
không sát dự kiến. Ví dụ, khoảng 2 năm trở về trước, Malaysia là thị trường dẫn đầu
về số lượng, tiếp nhận khoảng 35.000 - 40.000 lao động/năm.Bộ Lao động - Thương
binh và xã hội cũng xác định từ năm 2009 trở về sau, thị trường Trung Đông đóng vai
trò trọng điểm, với mục tiêu mỗi năm đưa được khoảng 25.000 người. Ngoài ra, thị
trường Đông Âu (gồm Nga, Czech, Slovakia, Bulgaria, Romania,...) cũng từng được
đặc biệt quan tâm với kỳ vọng mỗi năm giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn
người.
Tuy vậy, số liệu tổng kết từ Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho thấy, năm
2009, Đài Loan là thị trường tiếp nhận nhiều nhất, với 19.577 người lao động, Hàn
Quốc 7.175 người, Nhật Bản 4.959 người. Điều khá bất ngờ, Lào đột ngột “bứt phá”
và vươn lên trở thành thị trường lao động xuất khẩu lớn thứ tư, với 4.580 người. Kế
đến là Libya 4.550 người, UAE 3.933 người... Các thị trường được xác định là trọng
điểm trước đây, hoặc cơ bản không còn tồn tại (như Đông Âu), tiếp nhận lao động
nhỏ

giọt

(như


Trung

Đông),

hoặc

thiếu

“nguồn”

(như

Malaysia ).

Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục ngàn lao động bằng cách này cách khác đã
tìm được cách ra nước ngoài làm ăn sinh sống, phần lớn ở các nước Đông Âu và các
nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, và trong thời gian gần đây là sang Trung Quốc và
Căm Pu Chia. Trong số này có những người làm ăn nghiêm túc, có những đóng góp
cho kinh tế của nước sở tại và tạo thu nhập cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó,
cũng còn những người có những hoạt động vi phạm pháp luật nước sở tại. Việc di
chuyển lao động quốc tế mang tính tự phát này cũng phản ánh tác động của xu thế
toàn cầu hoá. Dòng di chuyển này đang ẩn chứa trong nó cả nguy cơ. Một mặt, nó
góp phần giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho một bộ phận dân cư. Mặt khác nó cũng
14


kèm theo nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, thậm chí tội phạm. Thu nhập dân cư
tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và ngoài nước đã kích thích nhu
cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng lẫn về chất. Đây chính là yếu tố kích thích
cầu của thị trường hàng hoá và dịch vụ trong nước và là tác động gián tiếp của toàn

cầu hoá đối với việctạo việc làm trong nước. Trong hơn hai năm thực hiện Luật
doanh nghiệp, đã có hơn 42 ngàn doanh nghiệp và hơn 300 ngàn hộ kinh doanh mới
đăng ký, thu hút thêm vốn đầu tư tương đương 4 tỷ đô la Mỹ và tạo được khoảng 750
ngàn chỗ làm việc mới. Ngoài tác động tích cực trong việc tạo việc làm mới, toàn cầu
hoá cũng buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh
tranh, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động.
Chính sức ép này đang tạo ra những thách thức đối với vấn đề việc làm, nhất là trong
khu vực kinh tế quốc doanh. Trước hết, cần khảng định chủ trương tổ chức, sắp xếp
lại các doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho
khu vực kinh tế Nhà nước làm ăn có hiệu quả hơn, sử dụng hợp lý và kinh tế hơn các
nguồn lực của xã hội. Quá trình sắp xếp , tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước lại diễn
ra trong điều kiện toàn cầu hoá nên nhiều doanh nghiệp chịu sức ép cạnh tranh hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp từ thị trường quốc tế. Trong thời đại ngày nay, khó có thể tìm
thấy một doanh nghiệp nào mà các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra,hoặc các phần cấu
thành nên yếu tố đầu vào không chịu ảnh hưởng của giá cả thi trường quốc tế. Trong
bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ yếu kém trong quản lý và sử
dụng nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Để đảm bảo tính hiệu quả và sức
cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước, một bộ
phận lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước sẽ thuộc diện dôi dư.
Bởi vậy, trong những năm tới, xử lý vấn đề lao động dôi dư từ các doanh nghiệp Nhà
nước đang là vấn đề trọng tâm của ViệtNam trong lĩnh vực lao động việc làm.
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
Toàn cầu hoá không chỉ là vấn đề của Quốc gia, khu vực mà là công việc của
từng cá nhân và từng doanh nghiệp, họ là chủ thể chính của quá trình toàn cầu hoá
đang diễn ra trên thế giới. Với cách nhìn này nhiều người còn nói toàn cầu hoá là một
hiện tượng vi mô. Bởi lẽ:
15


Quá trình toàn cầu hoá hiện nay với nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển,

yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết so với giai đoạn phát triển trước đây
của xã hội loài người. Tính chất toàn cầu hoá trong sản xuất và cạnh tranh của mỗi
quốc gia ngày càng đi vào chiều sâu; sự phát triển của nền kinh tế tri thức với động
lực là sự tiến triển vũ bão và không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày
càng làm sâu sắc thêm đặc điểm trên, qua đó con người – với tính cách và trình độ
từng cá nhân – ngày càng đóng vaitrò trung tâm trong mọi hoạt động, mọi quyết định
của quá trình sản xuất và cạnh tranh.
Môi trường để con người phát huy vai trò nói trên của mình là doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là người trực tiếp nhất trong đối chọi hay hợp tác với mọi đối tác trong
nền kinh tế toàn cầu hoá- Nhà nước chỉ đứng đằng sau làm hậu thuẫn. Đương nhiên
đến lượt mình, bản thân sự phát triển của mỗi doanh nghiệp lại cũng do yếu tố con
người quyết định. Lao động giản đơn ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh
tranh mang tính toàn cầu, trái lại năng lực và tư chất con người quyết định biến
những cơ hội do môi trường mới mang lại thành những hoạt động sản xuất thiết thực,
mở đường “tiến kịp” các nước đi trước.Toàn cầu hoá càng phát triển, các thị trường
càng được mở rộng, thương mại càng tự do thì sức ép về tính cạnh tranh càng cao đối
với mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, thậm chí mỗi cá nhân. Trước đây, giá nhân
công rẻ là lợi thế của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để thu hútvốn
đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nhưng ngày nay, lợi thế này đang dần mất
đi ý nghĩa. Trong bối cảnh khả năng tiếp cận đối với các thiết bị, máy móc, công nghệ
hiện đại của các doanh nghiệp là gần nhưnhau, yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp, mỗi nền kinh tếchủ yếu nằm ở yếu tố quản lý và chất lượng nguồn
nhân lực. Ngoài ra, yếu tố giá lao động rẻ chỉ có lợi thế tuyệt đối với những ngành
kinh tế sử dụng công nghệ cao hoặc những ngành sử dụng nhiều vốn. Bởi vậy, việc
không ngừng nâng cao tính cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc chạy
đua giữa các doanh nghiệp, giữa các nền kinh tế. Có thể nói toàn cầu hoá đang tạo ra
yêu cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và nâng cao tay
nghề chuyên môn kỹ thuật. Đây vừa là điều kiện thuận lợi , vừa là thách thức lớn đối

16



với Việt Nam trong lĩch vực phát triển nguồn nhân lực. Về mặt thuận, toàn cầu hoá đã
có một số tác động tích cực đối việc nâng cao chất lượng lao động của Việt Nam.
Thứ nhất, toàn cầu hoá kích thích sự phát triển nhanh chóng củakhoa học
công nghệ đòi hỏi người dân nói chung và lực lượng lao động nói riêng phải
không ngừng nâng cao trình độ cho theo kịp sự phát triển của khoa học, công nghệ và
yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Toàn cầu hoá cũng tạo điều kiện cho người lao
động nhanh chóng tiếp nhận được thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí.
Đây là điều kiện và động lực quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
Thứ hai, đối với số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có phương
pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và ngoài nước, qua quá
trình làm việc họ đã học tập, tiếp thu thêm về tay nghề, năng lực quản lý và tác phong
làm việc. Quá trình hội nhập quốc tế cũng đã làm bộc lộ những hạn chế của lực lượng
lao động của Việt Nam. Cả nước đang chứng kiến một nghịch lý là trong khi chúng ta
thừa lao động trên thị trường lao động thì vẫn thiếu cục bộ đối với một số ngành nghề
đang có nhu cầu tại một số khu chế xuất, khu công nghiệp và đặc biệt là đối với thị
trường lao động ngoài nước. Sức cạnh tranh chưa cao của lao động nước ta không chỉ
thể hiện ở trình độ chuyên môn, tay nghề chưa cao , thiếu ngoại ngữ, mà còn ở tinh
thần chấp hành kỷ luật, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, văn hoá ứng sử trong công
việc chưa phù hợp với tác phong làm việc hiện đại. Tính cạnh tranh chưa cao của lực
lượng lao động Việt Nam tiếp tục là những thách thức lớn đối với Việt Nam trong quá
trình toàn cầu hoá, đòi hỏi chúng ta phải có những cố gắng lớn hơn trong chiến lược
giáo dục và phát triển nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động

Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế cơ chế quan hệ lao động mới được
hình thành. Trong đó, cơ chế thoả ước lao động tập thể (cộng đồng hiệp ước) và hợp
đồng lao động nguyên tắc cơ sở để người lao động và người sử dụng lao động cam

kết thực hiện quan hệ lao động. Thoả ước lao động tập thể và hợp động lao động
được sử dụng rộng rãi trong quan hệ lao động tại các nước kinh tế thị trường trên thế
giới, là căn cứ để bảo vệ người lao động và người sử dụng lao động trước pháp luật
17


có sự tham gia của đại diện Công đoàn, Nghiệp đoàn.Nhà nước thực hiện việc điều
chỉnh quan hệ lao động thông qua Bộ luật lao động và các văn bản pháp luật hướng
dẫn áp dụng Bộ luật lao động. Cơ chế quan hệ lao động mới bao hàm việc trao quyền
tự chủ hoàn toàn cho người sử dụng lao động trong tuyển dụng, sử dụng, trả lương
(trảcông) và kết thúc hợp đồng đối với người lao động trên cơ sở tuân thủ các quy
định pháp luật lao động, bảo vệ các lợi ích của người lao động và của người sử dụng
lao động. Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế với sự phát triển của nhiều loại hình
doanh nghiệp, quan hệ lao động có những đặc trưng riêng. Đó là quan hệ lao động
trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, hợp tác xã kiểu mới, doanh nghiệp FDI. Nhà
nước đã có một số quy định riêng đối với quan hệ lao động trong các doanh nghiệp
loại này; đặc biệt là về tiền lương tối thiểu, cổ phần của các cổ đông, các quyền lợi
vật chất khác của người lao động... Phù hợp với quan hệ lao động mới, quyền đình
công của người lao động được luật pháp lao động quy định. Cơ chế giải quyết tranh
chấp lao động mang tính phổ biến của các nước trên thế giới được hình thành (hệ
thống hoà giải lao động, toà án lao động...). Chính sách mở cửa, tự do hoá có các nội
dung chính là loại bỏ dần các hàng rào nhân tạo cản trở sự giao lưu quốc tế như hạn
chế dần sự độc quyền của nhà nước trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, cho
phép nước ngoài đầu tư kinh doanh một cách ít hạn chế nhất, thực hiện cạnh tranh tự
do, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, hạ thấp và bãi bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Hiện nay, ngày càng có nhiều chính
phủ chuyển sang chính sách tự do hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cơ chế
điều hành cản trở các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính sách này đã tạo ra một
môi trường thông thoáng hơn bao giờ hết cho sự phát triển của các mối quan hệ kinh
tế giữa các quốc gia. Chính sách tự do hoá đã tạo điều kiện cho việc khai thác các

công nghệ mới ở các thị trường có quy mô toàn cầu ở mọi nơi trên thếgiới. Nhiều
nước đã mạnh dạn dựa nhiều hơn vào các thị trường quốc tếnhằm tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của mình. Quá trình tự do hoá hiện
đang tập trung vào lĩnh vực đầu tư và thương mại của WTO đang đóng một vai trò
chủ đạo trong quá trình này.

18


II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
TOÀN CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hoá
Có những nhân tố của toàn cầu hoá góp phần làm gia tăng nguy cơ thất
nghiệp trong điều kiện của Việt Nam, nhưng rất nhiều nhân tố hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động tích cực đến thị trường lao động nước ta, tạo thêm nhiều việc làm
hơn.
1.1.FDI và vấn đề tạo việc làm
Trên phạm vi toàn cầu, mỗi năm của thập kỷ 70 trong thế kỷ trước có đến 40
triệu việc làm trực tiếp do FDI tạo ra, con số này trong các năm thập kỷ 80 là 65 triệu
việc làm và thập kỷ 90 là 70-75 triệu việc làm.Đối với nước ta, dòng chảy của FDI
(chủ yếu là từ các Công ty xuyên quốc gia) là bộ phận vốn đầu tư quan trọng trong
tạo việc làm. Vốn FDI hàng năm giai đoạn 2001-2008 trong tổng vốn đầu tư cơ bản
của toàn xã hội.
Số việc làm do khu vực FDI tạo ra chiếm tỷ trọng không lớn nhưng là việc
làm có mức đầu tư cao. Suất đầu tư bình quân / chỗ làm việc khu vực FDI là 663,4
triệu đồng, trong khi suất đầu tư/ chỗ làm việc bình quân của toàn bộ nền kinh tế
khoảng 39,3 triệu đồng, công nghiệp quốc doanh 50 triệu đồng, tiểu thủ công nghiệp
10 triệu đồng, nông lâm ngư nghiệp 14 triệu đồng, dịch vụ 27 triệu đồng. Mức đầu tư/
chỗ làm cao của khu vực FDI đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ và quản lý,

năng suất và hiệu quả của việc làm.
Số việc làm gián tiếp như: Cung cấp dịch vụ, gia công và đại lý tiêu thụ sản
phẩm... do khu vực FDI tạo ra cao hơn nhiều so với số việc làm trực tiếp do khu vực
này tạo ra. Nếu chỉ lấy tỷ lệ việc làm trực tiếp – việc làm gián tiếp thấp nhất như kết
quả khảo sát là 1/1,97 thì tổng số việc làm gián tiếp theo phương pháp suy rộng do
các dự án FDI tạo ra tính đến năm 2008 đã là 1674.1 nghìn việc làm. Ngoài ra, khu
vực FDI còn tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn liên quan đến sản xuất
nguyên vật liệu như: Trồng mía, trồng cây lấy gỗ, nuôi trồng thuỷ sản... Dưới động
19


tác của FDI, các ngành công nghiệp xuất khẩu, ngành sử dụng nhiều lao động đã thu
hút được nhiều lao động. Công nghệ thông tin: dưới tác động của toàn cầu hoá kinh
tế, công nghệ thông tin có sự phát triển mạnh từ năm 1990 trở lại đây. Tính đến tháng
3/2009 công nghệ thông tin và điện tử đã thu hút được 926 triệu USD FDI. Số lao
động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin các năm 1991-1993 hầu như chưa
đáng kể. Từ 1994 trở lại đây, quy mô lao động của lĩnh vực công nghệ thông tin tăng
nhanh. Năm 2008 đã có trên 35 nghìn người làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, hàng năm thu hút thêm hàng nghìn lao động.
1.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng
tới
việc làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thươngmại khác
Tham gia AFTA (khu vực thương mại tự do ASEAN)
Việt nam là một thành viên của ASEAN đã cam kết thực hiện lịch trình
CEPT (chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của ASEAN), tự do hoá hầu
như hoàn toàn mậu dịch qua lại trong nội bộ khối với việc xoá bỏ hàng rào phi thuế
và giảm thuế nhập khẩu xuống 0 – 5% vào năm 2006.Các năm 1996 – 2002 kim
ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN chiếm tỷ trọng 25 – 26%
tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của nền kinh tế. Danh mục giảm thuế quan của Việt
Nam các năm 1996-2002 bao gồm 15nhóm sản phẩm: Dầu thực phẩm, thực vật,

ximăng, hoá chất, dược phẩm, phân bón, chất dẻo, sản phẩm cao xu, sản phẩm da, bột
giấy, hàng dệt, đồgốm – thuỷ tinh, đồng thỏi, hàng điện tử, đồ gỗ – song mây, đá quíđồ trang sức. Ngoài ra còn có các danh mục sản phẩm tạo miễn trừ trong các năm của
kế hoạch CEPT. Các danh mục nhậy cảm của hàng nông sản chưa chế biến đưa vào 3
danh mục khác nhau là: Danh mục giảm thuế, danh mục tạm thời chưa giảm thuế và
danh mục nhậy cảm của nông sản chưa chế biến.
Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL (ban hành
theo Nghị định số 21/2002/NĐ-CP ngày 28/2/2002 và Nghị định số 53/2002/NĐCP ngày 13/5/2002) (gọi tắt là Danh mục CEPT 2002), chiếm 85% trên tổng số
6.523 dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu (Danh mục Thuế quan Hài hòa Chung
ASEAN – (AHTN) là 8.770 dòng). Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới
20


20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006; trong số đó, 65% đã ở mức
thuế 0-5%. với mức thuế suất từ 0 đến 20%, trong đó có khoảng 2/3 có mức thuế
suất từ 0 đến 5%. Nhóm này đến năm 2006 sẽ giảm mức thuế xuống 0 - 5%. Nhóm
thứ hai, là danh mục loại trừ tạm thời gồm 755 dòng thuế (theo AHTN là 1.415
dòng thuế) sẽ chuyển sang danh mục cắt giảm IL từ 01/7/2003, các dòng thuế có
mức thuế cao sẽ đưa xuống 20% và giảm dần xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh
mục này bao gồm các nhóm hàng dầu thực vật, bánh kẹo, rau quả chế biến,
clinker, xi măng, thiết bị vệ sinh, giấy báo, giấy in, giấy vệ sinh, hóa chất, mỹ
phẩm, kính xây dựng, điện tử, điện lạnh, quần áo, giày dép,... Nhóm thứ ba, là
danh mục nhạy cảm gồm hàng nông sản chưa chế biến, chủ yếu cần bảo hộ cao,
như thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc gạo lức, đường mía.... Nhóm này có
53 dòng thuế (theo AHTN là 89 dòng thuế) bắt đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và kết
thúc vào 01/01/2013 với mức thuế cuối cùng là 0 - 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ
kết thúc vào 01/01/2010. Nhóm thứ tư, là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm
các sản phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức xã
hội, bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị
nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một số mặt hàng cần bảo
hộ cao hơn như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới 250cc. Nhóm này có

158 dòng thuế (AHTN là 415 dòng). Như vậy, lộ trình cắt giảm theo danh mục
phải cắt giảm ngay IL và danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt Nam chậm
hơn sáu nước thành viên cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ hoàn toàn
thời gian dài hơn, đến năm 2010 hoặc 2015 .Các sản phẩm mà ASEAN có lợi thế là
những sản phẩm mà Việt Nam đang sử dụng các biện pháp phi thuế quan để khôngs
chế, tạo thu nhập như: Phân bón urê của Inđônêxia, xe máy của Thái Lan, ô tô
Malaixia, hàng điện tử của Singapore. Do đó trong các năm qua, tham gia CEPT có
tác động tích cực đáng kể đối với sản xuất kinh doanh của nước ta, nước ta được
hưởng ưu đãi thuế một số mặt hàng xuất khẩu vào các nước ASEAN. Các ưu đãi thuế
đã có tác động tích cực đối với phát triển sản xuất kinh doanh và việc làm. Việc giảm
thuế sẽ làm nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.mở ra các khu công

21


nghiệp và các khu chế xuất.chính vì vậy sẽ tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho
người lao động.
Tham gia APEC:
Việc tham gia APEC là thuận lợi đối với Việt Nam để tiếp cận và mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hoá, nắm bắt các yêu cầu về chất lượng hàng hoá của các
nước thành viên, thực hiện các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Các nước APEC là đối tác chủ yếu về kinh tế, thương mại và đầu tư
của Việt Nam với 80% kim ngạch ngoại thương,75% tổng vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, APEC còn là nguồn cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. Các chương
trình hành động của APEC (đặc biệt là chương trình hợp tác Khoa học và Công nghệ
hướng tới thế kỷ XXI) rất thiết thực đối với Việt Nam trong phát triển cơ sở hạ tầng
truyền thông, phát triển nguồn nhân lực, áp dụng công nghệ môi trường...cơ chế hoạt
động của “Hội đồng cố vấn kinh doanh” của APEC phù hợp với tình hình phát triển
doanh nghiệp của Việt Nam. Hiện nay, vì mới gia nhập APEC nên ảnh hưởng của
việc tham gia APEC đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và tác động đến

biến động việc làm là chưa nhiều. Kế hoạch của APEC thực hiện các chương trình
giảm thuế mang tính chất tự nguyện nhưng đều hướng tới đích là giảm thuế xuống
mức không quá 10% và triệt tiêu các hàng rào phi thuế quan, tự do hoá hoàn toàn
thương mại vào năm 2020. Do đó, các tác động tích cực và tác động ngược chiều của
gia nhập APEC đối với việc làm trong tương lai phụ thuộc vào sự lựa chọn chương
trình tự do hoá thương mại với các nước APEC.
Tham gia các hiệp định thương mại khác:
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ.
Hiệp định thương mại được ký kết ngày 14/7/2000 và được cơ quan lập pháp
hai nước thông qua, có hiệu lực từ ngày 11/12/2001 là Hiệp định vượt ngoài tầm quan
hệ song phương. Bởi vì ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ có phạm vi toàn cầu, Mỹ là
nước có kim ngạch nhập khẩu hàng năm trên 1100 tỷ USD và có tiềm năng xuất khẩu
công nghệ hiện đại thuộc loại bậc nhất thế giới. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ tạo
điều kiện cho cho Việt Nam mở rộng thương mại với Mỹ nhờ áp dụng quy chế tối
huệ quốc (MFN) .Trong 11 tháng đầu năm 2009 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam
22


với Mỹ là 10213704 nghìn usd, tốc đột tăng này đã tác động tích cực đối với việc làm.
Một số mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ gia tăng nhanh như: thuỷ sản, hàng thủ công mỹ
nghệ, giầy dép, quần áo, khoáng sản... đã tạo ra hàng vạn việc làm cho người lao
động. Tiềm năng thịtrường Mỹ đối với xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và tạo việc làm
của Việt Nam là rất lớn.
Tuy nhiên, để xuất khẩu vào Mỹ, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm.Ví dụ
như sựkiện Mỹ hạn chế xuất khẩu cá tra, cá basa trong thời gian gần đây đã ảnh
hưởng tới công ăn việc làm của 15 nghìn hộ gia đình nuôi cá da trơn Đồng bằng sông
Cửu Long trong khoảng thời gian dài (có hộ đã thiệt hại đến gần 1 tỷ đồng) là một ví
dụ về yêu cầu chuẩn bị tốt để thực hiện Hiệp định.Qua đó có thể thấy rằng mặc dù
các Hiệp định thương mại đã được ký kết nhưng các trở ngại ngắn hạn có thể xảy ra
và ảnh hưởng đến việc làm của người lao động. Tối huệ quốc trong quan hệ thương

mại song phương.
Việt Nam được 69 nước đối sử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với các
nhóm mặt hàng nhất định. Trong đó, bao gồm cả các nước có nền kinh tế lớn như:
Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Anh, Nga, Canada, CHLB Đức... Đồng thời có 8 nước
dành cho Việt Nam đối sử ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại Brunei,
Inđônêxia, Lào, Malaisia, Myamar, Philippine, Singapore, Thái Lan. Các đối sử tối
huệ quốc trong quan hệ thương mại song phương đã góp phần tạo điều kiện cho nước
ta hội nhập mạnh vào nền kinh tế thế giới, mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ, tăng
cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Trong
khi đó, hàng rào thuế và phi thuế quan của nước ta vẫn duy trì ở mức khá cao, một số
chủng loại hàng hoá của các nước này nhập khẩu vào nước ta không đáng kể, nên
thời gian qua các.Hiệp định thương mại song phương có tác động tích cực đối với sản
xuất kinh doanh và việc làm của người lao động.
1.3. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
kinh tế
1.3.1. Biến động lao động trong khu vực doanh nghiệp dưới tác động của
toàn cầu hóa

23


Toàn cầu hoá kinh tế có tác động nhất định đến biên độ dao động của lao động
trong các doanh nghiệp.Có sự chênh lệch giữa nam và nữ về số lượng và trình độ
chuyên môn.Báo cáo thống kê gần nhất của Tổng cục Thống kê (đầu năm 2008), dân
số nước ta có khoảng 86,3 triệu người, trong đó nữ chiếm 50,9%. Tính riêng lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, cả nước có khoảng 44,1 triệu lao động đang làm
việc trong nền kinh tế quốc dân, trong đó có gần 21,1 triệu lao động là nữ (chiếm
47,8%).Theo số liệu một cuộc điều tra về lao động - việc làm năm 2007 cho thấy, lao
động nữ tham gia vào thị trường lao động sớm hơn nam giới, nhưng lao động phổ
thông, chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Phần lớn phụ nữ khi tốt nghiệp trung

học cơ sở, trung học phổ thông, thậm chí nhiều người chỉ tốt nghiệp tiểu học, không
tiếp tục học lên mà tham gia ngay vào thị trường lao động. Đa số phụ nữ làm việc
trong các lĩnh vực: dệt, may, da giày (78,5%); chế biến lương thực, thực phẩm
(66,8%); sành, sứ, thủy tinh (59,2%). Nhìn chung, lao động phổ thông nữ chiếm tỷ lệ
cao nhất trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (62,9%), sau đó đến các
doanh nghiệp tư nhân (62,6%) và doanh nghiệp nhà nước là 49,1%. Trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lao động nữ trong các cơ sở sản xuất kinh doanh thấp hơn so với
nam giới.
- Tình trạng có việc làm của lao động nữ cũng kém hơn so với lao động nam,
tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp ở thành thị cũng cao hơn mức chung của cả nước. Năm
2007, cả nước có trên 2,5 triệu lao động thiếu việc làm, trong đó nữ chiếm 51%. Lao
động thiếu việc làm chủ yếutập trung ở nông thôn (88,87%) - khu vực lao động nữ
chiếm số lượng lớn.
Trong khu vực có quan hệ lao động, phụ nữ chỉ chiếm 40% số việc làm được
trả lương và chiếm tỷ lệ thấp trong ngành nghề bậc cao (quản lý, chuyên môn ky
thuật), chiếm tỷ lệ cao trong nghề bậc trung và nghề bậc thấp.Biến động lao động
trong các doanh nghiệp xảy cũng có nguyên nhân từquá trình hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới. Để nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp cần cơ cấu
lại sản phẩm, chuyên môn hoá sản xuất, đổi mới chất lượng lao động.
1.3.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá

24


Quá trình đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm , năng xuất
lao động và khả năng cạnh tranh làm cho một bộ phận lao động bị thất nghiệp. Chỉ
tính trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước, lao động dôi dư do nguyên nhân người
lao động không đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ chiếm tới 30,41% tổng số
lao động dôi dư. Cũng theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số
trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực

lượng lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động. Số lao
động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng dân số, bao
gồm: lao động khu vực thành thị gần 12 triệu người, chiếm 27% tổng lao động trong
độ tuổi đang làm việc; lao động khu vực nông thôn 31,9 triệu người, chiếm 73%. Tỷ
lệ lao động có trình độ học vấn trung học cơ sở trở lên là 56,7% so với tổng số lao
động trong độ tưổi, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ trung học phổ thông trở lên là
27,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi có trình độ đại học trở lên chiếm 5,3% tổng
lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó thành thị 14,4%; nông thôn 1,8%; nam
5,6%; nữ 5%. Tại thời điểm điều tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất
nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong đó tỷ lệ
thất nghiệp khu vực thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là
2,25%, cao hơn mức 1,53% của năm 2008
Thất nghiệp do doanh nghiệp bị phá sản: Trong nền kinh tế thị trường
mở cửa, hiện tượng có doanh nghiệp bị phá sản là chuyện bình thường.Sự phá sản
của một bộ phận doanh nghiệp dẫn đến hậu quả là số lao động làm việc trong các
doanh nghiệp này rơi vào tình trạng thất nghiệp. Ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước,
giai đoạn mở cửa nền kinh tế đã có 1344 doanh nghiệp (20% doanh nghiệp) bị phá
sản trong tổng số 6720 doanh nghiệp đã đưa ra khỏi danh sách doanh nghiệp Nhà
nước. Hiện tượng doanh nghiệp bị phá sản trong khu vực ngoài quốc doanh cũng
không còn hiếm.Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật phá sản doanh nghiệp để giải
quyết các vấn đề đến tình trạng doanh nghiệp bị phá sản.Toàn cầu hoá kinh tế đã làm
tăng mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế: hiện tượng thất nghiệp do phá sản, giải thể
doanh nghiệp là hiện tượng có tính quy luật.

25


×