Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Việc vận dụng nguyên tắc này trong phát triển lý luận về CNXH ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.72 KB, 16 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng với nhau, quy định, tác động qua lại với nhau, trong đó: Thực
tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý; sự hình
thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; lý
luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp cho thực tiễn. Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem
thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái
kia và ngược lại. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực
tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận
là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc, và luôn luôn là một
yêu cầu tối cao của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông. Đó cũng là đòi hỏi tất yếu, mang tính quy luật của hoạt động thực tiễn xã
hội, của sự vận động lịch sử và sự phát triển nhân loại. Nếu đảm bảo sự thống
nhất này thì hoạt động của con người sẽ có được hiệu quả cao và có đóng góp
nhất định cho cộng đồng; đối với sự vận động xã hội sẽ có thêm cơ sở và động lực
để phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông”. Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh phải được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận khoa học
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh
1


nghiệm. Còn lý luận khoa học phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nảy sinh từ thực tiễn,
phản ánh thực tiễn, luôn liên hệ với thực tiễn và được bổ sung, hoàn thiện, phát


triển thông qua tổng kết thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là
thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Ngày nay, Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to
lớn đạt được qua hơn 30 năm đổi mới. Có được những kết quả đó là do Đảng ta đã
vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những nguyên tắc lý luận cơ bản
mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết
học Mác-Lênin. Bởi lẽ, trên cơ sở quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không ngừng được bổ
sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam; những căn bệnh giáo điều,
kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí đã dần được khắc phục, góp phần đắc lực vào sự
nghiệp đổi mới đất nước.
Em xin chọn vấn đề: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Việc vận dụng nguyên tắc này trong phát triển lý luận về CNXH ở Việt Nam” để
nghiên cứu và viết bài thu hoạch.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. Phạm trù thực tiễn và lý luận
1.1. Phạm trù thực tiễn
Theo triết học Mác-Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất –
cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh lực khác
nhau, nhưng hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất,
quan trọng nhất là quá trình con người sáng tạo ra những công cụ lao động làm biến
đổi giới tự nhiên, xã hội và dưới dạng chung nhất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất cần thiết đáp

ứng những nhu cầu của đời sống xã hội.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao
của con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, cải biến các quan hệ xã hội trên cơ sở
quy luật vận động và phát triển của xã hội. Hoạt động chính trị - xã hội tác động
đến sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và thực nghiệm khoa học.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động
thực tiễn, bao gồm thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội nhằm cải biến
những đối tượng nhất định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định.
Tính chất lịch sử của hoạt động thực tiễn gắn liền với quá trình hình thành,
tồn tại, vận động và phát triển của con người và xã hội. Hoạt động thực tiễn được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và giữa các hình thức đó đều có sự liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau, nhưng được xác định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể.
1.2. Phạm trù lý luận
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quái từ kinh nghiệm thực tiễn
3


phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá t rình
lịch sử”.
Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của
các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm.
Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở trình độ thấp
nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
2.1. Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất

phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn
Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực
tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn, phản ánh thực tiễn đó, nếu không lý luận
đó sẽ là lý luận suông, lý luận thuần tuý sách vở, xa rời cuộc sống dễ trở thành lý
luận ảo tưởng, không có căn cứ, giáo điều, kinh viện. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Lý luận mà không có liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông”. Bởi lẽ, thực tiễn có vai trò to lớn đối với lý luận. Điều này
thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Con người quan hệ với thế
giới xung quanh bắt đầu bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Bằng và thông qua
hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho chúng bộc lộ thuộc
tính, tính chất, quy luật của mình. Trên cơ sở đó, con người mới có hiểu biết (tri
4


thức) về sự vật và dần dần có cơ sở để khái quát những hiểu biết (tri thức) này
thành lý luận.
Thực tiễn còn là cơ sở đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi con người trong đời
sống của mình phải giải quyết. Thực tiễn còn quy định khuynh hướng phát triển
của lý luận.
Thực tiễn còn là cơ sở góp phần rèn luyện giác quan của con người, làm cho
chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn.
Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy
móc hỗ trợ con người nhận nhận thức hiệu quả hơn và khái quát lý luận đúng đắn
hơn.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích của lý luận. Để tồn tại, để sống, con người
phải tìm hiểu thế giới xung quanh để có những hiểu biết nhất định về thế giới, trên
cơ sở đó dần dần phải khái quát những hiểu biết của mình thành lý luận để định
hướng cho những nhu cầu này cũng như hoạt động của mình.
Những tri thức - kết quả của nhận thức, những lý luận - kết quả của khái quát

hoá kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá trị, có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng
vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận. Tri thức
của con người là kết quả của quá trình nhận thức. Tri thức có thể phản ánh đúng
hoặc không đúng hiện thực khách quan. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
2.2. Thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa
học, nếu không sẽ là thực tiễn mù quáng, mò mẫm
Thực tiễn đúng đắn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi một lý
luận khoa học, đúng đắn, nếu không thực tiễn đó sẽ là thực tiễn mù quáng, mò
5


mẫm, mất phương hướng, không có tính hướng đích. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường nhắc nhở: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng”. Điều này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận
khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế
giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn. Lý luận khoa học vạch ra phương
hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi hiện thực khách quan
theo hướng tiến bộ vì lợi ích của con người. Nếu thực tiễn không được chỉ đạo, soi
đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ rơi vào mò mẫm, vòng vo,
mất thời gian, tốn công sức, tiền của, không hiệu quả.
Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập
hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo
quần chúng. Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần chúng trong cuộc
sống và trong hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự vật,
của thực tiễn sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn;
giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.

Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học về
tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học đó,
con người có thể thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản
thân phục cho mục đích của mình.
Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, do vậy nó có thể
thông qua hoạt động thực tiễn tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực
tiễn. Lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan, thâm nhập được vào đông đảo quần chúng nhân
dân và được con người vận dụng nó một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp điều kiện
6


thực tiễn, lịch sử cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, kinh nghiệm v.v.. sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn.
Mức độ, hiệu quả tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của lý luận;
mức độ thâm nhập của lý luận vào quảng đại quần chúng nhân dân; vào sự vận
dụng sáng tạo, đúng đắn lý luận hay không bởi chủ thể hoạt động thực tiễn.
3. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong phát triển lý luận về CNXH Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta xây dựng CNXH, Đảng ta luôn chú
trọng việc vận dụng sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển lý luận, đặc biệt là lý
luận về CNXH. Điều này thể hiện rõ nét ở những điểm sau:
Trước hết, Đảng tăng cường tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận về
CNXH. Tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới, Đảng ta đã có những phát triển vượt
bậc lý luận về CNXH. Tiểu biểu là một số vấn đề lý luận sau:
Một là, phát triển lý luận về CNXH. Đường lối đổi mới do Đại hội VI của
Đảng khởi xướng là thành quả to lớn đầu tiên của quá trình đổi mới tư duy lý luận
về CNXH. Đường lối đổi mới này cũng đồng thời cũng đánh dấu bước đột phá

trong phát triển lý luận về CNXH của Đảng ta. Đại hội VII đánh dấu mốc quan
trọng trong phát triển lý luận của Đảng về CNXH. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5
năm đổi mới, Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (1991). Trong Cương lĩnh (1991), câu hỏi “xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng” là một xã hội như thế nào? lần đầu tiên đã được trả lời một
cách hệ thống. Cương lĩnh (1991) đã đề cập tới sáu đặc trưng của CNXH mà nhân
dân ta xây dựng. Đó là xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
7


liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Tổng kết 20
năm đổi mới, tham khảo kinh nghiệm của bạn bè quốc tế, rút kinh nghiệm từ những
bài học của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đến Đại hội X, Đảng ta đã có
bước phát triển quan trọng trong quan niệm về CNXH. Nội hàm của khái niệm xã
hội XHCN đã được Đại hội X nêu cụ thể hơn với tám đặc trưng: “Xã hội XHCN
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện; các dân tộc trong công đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển
2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng, quan niệm về xã hội XHCN đã

được hoàn thiện hơn một bước: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do

8


Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới”.
Hai là, về phương hướng xây dựng CNXH. Cương lĩnh (1991) đề ra bảy
phương hướng cơ bản để xây dựng CNXH. Nội dung chủ yếu của bảy phương
hướng đó là: Xây dựng Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
lấy liên minh công-nông-trí làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Phát triển lực lượng
sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển
nông nghiệp toàn diện. Từng bước thiết lập quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến
cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN; kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Tiến hành cách
mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ,

trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên CNXH.Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng
phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, thực hiện chính sách đối ngoại hòa
bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước XHCN, với tất cả các lực lượng đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Nâng cao
cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
9


vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn
trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Tổng kết hơn 25 năm đổi mới, trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển 2011),
Đảng ta đã đưa ra tám phương hướng lớn: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo đảm vững
chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường lối đối
ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh. Như vậy, lý luận về phương hướng xây dựng CNXH ở nước ta qua mỗi
kỳ đại hội lại được Đảng ta hoàn thiện, phát triển. Ngay trong từng phương hướng
này, trong quá trình đổi mới Đảng thường xuyên đổi mới, bổ sung, phát triển cho
phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.
Ba là, phát triển lý luận về quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Trước
đổi mới, Đảng ta xác định quá độ lên CNXH ở nước ta là sự “quá độ gián tiếp”,
nghĩa là “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Trong Cương lĩnh (1991)

đã sử dụng cụm từ “bỏ qua chế độ tư bản” và xác định: “Nước ta quá độ lên
CNXH, bỏ qua chế độ tư bản từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng
sản xuất rất thấp”.
Đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận điểm này cụ thể hơn: “Con đường
đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
10


xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển 2011) chỉ rõ,
thời kỳ quá độ lên CNXH “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Đây là
bước phát triển quan trọng của lý luận về con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN của Đảng ta.
Bốn là, hình thành và phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đại hội VI của Đảng xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VII xác định, đó là “nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đồng thời cụ thể hóa một bước về chế độ công
hữu, đó là công hữu “về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Đến Đại hội IX khái niệm
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được khẳng định với quan niệm: “Nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là nền kinh tế “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình
thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng theo
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà

nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân”. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ
thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng
XHCN có sự quản lý của nhà nước. “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng,
11


điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”. Kinh tế thị trường định hướng
XHCN “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác phân phối thông qua
hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”. Đây là sự phát triển lý luận vượt bậc của
Đảng về mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Năm là, hình thành và phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN.
Tổng kết việc xây dựng nhà nước XHCN và quá trình đổi mới, Đảng ta nhận thấy
sự cần thiết phải khai thác những giá trị của lý luận nhà nước pháp quyền trong lịch
sử tư tưởng nhân loại. Tuy vậy, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” vẫn chưa được sử
dụng trong Cương lĩnh (1991) của Đảng và Hiến pháp 1992. Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1994) lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “nhà
nước pháp quyền” khi khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”. Đại hội IX đánh dấu bước
phát triển rõ rệt quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quyền lực
nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Quan điểm này của Đại hội IX đã được thể hiện trong khi sửa đổi
một số điều Hiến pháp 1992(2001) và tiếp tục được khẳng định ở Đại hội X với chủ

trương: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã phát
triển thêm một bước lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN. Cụ thể là: “Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
12


nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) Đảng ta đã bổ sung thêm vấn
đề kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Rõ ràng, lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng được Đảng ta
phát triển cụ thể hơn cho phù hợp thực tiễn đất nước.
Sáu là, phát triển lý luận về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) lần đầu tiên trong quá trình đổi
mới đề ra nhiệm vụ “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại
hội tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của phát triển văn hóa: “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
xã hội”. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng (tháng 7/1998) cụ thể hóa
hơn nội dung của “nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, yêu
cầu bảo tồn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa tiên tiến
văn hóa nhân loại. Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hướng tới sự giáo dục, phát triển những con
người có tinh thần yêu nước, chủ nghĩa quốc tế trong sáng, có sự phát triển hài hòa
giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, phát triển các giá trị thể chất, giá trị
đạo đức, giá trị tri thức, giá trị thẩm mỹ trong con người một cách nhịp nhàng, cân
đối, hài hòa. Đại hội IX tiếp tục đề ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế-xã hội;
đề ra nhiệm vụ có tầm chiến lược là phát triển kinh tế phải giữ vững đời sống đạo
đức và bản sắc văn hóa dân tộc; chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế là hướng
tới một cuộc sống văn hóa cao, tạo được điều kiện để nhân dân ngày càng nâng cao
trình độ thẩm mỹ, trở thành những chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là người
hưởng thụ ngày càng nhiều các thành quả văn hóa. Kết luận của Hội nghị Trung
13


ương 10 khóa IX về công tác văn hóa khẳng định nhiệm vụ xây dựng kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với xây dựng văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội, tạo thế vững chắc cho quá trình phát triển đất nước. Đại hội X của Đảng
đưa tư duy văn hóa lên một tầm cao mới: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao
chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào
đời sống xã hội”. Đại hội XI của Đảng đề ra nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa
“làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể
trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo
sức đề kháng với các sản phẩm độc hại”.
Thứ hai, Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào điều kiện thực tiễn Việt Nam trong điều kiện mới. Công cuộc đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là sự khẳng định một lần nữa tính đúng đắn của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như sự vận dụng sáng tạo của
Đảng ta vào thực tiễn mới của đất nước.
Thứ ba, Đảng luôn luôn nâng cao trình độ lý luận của mình cũng như của
cán bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chủ tịch, Đảng mà không có lý luận cách mạng khoa học như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Đây thực chất là sự quán triệt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ, không có trình độ lý luận thì không thể tổng
kết kinh nghiệm một cách có lý luận và không thể định hướng cho công cuộc đổi

mới. Ngay trong lúc cam go của phong trào cách mạng, chẳng hạn, ngay sau sự sụp
đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, Bộ Chính trị Đảng ta đã
ra Nghị quyết 01 (ngày 28/3/1992) nêu rõ sự cần thiết phải đẩy mạnh việc học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tất cả các Văn kiện
Đại hội, Đảng ta luôn nhấn mạnh, khảng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Đại hội XI còn đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi
14


mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước”.
Thứ tư, Đảng kiên quyết chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái về tư
tưởng - lý luận bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đây cũng chính là sự quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng. Bởi lẽ, đổi mới không phải là từ bỏ con
đường XHCN của sự phát triển mà là từ bỏ mô hình CNXH giáo điều, tập trung,
quan liêu; là sự lựa chọn biện pháp, cách thức xây dựng CNXH cho phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam cũng như quốc tế. Quá trình đổi mới cũng
là quá trình Đảng ta tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch trên mặt
trận tư tưởng-lý luận; chống lại các chiêu bài “dân chủ hóa”; “tự do hóa”; “đa
nguyên chính trị” v.v..Tiếp tục tinh thần các Đại hội trước, Đại hội XI đề ra nhiệm
vụ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái
về tư tưởng chính trị...”.

KẾT LUẬN
15



Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lý luận khoa học phải được hình thành trên
cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bằng công đường tổng kết thực tiễn, phản
ảnh đúng thực tiễn đó, nếu không lý luận đó sẽ lý luận suông. Thực tiễn đúng đắn
luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi một lý luận khoa học, đúng đắn, nếu
không thực tiễn đó sẽ là thực tiễn mù quáng. Quán triệt tốt nguyên tắc này sẽ góp
phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và
bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận.

16



×