Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu Luận Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.63 KB, 15 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Vấn đề phân định, phối hợp và kiểm soát quyền lực ở tất cả các cơ quan
của bộ máy nhà nước trong mỗi quốc gia phải luôn được thực hiện một cách ro
ràng, hợp lý. Việc phân định, phối hợp và kiểm soát quyền lực đó càng đặc biệt
quan trọng hơn nữa đối với hệ thống cơ quan chính quyền địa phương. Vì mọi
chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và các quyền tự do, dân chủ của công dân đều được trực tiếp thực thi ở hệ thống
cơ quan này.
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến hệ thống các cơ quan chính
quyền địa phương trong quá trình xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước.
Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng đã khẳng định: “Tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp,
đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”. Đây là nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Riêng
về hệ thống các cơ quan chính quyền địa phương, trong Kết luận về tổng kết
việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI
đã nêu một cách cụ thể: “Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất phương án quy định về
đơn vị hành chính lãnh thổ, cấp hành chính và tổ chức chính quyền địa phương;
quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung
ương và địa phương; bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời
phát huy vai trò, trách nhiệm của địa phương”.
Tinh thần này đã được Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền
địa phương thể chế hóa. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã định
hướng cho việc xây dựng bộ máy chính quyền địa phương hiện nay là: “Hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương gắn kết
hữu cơ với đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị-xã hội ở các cấp”, “Hoàn thiện các mô hình tổ chức chính quyền

1




địa phương phù hợp với đặc điểm của nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành
chính-kinh tế đặc biệt theo luật định”…
Việc nghiên cứu, tìm hiểu bộ máy hành chính nhà nước giúp ta có cái
nhìn khách quan, đầy đủ và toàn diện nhất về cấu trúc, thực trạng của bộ máy
hành chính nhà nước, từ đó thấy được điểm mạnh, hạn chế, những quan điểm,
chủ trương, biện pháp đúng đắn hướng đến xây dựng một bộ máy hành chính
nhà nước hoàn chỉnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả đáp ứng thời kỳ đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước như hiện nay.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng nêu trên và những kiến kiến đã được tiếp
thu bài giảng, em xin chọn nội dung “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương ở Việt Nam” để viết bài thu hoạch của mình.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. Lý Luận chung về chính quyền địa phương
1.1. Khái niệm chính quyền địa phương
Hệ thống đơn vị hành chính ở Việt Nam hiện nay được chia thành ba cấp:
Đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Cấp tỉnh gồm các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương; cấp huyện gồm có quận, huyện, thị xã và đơn vị
hành chính tương đương; cấp xã gồm xã, phường, thị trấn. Đối với cấp huyện,
đơn vị hành chính tương đương quận, huyện, thị xã có thể là thành phố thuộc
tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương. Ngoài ra, còn có “đơn
vị hành chinh - kinh tế đặc biệt” do Quốc hội thành lập.
Thuật ngữ “chính quyền địa phương” được sử dụng nhiều và rộng rãi
trong đời sống xã hội, phổ biến trong các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Các tài liệu của Đảng đều thừa nhận chính quyền địa

phương gồm hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, “quan niệm coi chính
quyền địa phương chỉ bao gồm hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cũng
được thể hiện khá ro trong các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới khi đặt
ra chủ trương về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước”.
Tương tự, các văn bản pháp luật của Nhà nước cũng coi chính quyền địa
phương gồm hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Cụ thể, các văn bản luật về
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương đều có tên là Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.
Trên phương diện nghiên cứu khoa học, đến nay chưa có khái niệm thống
nhất về “chính quyền địa phương”. Tuy nhiên, khái niệm chính quyền địa
phương có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa rộng,
chính quyền địa phương là hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức ở địa
phương để thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương. Hiểu theo nghĩa hẹp,
chính quyền địa phương là hệ thống các cơ quan được tổ chức ra ở địa phương
nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Theo đó,
chính quyền địa phương là hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương tổ chức

3


ra để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao tương ứng với chính quyền
Trung ương, được tổ chức theo ba cấp: chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp
huyện, chính quyền cấp xã.
Có thể hiểu: Chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành của chính
quyền nhà nước, trong đó mỗi cấp chính quyền địa phương gồm có hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chinh - kinh tế đặc biệt do luật định nhằm thực hiện
chức năng nhiệm vụ của địa phương theo quy định của pháp luật, bảo đảm kết
hợp hài hòa giữa lợi ích của nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Có thể nhận diện một số đặc điểm của chính quyền địa phương từ khái

niệm trên:
Một là, về tổ chức, mỗi cấp chính quyền địa phương có đầy đủ cả hai cơ
quan, gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Bộ máy chính quyền địa
phương được tổ chức ở ba cấp: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Hai là, chính quyền địa phương là những pháp nhân công quyền, được
thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật. Chính quyền địa phương ở
mỗi cấp do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp lập ra theo quy định của pháp
luật Chính quyền địa phương là một pháp nhân có ngân sách độc lập, nhằm
thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương, nhân danh mình thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và tự chịu trách nhiệm.
Ba là, chính quyền địa phương có các mô hình cụ thể phù hợp với mỗi
cấp và địa bàn đô thị, nông thôn, hải đảo và đơn vị hành chính - kính tế đặc biệt
do luật định. Các đơn vị hành chính đều có chính quyền địa phương. Tuy nhiên,
mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương không giống nhau.
Bốn là, mỗi cấp chính quyền thực hiện những chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn khác nhau theo quy định của pháp luật. Chính quyền địa phương là
thiết chế vừa thực hiện những chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật; đồng thời thực hiện những nhiệm vụ ở địa phương trong khuôn
khổ của pháp luật.

4


1.2. Vị trí, tính chất của chính quyền địa phương
Vị trí, tính chất của chính quyền địa phương được khẳng đinh thông qua
các quy định về vị trí, tính chất cơ cấu của chính quyền địa phương, đó là hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp

trên; ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của
hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của hội đồng nhân dân. Đây là sự khẳng định vị trí, tính chất, vai trò
của hội đồng nhân dân trong bộ máy nhà nước.
Về tính chất, hội đồng nhân dân có hai tính chất giống Quốc hội, đó là
tính quyền lực và tính đại diện. Tuy nhiên, tính chất của hội đồng nhân dân khác
với tính chất của Quốc hội về phạm vi và mửc độ; ngoài ra, hội đồng nhân dân
có tính chất là cơ quan có tính tự quản địa phương và cơ quan có nhiệm vụ “tổ
chức, thi hành các quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên và chịu trách
nhiệm trước các cơ quan nhà nước cấp trên”.
Ủy ban nhân dân bên cạnh tính chất là cơ quan chấp hành của hội đồng
nhân dân, còn là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trực thuộc hai
chiều, vừa chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân và vừa chịu trách nhiệm
trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
1.3. Nhiệm vụ của chính quyền địa phương
Mỗi cấp chính quyền địa phương có những nhiệm vụ cụ thể phù hợp với
tính chất, chức năng. Nhìn chung, pháp luật quy định nhiệm vụ của chính quyền
địa phương như sau:
Thứ nhất, tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên
địa bàn địa phương.

5


Thứ hai, quyết định những vấn đề của địa phương trong phạm vi được
phân quyền, phân cấp theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên ủy quyền.
Thứ tư, kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương cấp dưới.
Thứ năm chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nuớc
cấp trên về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Thứ sáu, quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã bội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
2. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở
Việt Nam
2.1. Thực trạng tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương ở
Việt Nam
2.1.1. Thành tựu đạt được
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003,
chính quyền địa phương đã có bước phát triển mới chức năng, nhiệm vụ và cơ
cấu tổ chức bộ máy. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương đã được
xác định lại, bộ máy chính quyền địa phương ở cả ba cấp phần lớn đã có quy mô
gọn hơn, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội. Hội đồng nhân dân các
cấp luôn khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu và quyền lực của địa
phương. Thường trực hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện được hình thành, số
lượng đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã được tăng thêm. Phương thức lựa chọn
đại biểu vào hội đồng nhân dân, mặc dù vẫn ưu tiên cho cơ cấu, nhưng đã có sự
chú trọng hơn cho chất lượng, trình độ đại biểu. Ủy ban nhân dân các cấp cũng
được tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp hơn với đặc điểm, tính chất công tác của
chính quyền địa phương các cấp trong tình hình mới. Những thay đổi này đã góp

6


phần làm cho các cấp chính quyền địa phương trong thời gian qua hoạt động có
hiệu quả hơn, đóng góp thiết thực vào việc phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Theo Hiến pháp năm 2013, hội đồng nhân dân thực hiện hai chức năng là
“quyết định” và “giám sát”, theo đó, hội đồng nhân dân sẽ quyết định chính sách
địa phương về thực hiện công vụ địa phương; giám sát việc thực hiện các chính
sách này. Đồng thời, với những công vụ của Trung ương giao cho chính quyền
địa phương thực hiện thì hội đồng nhân dân có trách nhiệm giám sát việc triển
khai công việc này. Còn ủy ban nhân dân là “cơ quan chấp hành của hội đồng
nhân dân”, tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức
thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ
quan nhà nước cấp trên giao. Những quy định mới về chính quyền địa phương
trong Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa nhiều quan điểm đổi mới của Đảng,
đó là thực hiện phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao
chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung
ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao cho chính quyền địa phương
mỗi cấp.
Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã
tạo cơ sở pháp lý và tạo ra bước đột phá về tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương các cấp, bảo đảm và nâng cao chất lượng hoạt động của hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong
phạm vi được phân cấp. Theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở
các đơn vị hành chính đều phải có hội đồng nhân dân vả ủy ban nhân dân. Chính
quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.
Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực
thuộc Trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố
trực thuộc Trung ương, phường, thị trấn. Lần đầu tỉên, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 cũng quy định về mô hình tổ chức chính quyền địa

7



phương ở hải đảo và đặc khu hành chính - kinh tế đặc biệt. So với Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 phân biệt giữa chính quyền địa phương ở nông thôn và ở
đô thị. Việc tổ chức chính quyền địa phương phải phù hợp với đặc điểm kinh tế,
địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn; tăng cường
chức năng giám sát của hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân thông qua
hình thức lấy phiếu và bỏ phiếu tin nhiệm đối với các chức danh do hội đồng
nhân dân bầu; đồng thời, Luật đã bổ sung quy định chi tiết về số lượng, cơ cấu
thành viên và nguyên tắc hoạt động của ủy ban nhân dân.
2.2.2. Hạn chế, bất cập
Những quy định mới về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
theo quy định tại Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 đến nay vẫn còn nhiều bất cập, thể hiện ở một số khía cạnh:
Một là, ở một số cấp chính quyền, hội đồng nhân dân chưa phát huy được
vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của nhân dân địa phương. Hoạt động của hội đồng nhân dân
một số nơi mới chỉ là cơ quan hợp thức hóa các nghị quyết của cấp ủy đảng.
Nhiều cấp ủy đảng còn lúng túng trong phương thức lãnh đạo đối với hội đồng
nhân dân, chưa có định hướng kịp thời trong việc kiện toàn, củng cố tổ chức,
trong việc duy trì các hoạt động của hội đồng nhân dân, chưa kiểm tra sát sao
việc thực hiện các nghị quyết và giải quyết các kiến nghị của đại biểu hội đồng
nhân dân. Trong khi đó, ủy ban nhân dân ở một số cấp chính quyền chưa đề cao
ý thức chấp hành các nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp.
Hai là, công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ một số vị trí ở một số cơ
quan của các cấp chính quyền chưa theo kịp với yêu cầu. Một số cấp ủy đảng
chưa thực sự quan tâm đúng chất lượng, tiêu chuẩn của đảng viên giới thiệu
sang cơ quan chính quyền, làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động
của cơ quan chính quyền.


8


Ba là, phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với chính quyền địa
phương ở một số nơi chưa được phân định ro ràng, vẫn còn tình trạng bao biện
và sự can dự từ phía cấp ủy; tình trạng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân mang tính hình thức, dựa dẫm, thụ động vẫn tồn tại ở một số địa
phương. Chế độ tập thể lãnh đạo của ủy ban nhân dân không ro trách nhiệm
người đứng đầu và trách nhiệm cá nhân dẫn đến hội họp nhiều, phản ứng chậm,
kém hiệu quả. Việc xây dựng và thực hiện các chế độ làm việc, phối hợp hoạt
động của hệ thống chính trị còn chưa thật ro ràng, chặt chẽ và hiệu quả.
Bốn là, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã thể chế hóa
tinh thần của Hiến pháp năm 2013 nhưng cũng chưa tạo ra những thay đổi lớn
trong tổ chức của chính quyền địa phương ở mỗi cấp; cơ cấu tổ chức của chính
quyền cấp dưới vẫn giống cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp trên. Luật mới
quy định về tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị và nông thôn nhưng chưa
xây dựng được hệ thống các tiêu chí để làm căn cứ phân định cũng như đánh giá
hoạt động của chính quyền địa phương ở đô thị và chính quyền địa phương nông
thôn cũng như các cấp chính quyền địa phương.
Năm là, việc phân chia đơn vị hành chính hiện nay cơ bản vẫn như trước
đây là theo cấp quản lý. Luật Tổ chức chính quyền địa phương mới chưa thể
hiện được sự phân biệt giữa đơn vị hành chính và cấp chính quyền. Một số nội
dung liên quan đến tổ chức đơn vị hành chính được ghi nhận trong Hiến pháp
nhưng chưa được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015.
Sáu là, mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp
Ở mức độ nào đó cho thấy, hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật
là cơ quan quyền lực ở địa phương nhưng lại không thể hiện được quyền lực ấy
trên thực tế và đôi lúc trở thành cơ quan không thực quyền. Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 không quy định ro trách nhiệm, mối quan hệ công

tác giữa hội đồng nhân dân tỉnh với hội đồng nhân dân cấp huyện, xã.
Bảy là, về mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với các cơ quan
khác trên địa bàn địa phương, mặc dù đã được Luật Tổ chức chính quyền địa

9


phương quy định cụ thể hơn nhưng vẫn còn “tư tưởng bao cấp, phân phát” chưa
động viên được các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia xây dựng
chính quyền địa phương.
2.2. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở
Việt Nam
Tiếp tục quán triệt và thể chế hóa kịp thời chủ trương, quan điểm của
Đảng về tổ chức chính quyền địa phương trong thời kỳ mới. Cụ thể hóa quy
định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
và các luật có liên quan trong quá trình triển khai xây dựng, tổ chức kiện toàn
chính quyền địa phương phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Định
hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, định hướng hoàn thiện các mô hình tổ chức chính quyền địa
phương ở các cấp hành chính
- Cụ thể hóa các tiêu chí đối với mỗi cấp chính quyền và tiêu chí để xây
dựng, hoàn thiện chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm, tính chất của
chính quyền ở đô thị và nông thôn, hải đảo và đặc khu hành chính - kinh tế.
- Đối với mô hình chính quyền địa phương ở đô thị cần điều chỉnh lại
chức năng, thẩm quyền của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở đô thị để
đảm bảo tính tập trung, thống nhất, xuyên suốt trong quản lý điều hành của bộ
máy hành chính nhà nước đô thị.
- Chính quyền địa phương ở nông thôn cần phát huy mạnh mẽ vai trò đại

diện, đại biểu của nhân dân trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện và tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ có tính tự quản của cộng đồng dân cư. Tiếp tục đầu tư cơ sở
hạ tầng ở các vùng nông thôn, góp phần khắc phục những trở ngại vì khoảng
cách địa lý cho các vùng nông thôn, bảo đảm sự tiện lợi cho nhân dân trong việc
thụ hưởng các dịch vụ, tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

10


- Tổ chức chính quyền ở hải đảo cũng trên nguyên tắc phải bảo đảm tăng
cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước tại địa
phương, bảo đảm linh hoạt, phát huy lợi thế của địa phương, phát huy tiềm năng
kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền quốc gia, phát triển hải đảo.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Luật Đơn vị hành chính - kính tế đặc biệt.
Theo đó, phải tạo ra khung khổ pháp lý cho việc tổ chức vả hoạt động của chính
quyền địa phương ở đặc khu hành chính - kinh tế được áp dụng các cơ chế,
chính sách đặc biệt về kinh tế-xã hội, có chính quyền địa phương được tổ chức
phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, định hướng tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính
quyền địa phương
Hiến pháp năm 2013 quy định: chính quyền địa phương có nhiệm vụ tổ
chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết
định các vấn đề địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan
nhà nước cấp trên; đồng thời, trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa
phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nuớc cấp trên với
các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó. Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 quy định ro nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương
ở tỉnh, thành phổ trục thuộc Trung ương (Điều 17, 38); nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố

thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (Điều 24, 45, 52); nhiệm vụ, quyền hạn
của chính quyền địa phương ở xã, phường, thị trấn (Điều 31, 59, 66); nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương ở hải đảo (Điều 73).
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được
xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung
ương vi địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương theo hình thức phân
quyền, phân cấp. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa

11


phương cũng phải bảo đảm sự gắn kết giữa hai thiết chế hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân.
Thứ ba, định hướng thực hiện sự phân định thẩm quyền giữa Trung ương
và địa phương; giữa các cấp chính quyền địa phương
Quá trình thực hiện sự phân định thẩm quyền giữa Trung ương và địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương đòi hỏi phải phân cấp thật ro
ràng về nhiệm vụ, quyền hạn giữa Trung ương, địa phương và giữa mỗi cấp
chính quyền địa phương. Thực hiện sự phân định thẩm quyền giữa Trung ương
và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương đảm bảo tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, phát huy mọi tìm năng, thế mạnh của chính quyền địa phương
các cấp; đồng thời, tránh sự chồng chéo, trùng lắp trong thực hiện nhiệm vụ, hay
đùn đẩy, né tránh trách nhiệm giữa chính quyền Trung ương và địa phương khi
thực hiện nhiệm vụ.
Thứ tư, định hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
- Hoàn thiện chế độ tiếp xúc cử tri của đại biểu hội đồng nhân dân: đại
biểu hội đồng nhân dân phải thu thập và phản ánh đầy đủ, trung thực ý kiến
nguyện vọng của nhân dân thông qua tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu ra mình; tham
khảo ý kiến cử tri nơi công tác và cư trú. Nội dung các cuộc tiếp xúc cử tri cần
được thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và tập trung

vào những vấn đề mà nhân dân đang quan tâm. Cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa mặt trận Tổ quốc - hội đồng nhân dân - ủy ban nhân dân trong các cuộc tiếp
xúc cử tri của đại biểu dân cử với cử trí.
- Hoàn thiện pháp luật về hoạt động lập quy của hội đồng nhân dân; đổi
mới quy trình ban hành và nâng cao chất lượng nghị quyết của hộỉ đồng nhân
dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật về thẩm quyền, trình tự ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật; kiện toàn tổ chức và hoạt động của thường trực hội đồng
nhân dân và các ban của hội đồng nhân dân. Đối với những nghị quyết của hội
đồng nhân dân quan trọng, liên quan nhiều đến đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội ở địa phương phải công khai thảo luận để nhân dân tham gia góp ý

12


kiến vào dự thảo trước khi trình hộí đồng nhân dân biểu quyết thông qua.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của hội đồng nhân
dân các cấp. Cần có các chế tài cụ thể trong hoạt động giám sát của hội đồng
nhân dân; hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm của đối
tượng giám sát, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của hội đồng
nhân dân. Cần có cơ chế cung cấp thông tin liên quan đến việc thực hiện nghị
quyết của hội đồng nhân dân để đại biểu hội đồng nhân dân có điều kiện nắm
bắt các thông tin về hoạt động của ủy ban nhân dân và các cơ quan nhà nước.
- Cần sớm ban hành Quy chế phối hợp trong hoạt động của hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân các cấp; có biện pháp cụ thể tăng cường vai trò của hội
đồng nhân dân trong mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt trong
mối quan hệ với ủy ban nhân dân cùng cấp, khắc phục tính hình thức trong hoạt
động của hội đồng nhân dân.
Thứ năm, định hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân
dân

- Xây dựng quy chế hoạt động phân định ro thẩm quyền, trách nhiệm cùa
chủ tịch ủy ban nhân dân và tập thể ủy ban nhân dân theo hướng phân định ro
những loại việc bắt buộc phải thảo luận và biểu quyết của ủy ban nhân dân,
những loại việc thuộc thẩm quyền quyết định của chủ tịch ủy ban nhân dân.
Nguời đứng đầu ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đề xuất, giới thiệu
nhân sự cấp phó và các thành viên của ủy ban nhân dân để cấp ủy có thẩm
quyền xem xét, quyết định, sau đó giới thiệu cho cơ quan có thẩm quyền để bầu
hoặc bổ nhiệm và chịu trách nhiệm về việc đề xuất, giới thiệu của mình.
- Thực hiện các biện pháp đánh giá năng lực hoạt động của ủy ban nhân
dân, đổi mới hình thức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do hội đồng
nhân dân bầu; thực hiện biện pháp lấy ý kiến đánh giá sự tín nhiệm của tập thể
ủy ban nhân dân thông qua hình thức chấm điểm đối với các thành viên và tập
thể ủy ban nhân dân. Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của các cơ quan chuyên

13


môn thuộc ủy ban nhân dân và các thành viên ủy ban nhân dân trong thực hiện
đúng những nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công, phân cấp; thẩm quyền,
trách nhiệm của tập thể ủy ban nhân dân, của chủ tịch ủy ban nhân dân.
- Quy chế hóa mối quan hệ giữa chủ tịch ủy ban nhân dân với tập thể ủy
ban nhân dân. Cần có những quy định cụ thể và khả thi về trách nhiệm của chủ
tịch ủy ban nhân dân và những người đứng đầu cơ quan chuyên môn của ủy ban
nhân dân trong việc không hoàn thành nhiệm vụ được giao, để xảy ra tham
nhũng, lãng phí, những vi phạm trong lĩnh vực, cơ quan mình lãnh đạo, phụ
trách thuộc ủy ban nhân dân.
- Xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương trình đào tạo và bồi dưỡng
đối với đội ngũ cán bộ, công chức thuộc ủy ban nhân dân; tạo điều kiện về
phương tiện làm việc, trụ sở, trang thiết bị và ngân sách cho ủy ban nhân dân,
từng bước hiện đại hóa, tin học hóa hoạt động của ủy ban nhân dân các cấp và

hệ thống hành chính.
Thứ sáu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của
các cấp chính quyền địa phương
Tiến hành nhất thể hóa chức vụ của Đảng và chính quyền ở địa phương.
Thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các
cấp; bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân ở cấp xã, cấp huyện đối
với những nơi có đủ điều kiện. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh
chủ chốt không phải là người địa phương. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phù hợp với tình hình thực
tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Cải tiến lề lối làm việc; giảm bớt các cuộc họp
nhưng tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, đi cơ sở.

14


KẾT LUẬN
Một nhà nước tồn tại và phát triển luôn có một hệ thống cơ quan nhà
nước của mình, là công cụ để điều hành xã hội. Bộ máy hành chính nhà nước
được phân chia thành chính quyền Trung ương và chính quyền cấp dưới, cấp
địa phương. Mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ phù hợp, bổ trợ cho nhau trong
việc ổn định trật tự xã hội, hướng tới sự phát triển và đảm bảo lợi ích hợp pháp
cho nhân dân.
Chính quyền địa phương cơ sở là chính quyền được tổ chức ra nhằm bảo
đảm, bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích của nhân dân, nhân dân là đối tượng cơ
bản để chính quyền phục vụ. Dưới góc độ vai trò của nhà nước, nhân dân chính
là chủ thể của quyền lực nhà nước. Theo đó, chính quyền địa phương cơ sở phải
là chính quyền do nhân dân tổ chức ra, của nhân dân và hoạt động vì nhân dân.
Hiện nay hoạt động của chính quyền cấp dưới và cấp địa phương của ta
đã tạo ra bước chuyển trong cải cách hành chính góp phần tổ chức hợp lý chính
quyền địa phương, nhất là phân biệt ro chính quyền đô thị và nông thôn. Bên

cạnh đó, vẫn bảo đảm được tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của
bộ máy hành chính Nhà nước; chức trách nhiệm vụ, quyền hạn được tăng
cường một cách toàn diện và thực hiện được đúng nguyên tắc tập trung dân chủ
trong quản lý, điều hành. Đồng thời, quyền làm chủ của người dân ở địa phương
vẫn được đảm bảo.
Bên cạnh những mặt đạt được, cũng phải thẳn thắng thừa nhận rằng, chính
quyền địa phương vẫn còn những điều hạn chế cần khắc phục trong thời gian
tới. Phát huy cái đã đạt được, sửa đổi cái không phù hợp sẽ xây dựng một chính
quyền địa phương vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu qua tăng cao vừa đảm
bảo lợi ích cho nhân dân được tăng cường, xã hội ổn định, trật tự hơn, thúc đẩy
đất nước sớm hoàn thành cải cách hành chính và phát triển ngày một vững mạnh
trên trường quốc tế.

15



×