Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Quan điểm, chính sách của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.24 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng tồn tại
đan xen nhau, đáp ứng nhu cầu về đời sống tâm linh và đời sống tinh thần của
đông đảo người dân. Là người lãnh đạo và quản lý xã hội, Đảng và Nhà nước Việt
Nam, từ phương diện quan điểm, chính sách đã luôn quan tâm đến lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo, nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và
củng cố khối đại đoàn kết tôn giáo, dân tộc. Đến nay cả nước có 37 tổ chức tôn
giáo đã được Nhà nước cấp đăng ký hoặc công nhận về tổ chức và 01 pháp môn tu
hành. Quan điểm, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ
sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực
tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và trên thế giới; phù hợp với tình
hình cách mạng trong từng thời kỳ.
Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; nắm vững tình hình tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước; tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân để xây dựng khối đoàn kết lươnggiáo, đại đoàn kết toàn dân tộc; huy động và hiệu triệu sức mạnh của dân tộc, đại
bộ phận tín đồ, chức sắc các tôn giáo, người có tín ngưỡng trên phạm vi cả nước
tham gia tích cực vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, góp phần to lờn vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế cho thấy, sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta không ngừng nâng cao nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước
trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng. Cùng với chủ trương, chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng, đa số chức sắc và tín đồ các tôn
giáo đã tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hành
đạo trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. phát huy truyền thống yêu nước, đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính sách, tạo điều kiện
thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào có đạo và nâng cao hiệu
quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh đất nước có
1



nhiều thay đổi, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng có những nội dung mới, vì vậy phải
nghiên cứu để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo một cách thấu đáo, có hiệu quả vì mục tiêu phát triển một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chú, công bằng, văn minh. Em xin chọn nội dung “Quan
điểm, chính sách của Đảng về tôn giáo, tín ngưỡng” để làm bài thu hoạch môn
Tôn giáo và tín ngưỡng.

2


NỘI DUNG
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có quan điểm đúng đắn về công tác tôn giáo. Cùng với những nguyên lý bất di bất
dịch là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, tập hợp chức sắc, tín đồ các tôn
giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sau khi nhà nước Dân chủ Nhân dân
được thành lập (9/1945), Đảng và Nhà nước Việt Nam căn cứ vào tình hình thực
tiễn cách mạng đặt ra mà có quan điểm, chính sách tôn giáo phù hợp. Quan điểm,
chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết kế thừa truyền thống
và những bài học kinh nghiệm ứng xử với tôn giáo của cha ông để lại, đồng thời là
sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam. “Trong cách mạng dân tộc, dân chủ, chính sách “tín
ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to
lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống
nhất hoàn toàn cho đất nước”.
1. Quan điểm, chính sách của Đảng đối với tôn giáo, tín ngưỡng
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, từ năm 1986, quan điểm của Đảng được
khẳng định trên tất cả các văn bản, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về tôn giáo
và công tác tôn giáo, văn kiện các đại hội Đảng. Trong các nghị quyết chuyên đề,
trước hết phải kể đến Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị
về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Tại nghị quyết này, nhiều

quan điểm về tôn giáo và chỉ đạo công tác tôn giáo của Đảng đã được đổi mới về
căn bản và mang tính đột phá, lần đầu tiên được Đảng đưa ra. Đó là các quan điểm:
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và là vấn đề còn tồn tại lâu
dài; đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới;
nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng và kiên
quyết đấu tranh chống các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo chống phá cách
mạng. Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo
đã chuyển chủ yếu từ nhận thức tôn giáo là chính trị, là nhạy cảm, tiêu cực, là địch
lợi dụng tôn giáo, sang tôn giáo là nhu cầu của nhân dân, là lực lượng quần chúng
3


của Đảng và tôn giáo có những giá trị tích cực. Nhận thức của Đảng về tôn giáo
như vậy là khách quan và toàn diện hơn so với trước đây.
Đến Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX về công tác tôn giáo một lần nữa thể hiện sự nhất quán cao độ quan
điểm, chính sách đối với tôn giáo đã được nêu trong Nghị quyết số 24-NQ/TW với
khẳng định: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn
kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết đề ra 5 quan điểm, chính
sách đối với tôn giáo, đó là:
1) Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đồng thời các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền tư do sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy
định của pháp luật. Các tôn giáo hoạt động theo khuôn khổ của pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật. Quan điểm, chính sách này là sự đổi mới rõ rệt, căn bản cả

về lý luận và thực tiễn đối với tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng ta hiện nay
2) Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
tuyên truyền thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những gngười có công với Tổ quốc và Nhân
dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng thời, nghiêm cấm lơi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tính vị
đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Quan điểm, chích
sách này của Đảng về tôn giáo đã xác định mục tiêu của công tác tôn giáo trong
thời kỳ đổi mới đất nước, đồng thời cũng khẳng định vai trò của tôn giáo và đồng
4


bào tôn giáo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
3) Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Đó là vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân
không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo được Nghị quyết chỉ ra rất cụ
thể: “Phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập
và thống nhất Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội,
an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung,
trong đó có đồng bào tôn giáo”. Quan điểm này cho thấy vấn đề tôn giáo chính yếu
ở nước ta là vấn đề quần chúng nhân dân – đối tượng phát triển của Đảng và công
tác vận động quần chúng các tôn giáo phải toàn diện, từ kinh tế, xã hội, chính trị
đến văn hóa tinh thần.
4) Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn
giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các

địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn
giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý Nhà
nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối
chế độ nếu thành công khi làm tốt công tác vận động quần chúng. Quan điểm này
đã khẳng định tính chất khách quan và quan trọng của công tác tôn giáo, đồng thời
đồi hỏi mỗi tổ chức của hệ thống chính trị phải xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ,
chức năng cụ thể của mình trong công tác tôn giáo.
5) Vấn đề theo đạo và truyền đạo được Nhà nước quy định rất cụ thể. Mọi
tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy
định của pháp luật. các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động
theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách, giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sởthờ
5


tự tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như
mội hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được
lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không ép buộc
người dân theo đạo. nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các
cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Các Quan điểm trên đòi hỏi công tác tôn giáo phải luôn quán triệt từ nhận
thức đến thực tiễn. Đó cũng là cơ sở trực tiếp để Đảng, Nhà nước tiếp tục đề tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung và đối với các hình thức tín ngưỡng tôn giáo cụ thể nói
riêng. Có thể thấy từ những văn kiện Đại hội Đảng các khóa, Đảng ta đã đưa ra các
quan điểm nhận thức về tôn giáo và định hướng chính sách, pháp luật đối với tôn
giáo, tín ngưỡng mang tầm chiến lược. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã mở ra thời
kỳ đổi mới đất nước, trong đó vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo được Đảng
khẳng định trên một số quan điểm định hướng có ý nghĩa căn cốt đối với chính
sách, pháp luật về tôn giáo. Đó là: Đảng và Nhà nước ta, trước sau như một, thực

hành chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng. Lãnh đạo và giúp đỡ đồng bào theo
tôn giáo đoàn kết xây dựng cuộc sống mới và hăng hái tham gia bảo vệ tổ quốc.
Cảnh giác, kiên quyết và kịp thời chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn đế quốc và
phản động chia rẽ đồng báo có đạo với đồng bào không có đạo, giữa đồng bào theo
đạo này với đồng bào theo đạo khác. Trên cơ sở đó, đến các lần Đại hội VII đến
Đại hội XII, các quan điểm định hướng của Đại hội VI tiếp tục được Đảng ta
khẳng định với sự mở rộng, làm sâu sắc hơn và đặt biệt hơn đã nhấn mạnh tới quan
điểm “ phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức của các tôn giáo và đại đoàn kết
toàn dân tộc”. Về nội dung này, Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: “ Tiếp
tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ
chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo được Nhà
nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh
với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại doàn
kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.
6


Qua năm quan điểm, chính sách đối với tôn giáo được đề ra trong Nghị quyết 25
có những quan điểm kế thừa Nghị quyết 24 (quan điểm 3 và 4), có quan điểm vừa
kế thừa lại vừa có sự phát triển làm rõ thêm, cụ thể hơn (quan điểm thứ nhất và
quan điểm thứ hai). Quan điểm thứ 5 là dựa trên những vấn đề bức xúc đặt ra cấp
thiết đối với một số tôn giáo, nổi lên là Tin Lành.
Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo
đã chuyển chủ yếu từ nhận thức tôn giáo là chính trị, là nhạy cảm, tiêu cực, là địch
lợi dụng tôn giáo, sang tôn giáo là nhu cầu của nhân dân, là lực lượng quần chúng
của Đảng và tôn giáo có những giá trị tích cực. Đây là xu thế khách quan, phù hợp
thời đại ngày nay về nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vấn đề tôn
giáo, tín ngưỡng.


2. Nguyên tắc chính sách đối với tôn giáo, tín ngưỡng
Để thực hiện tốt quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tín
ngưỡng, tôn giáo thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta yêu cầu các cấp
ủy đảng và chính quyền động viên đồng bào các tôn giáo phát huy truyền thống yêu
nước, hăng hái tham gia công cuộc đổi mới, làm tốt việc đạo, làm tròn nghĩa vụ công
dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và thực hiện đầy đủ các nguyên tắc sau:
1) Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo lđạo và không theo đạo, cũng như
giữa các tôn giáo khác nhau.
2) Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong
khối đại lđoàn kết toàn dân.
3) Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền Quốc gia.
7


4) Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
5) Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội,
phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối
sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ
công dân, đều bị xử lý theo pháp luật; hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ.
3. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo, tín ngưỡng thời gian qua
3.1- Thành tựu và nguyên nhân

- Thành tựu:
+ Công tác tôn giáo đã động viên đượcđồng bào có đạo, các tín đồ, chức
sắc…hưởng ứng tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc đạt được nhiều tiến bộ.
+ Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới đất nước.
+ Các tổ chức tôn giáo ở nước ta đã xây dựng được đường hướng, phương
châm hành đạo tiến bộ, hoạt động gắn bó với dân tộc theo Hiến pháp, pháp luật;
các tôn giáo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đã tập hợp đông đảo tín
đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp
phần vào công cuộc đổi mới đất nước.
+ Các ngành, các cấp đã chủ động, tích cực thực hiện chủ trương, chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị
ở các vùng đồng bào tôn giáo; đồng thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại những
hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch.
- Nguyên nhân của những thành tựu:
+ Do Đảng ta đề xướng đường lối đổi mới đúng đắn; đã lãnh đạo quá trình
thực hiện đường lối đổi mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
8


+ Đảng và Nhà nước ta đã hết sức nhạy bén đưa ra các chủ trương, chính
sách tôn giáo theo tinh thần đổi mới và kịp thời; đã chủ động, sáng tạo trong quá
trình lãnh đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách đó.
+ Công tác tôn giáo đã tích cực xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ máy và đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, tín ngưỡng theo yêu cầu của tình hình mới.
3.2- Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế:
+ Tình hình hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta còn có nhiều diễn biến
phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định.

+ Một số hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng của tổ chức tôn giáo, của cá nhân
người có tôn giáo, tín ngưỡng chưa triệt để để tuân thủ pháp luật, ở một số nơi để
xảy ra hiện tượng tổ chức truyền đạo trái phép; còn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để hành nghề mê tín dị đoan.
+ Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của
tôn giáo ở một số nơi có biểu hiện tăng lên, thậm chí có nơi diễn biến phức tạp.
+ Ở một số nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, miền núi, một số phần tử đã
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động lôi kéo, chống đối kích
động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây rối làm mất trật tự
an ninh trên địa bàn, làm ảnh hưởng cuộc sống của người dân, tiềm ẩn nguy cơ gây
mất ổn định chính trị.
- Nguyên nhân của những hạn chế:
+ Công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, trong
khi các thế lực thù địch ráo riết tranh thủ, giành giật, lôi kéo quần chúng tín đồ,
chức sắc tôn giáo.
+ Một số cấp ủy, chính quyền các cấp, một bộ phận cán bộ có trách nhiệm
chưa nhận thức thấu đáo, quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách về tôn giáo, tín
ngưỡng. Có nơi chủ quan, nóng vội, giản đơn trong giải quyết vấn đề liên quan đến
tôn giáo; có nơilại hữu khuynh, thụ động, đùn đẩy, buông lỏng quản lý.
9


+ Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn
giáo chậm được thể chế hóa.
+ Tổ chức, bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nhất là cơ
quan quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng chưa xác định rõ về mô hình, chức
năng, quyền hạn, cơ chế phối hợp, thiếu quan tâm đầu tư bảo đảm các điều kiện
hoạt động; đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và hệ thống chính trị cơ sở ở các
vùng tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số còn yếu, việc tập hợp quần chúng còn
hạn chế.

Thực trạng trên cho thấy, sự đổi mới tư duy của Đảng về tôn giáo, tín
ngưỡng trong giai đoạn hiện nay là nền tảng cho việc tạo lập các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo tín
ngưỡng của đồng bào có đạo và tính hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực
này. Đây là những bước tiến lớn trong việc thực hiện chính sách về vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo trong tình hình mới.
4. Một số giải pháp thực hiện chính sách tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng
ta trong giai đoạn hiện nay
Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy
định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiến quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”.
Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; trước hết, cần tập trung làm tốt
những nội dung cơ bản sau:
- Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của hệ thống chính trị, nhất là đối với cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng
10


viên các cấp về vai trò, nhiệm vụ công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, nhằm giúp đồng bào
các tôn giáo thực hiện tốt phương châm: “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”,
“Nước vinh, đạo sáng”, “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc”,
gắn bó với dân tộc, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”. Do vậy, trong thực
hiện, các cấp cần phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý nhà

nước của chính quyền; không ngừng phát huy vai trò vận động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng trong việc động viên đồng bào có đạo
tham gia thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết, phấn đấu xây
dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. Để đạt hiệu quả, các ngành, các cấp
cần coi trọng việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào có tín
ngưỡng, tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước
ta đối với công tác tôn giáo. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích,
giác ngộ cho tín đồ, chức sắc, chức việc các tôn giáo hiểu được trách nhiệm của
mình đối với dân tộc và đất nước, góp phần tăng cường sự đồng thuận giữa đồng
bào tôn giáo và không theo tôn giáo cũng như giữa các tín đồ tôn giáo khác nhau.
Qua đó, để đồng bào nắm và thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước ta. Đây chính là cơ sở để nhân dân nhận
rõ những hành vi lợi dụng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Hai là, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho đồng bào tôn giáo. Giải pháp này vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính lâu dài, có ý nghĩa sâu sắc trong việc ổn định, đoàn kết đồng bào tôn giáo
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng bào vùng sâu, vùng xa, do điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội kém phát triển nên đời sống khó khăn, trình độ dân trí
thấp. Đây thực sự là mảnh đất thuận lợi để kẻ xấu lợi dụng truyền đạo trái phép,
gieo rắc tà đạo, xây dựng cơ sở để chống phá cách mạng, chống lại đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy, chỉ có cải thiện, ổn định và nâng cao
dần đời sống chính trị - tư tưởng cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng có đông
tín đồ tôn giáo thì mới đưa được đường lối của Đảng, chính sách của Chính phủ
11


đến với đồng bào, để đồng bào hiểu rõ bản chất, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Do
vậy, các ngành, các cấp cần rà soát, kịp thời bổ sung những chính sách đầu tư sát
hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo; tổ chức thực hiện

đồng bộ, chặt chẽ từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo các loại vốn đầu tư thực sự có
hiệu quả, tạo điều kiện để đồng bào phấn đấu vươn lên thoát nghèo một cách bền
vững, hòa nhập với tiến trình đi lên của đất nước. Hiện nay, cần tập trung mọi
nguồn lực để thực hiện tốt Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020
của Chính phủ. Trong thực hiện, cần phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội cùng các tổ chức xã hội tích cực vận động
đồng bào các tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
Đồng thời, các đoàn thể tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng cường xây
dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng, góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân ở địa phương. Qua đó, góp phần cùng nhân dân cả nước khắc
phục khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Ba là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đáp ứng
yêu cầu công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh: cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Thực tiễn thời gian qua minh
chứng: đội ngũ cán bộ giữ vai trò hàng đầu, tác động trực tiếp đến hiệu lực quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động
tín đồ các tôn giáo. Do đó, để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo bảo
đảm dài hạn, khoa học, hợp lý, công việc đầu tiên là phải tiến hành khảo sát, thống
kê số lượng cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là đánh giá năng lực, trình độ của
độ ngũ này. Từ đó, phân loại cán bộ theo trình độ để có kế hoạch bồi dưỡng đúng
đối tượng. Kế hoạch bồi dưỡng cán bộ cần xác định theo trình tự đối tượng dự học
ở các cấp; trên cơ sở xác định mục đích, yêu cầu của từng khóa học. Đối với những
địa phương có nhiều hoạt động tôn giáo, cần ưu tiên số lượng nhằm tăng cường đội
ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
12



bộ cơ sở, những người trực tiếp giải quyết vấn đề liên quan đến tôn giáo ở cơ sở;
nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng có vấn đề tôn giáo mới phát sinh. Trong thực
hiện phải phân công, phân cấp hợp lý công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
công tác tôn giáo, bảo đảm vừa tuân thủ Quy chế đào tạo, bồi dưỡng của Chính
phủ, vừa phù hợp với thực tiễn ở mỗi cấp, mỗi cơ sở đào tạo ở từng vùng, từng địa
phương. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng, các cấp cần đa dạng hóa các loại hình, nội
dung phải luôn mới, sát hợp thực tế, thậm chí phải có tính “vượt trước” thực tế,
nhằm dự báo và chuẩn bị các phương án sẵn sàng nếu có điểm nóng xảy ra. Để nội
dung “thẩm thấu” vào đối tượng đào tạo, bồi dưỡng, cần phải tích cực đổi mới nội
dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp với từng đối tượng, từng
vùng tôn giáo khác nhau. Có như vậy mới xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công
tác tôn giáo đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra cả trước mắt và lâu dài.
- Bốn là, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương,
điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp
luật. Điều này thể hiện sự kế thừa và tầm nhìn mới của Đảng đối với các tổ chức tôn
giáo hợp pháp. Tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt chính là tạo điều kiện cho
các tôn giáo phát triển lành mạnh, tiền đề để chúng ta đoàn kết được họ vào trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là cách giải quyết rất khoa học, nhạy bén trong
giai đoạn hiện nay, vừa đảm bảo tôn trọng tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa kiểm soát
được sự phát triển lành mạnh theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã
được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật, vừa đoàn kết được đồng bào
tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người có tôn giáo bao giờ cũng
có “bổn phận kép”: bổn phận với giáo hội và bổn phận với Nhà nước. Do đó, chúng
ta phải kết hợp hài hòa “bổn phận kép” đó thì mới thuyết phục được đồng bào tôn
giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội, cùng cộng đồng xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Chức sắc, chức việc tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với giáo dân;
uy tín, tiếng nói của họ thường được đồng bào tôn giáo tin theo. Vì vậy, cùng với
công tác vận động, cảm hóa, Đảng và Nhà nước ta cần có chính sách đãi ngộ thỏa
đáng cả về vật chất lẫn tinh thần với họ và có kế hoạch tạo nguồn phát triển lâu dài
đội ngũ cốt cán tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhất là ở những địa bàn trọng điểm. Đồng

13


thời, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và bổ sung
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, pháp quy về tôn giáo.
- Năm là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi
dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và những hoạt
động tôn giáo trái quy định của pháp luật. Điều này thể hiện thái độ kiên quyết,
không khoan nhượng của Đảng và Nhà nước ta đối với những kẻ lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để phá hoại cách mạng Việt Nam. Bởi, chỉ có như vậy mới đảm
bảo được quyền tự do chân chính của đồng bào có đạo hoạt động tôn giáo tự do,
bình đẳng, đúng pháp luật; có bảo đảm quyền ấy mới làm cho đồng bào có đạo tự
giác chống lại những thế lực lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện mưu đồ
xấu. Đây là việc rất cấp thiết trong tình hình hiện nay, khi mà các tôn giáo và các
hiện tượng tôn giáo mới phát triển rầm rộ, khó kiểm soát. Các địa phương cần phát
hiện sớm và chủ động đấu tranh với những hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái
pháp luật, đạo đức, thuần phong mỹ tục,…; đồng thời, hướng họ đi vào hoạt động
lành mạnh, không vi phạm pháp luật. Để đạt hiệu quả, cấp ủy và chính quyền các
cấp cần thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở; xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Đồng thời, làm tốt công tác vận động
quần chúng, tranh thủ đội ngũ già làng, chức sắc, chức việc, đội ngũ cốt cán vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào theo đạo. Kiên quyết đấu tranh
với các hành vi lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng, vi phạm pháp
luật Nhà nước. Cùng với đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại về dân
tộc, tôn giáo, giúp cho cộng đồng thế giới hiểu rõ chính sách tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và thực tế tình hình đời sống, sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Làm tốt công tác này sẽ góp phần giữ vững ổn
định chính trị, xã hội và huy động sự đóng góp của đồng bào các tôn giáo trong
củng cố, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.


14


KẾT LUẬN
Là một bộ phận quan trọng trong cộng đồng dân tộc, đồng bào các tôn giáo
luôn gắn bó, đoàn kết, đồng hành với đồng bào cả nước, phấn đấu vì lợi ích chung
của dân tộc, của cách mạng. Mong muốn của đại bộ phận tín đồ tôn giáo là xóa bỏ
áp bức, bất công, xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều mong
muốn của đồng bào có đạo cũng là mục tiêu, lý tưởng của sự nghiệp cách mạng do
Đảng ta lãnh đạo. Vì thế, cần nhận thức đúng và thực hiện tốt chính sách tôn giáo
của Đảng, Nhà nước để không ngừng tăng cường, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Như vậy, quan điểm chính sách của Đảng ta đối với tôn giáo, tín ngưỡng
hiện nay nhằm thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc.
Quan điểm, chính sách về tôn giáo, tín ngưỡng đã không chỉ là cơ sở cho các hoạt
động tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta luôn ổn định, tuân thủ pháp luật, mà còn tạo ra
động lực to lớn từ việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đóng góp cho sự
thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng là một chủ trương xuyên
suốt, nhất quán trong toàn bộ đường lối phát triển đất nước và luôn đáp ứng được
yêu cầu phải phù hợp với tình hình quốc gia và quốc tế trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Để đạt đến mục tiêu và đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của quan điểm, chính
sách đối với tôn giáo, tín ngưỡng, hệ thống chính trị các cấp cần hết sức chủ động
phát huy quyền làm chủ, cũng như tính tích cực chính trị của đồng bào có tôn giáo,
tín ngưỡng trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách.

15




×