Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hướng dẫn cách làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 12 ở trường THPT triệu sơn 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.9 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT
BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ CHO HỌC SINH LỚP 12 Ở
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 5

Người thực hiện: Lê Thị Xuân San
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2020

MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

TRANG


1.MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài


2

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

1.5. Những điểm mới của SKKN

3

2.NỘI DUNG

2

2.1. Cơ sở lí luận

4

2.2. Thực trạng vấn đề

4


2.3. Giải pháp thực hiện

5

2.3.1. Hướng dẫn chung

5

2.3.2. Hướng dẫn cách làm bài cụ thể cho dạng đề nghị
luận về một bài thơ, đoạn thơ

8

a)Tìm hiểu đề

8

b)

9

Lập dàn ý

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

13

3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3


3.1. Kết luận

15

3.2. Kiến nghị

15

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
- Văn nghị luận là một thể loại chiếm vị trí quan trọng trong chương trình
Ngữ văn THPT, nhất là ở lớp 12 - các em đang chuẩn bị đối mặt với kì thi quan
trọng. Tuy nhiên, đây là một kiểu bài khó, bởi nó đòi hỏi học sinh phải có kiến
thức sâu rộng, chính xác và phong phú, những suy nghĩ, quan điểm đúng đắn về
22


văn học và đời sống xã hội, đòi hỏi cả sự tư duy lôgic, chặt chẽ với những cách
lập luận sắc sảo, thấu tình đạt lí mới có thể hấp dẫn, thuyết phục được người
nghe, người đọc.
Từ năm học 2016-2017, thực hiện đổi mới kì thi, cấu trúc đề thi môn Ngữ văn
gồm 3 nội dung: Đọc hiểu, Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học, thang điểm
mới là: 3-2-5. Như vậy, Nghị luận văn học vẫn chiếm số điểm cao (50%) so với
các nội dung còn lại.
- Nghị luận văn học gồm nhiều dạng bài khác nhau: Nghị luận về một ý kiến
bàn về văn học; Nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; Nghị luận về
một bài thơ, đoạn thơ. Trong đó, nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ có vai trò
quan trọng trong chương trình Ngữ văn 12. Bởi vì, trong chương trình Ngữ văn
12, các bài thơ, đoạn thơ chiếm một số lượng khá lớn và các câu hỏi về bài thơ,
đoạn thơ thường phong phú, đa dạng hơn, yêu cầu cao hơn về việc tìm hiểu đề

và xây dựng hệ thống luận điểm. Đặc biệt, trong những năm gần đây, cùng với
việc đổi mới kiểm tra đánh giá, nhiều câu hỏi lại tập trung nhiều ở dạng nghị
luận về một bài thơ, đoạn thơ có đi kèm cả phần lí luận văn học, khiến không ít
học sinh lúng túng. Cho nên, khi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh khối 12,
bài làm của các em ở những câu hỏi thuộc nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ thì
thấy kĩ năng phân tích đề, tìm ý ở các em còn yếu, kết quả thường không cao.
- Là một giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn đã được 12 năm, tôi xét thấy, một
trong những vấn đề quan trọng mà giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh đó là
cách làm bài văn nghị luận nói chung và về một bài thơ, đoạn thơ nói riêng, đặc
biệt là những dạng đề có ý hỏi nâng cao. Bởi đây là một dạng làm văn được sử
dụng phổ biến trong các kì thi quan trọng, đặc biệt là kì thi cuối cấp. Bên cạnh
đó, nó còn giúp cho học sinh rèn luyện tư duy và phát triển năng lực biểu đạt,
hình thành những tư tưởng sâu sắc trong đời sống, rèn kĩ năng giao tiếp khi cần
trình bày những ý kiến, quan điểm của cá nhân trước người khác...
Trong những năm qua, đặc biệt là năm học 2019-2020, tôi được phân công
dạy một số lớp 12 và đã mạnh dạn áp dụng đề tài: “Hướng dẫn cách làm bài
văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 12 ở trường THPT
Triệu Sơn 5”, nhằm nâng cao chất lượng dạy - học trong trường và đã thu được
một số kết quả khả quan qua một số kì thi chung (học kì, khảo sát chất lượng).
Tuy nhiên, sẽ còn những hạn chế, thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành
của các đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm này là nhằm giải quyết những vấn đề
sau:
- Trình bày những hướng dẫn chung khi tiến hành nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ (những tác phẩm học chính khóa trong SGK Ngữ văn lớp 12 – Cơ
bản).
- Tiếp đến, hướng dẫn cách làm bài cụ thể đối với dạng đề thường gặp.
- Từ đó, giúp học sinh có thêm kinh nghiệm làm bài, thêm tự tin và có thể ghi
được điểm cao trong các kì thi khi bắt gặp các câu hỏi có liên quan đến dạng đề

33


này. Đồng thời, góp phần rèn luyện tư duy và kĩ năng giao tiếp khi cần thể hiện
quan điểm của cá nhân trước những vấn đề của cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nội dung, kiến thức của các bài thơ, đoạn thơ trong SGK Ngữ văn 12 (Cơ
bản).
- Cách làm bài văn nghị luận về các dạng đề thi có liên quan đến bài thơ, đoạn
thơ thường gặp (hướng dẫn chung và hướng dẫn cụ thể).
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu về văn nghị luận,
SGK Ngữ văn lớp 12 (Cơ bản), Sách giáo viên và một số tài liệu tham khảo
khác.
- Phương pháp thực nghiệm: Giáo viên chủ động và linh hoạt tác động vào
học sinh trong quá trình dạy học những bài thơ, đoạn thơ, ở tiết làm văn, bài ôn
tập...theo các dạng đề nghiên cứu để rèn kĩ năng làm văn cho các em.
- Phương pháp quan sát – trực quan: Tôi tiến hành quan sát thông qua dự
giờ ở các khối lớp, chủ yếu là khối 12 và bằng trực tiếp giảng dạy.
- Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với giáo viên và học sinh về
quá trình dạy học và kết quả làm bài thi có liên quan đến bài thơ, đoạn thơ.
Những thuận lợi và khó khăn khi thực hành có liên quan đến vấn đề này.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Sau khi thu thập thông tin, giáo viên
tiến hành thống kê, xử lí số liệu để thấy được năng lực của học sinh.
1.5. Những điểm mới của SKKN: Viết đề tài này tôi mong muốn góp chút kinh
nghiệm của bản thân vào việc dạy phân môn Làm văn ở trường THPT, đặc biệt
là dạy làm văn ở lớp 12. Những ý kiến trao đổi của tôi sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy học làm văn ở phổ thông, cụ thể như sau:
- Rút ra những lí thuyết về cách làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
- Đúc rút những kinh nghiệm thực hành giúp học sinh làm tốt kiểu bài nói trên.


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
- “Học mà không hành thì vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy”
(Hồ Chí Minh). Thực hành là cách tốt nhất để kiểm chứng sự đúng đắn của lý
thuyết, là cách để khắc ghi sâu hơn kiến thức mới thu nhận được. Tuy nhiên,
“hành” mà không “học” thì khác nào mò mẫm đi trong bóng tối, không có lý
44


thuyết dẫn đường, khả năng thành công sẽ bị chia sẻ phần nhiều cho thất bại.
Khi làm văn trước hết, người viết cần phải nắm chắc lý thuyết: Khái niệm, yêu
cầu, cách làm bài…từ lý thuyết được trang bị, người làm bài cần phải cụ thể hóa
bằng những đề bài thực hành để xây dựng thành một bài văn nghị luận (tìm hiểu
đề, lập dàn ý, viết bài văn hoàn chỉnh…). Có như vậy mới đem lại hiệu quả cao
cho từng bài văn.
- Vả lại, gần đây phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn kĩ năng cho học sinh, làm cho các em
ham thích môn học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua)
cũng đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là
định hướng cơ bản, thiết thực đối với giáo viên, trong đó có giáo viên dạy bộ
môn Ngữ văn. Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy học Ngữ văn đã chú trọng
rèn luyện kĩ năng cho học sinh, đặc biệt là kĩ năng làm văn nghị luận.
- Văn nghị luận là lối văn nhằm xác lập cho người đọc, người nghe theo một tư
tưởng, quan điểm nào đó. Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ
và lập luận. Văn nghị luận gồm có nhiều kiểu bài, trong đó nghị luận về một bài
thơ, đoạn thơ là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về giá trị nội dung

và nghệ thuật, hoặc có thể chỉ là một phương diện, thậm chí là một khía cạch nội
dung hay nghệ thuật của một bài thơ, đoạn thơ cụ thể. Các nhận xét, đánh giá
phải đúng đắn, rõ ràng, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bố cục mạch lạc, lời
văn chuẩn xác và gợi cảm. Như vậy, đây là một dạng bài tương đối khó đối với
học sinh.
- Chọn đề tài: “Hướng dẫn cách làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn
thơ cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Triệu Sơn 5”, phần nào giúp học sinh
có kĩ năng làm bài tốt hơn, đặc biệt là trong kì thi THPT Quốc gia sắp tới.
2.2. Thực trạng vấn đề.
- Thực tế ở trường THPT Triệu Sơn 5 - nơi tôi trực tiếp giảng dạy, đa số các
em đều yếu về kĩ năng làm văn nghị luận, thiếu kiến thức về lí luận văn học. Địa
điểm của trường xa trung tâm, học sinh chủ yếu thuộc 3 xã: Đồng Tiến – Đồng
Lợi – Đồng Thắng. Đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, ít có sự đầu tư
học tập cho con, em. Trong khi đó, điểm đầu vào lớp 10 của môn Ngữ văn còn
thấp. Trước đây, trường vốn thuộc loại hình bán công, nên những học sinh xét
tuyển vào trường phần lớn có học lực yếu. Hiện nay, trường đã chuyển sang mô
hình công lập, tự tổ chức thi tuyển để lựa chọn học sinh, nhưng điểm đầu vào
vẫn chưa được cải thiện nhiều: đa số các em chỉ đạt dưới 5 điểm môn Ngữ văn,
thậm chí có học sinh chỉ được 2.5 điểm, 3 điểm, những kiến thức cơ bản về văn
nghị luận hầu như các em chưa nắm được.
- Đầu học kì I, năm học 2019-2020, sau khi dạy xong bài “Tây Tiến” của
Quang Dũng (tiết PPCT: 16,17), tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh
làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ (Đề bài: Phân đoạn thơ thứ 3
55


trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng) giữa lớp do tôi trực tiếp dạy
(12A3) với lớp không dạy (12A1), kết quả điểm thi như sau:
ST
Lớp

T

Số Giỏi
HS
%
S
L

Khá
SL

T.bình

Yếu

Kém

%

SL

%

SL

%

SL

%


1

12A3

43

1

2.3

5

11.6

14

32.6

16

37.2

7

16.
3

2


12A1

42

1

2.4

5

11.9

12

28.6

17

40.5

7

16.
6

Từ bảng số liệu trên, ta thấy rằng: Số lượng học sinh đạt điểm khá, giỏi khi
làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ không nhiều (tỉ lệ học sinh đạt
điểm khá, giỏi cao nhất là lớp 12A3-13.9%, 12A1-14.3%); phần lớn học sinh chỉ
đạt điểm trung bình, yếu, thậm chí có cả điểm kém (tỉ lệ học sinh đạt điểm trung
bình, yếu, kém cao nhất là lớp 12A1-85.7%; 12A3: 86.1%)

Thông qua kết quả thống kê trên, phần nào đã cho chúng ta thấy được thực
trạng về chất lượng làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ của học sinh
lớp 12 ở Trường THPT Triệu Sơn 5.
Vậy cần phải làm gì để giúp các em học sinh lớp 12 ở Trường THPT Triệu
Sơn 5 có thêm kĩ năng làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ? Đây là
nỗi niềm trăn trở của không ít giáo viên dạy Ngữ văn trong trường. Cho nên,
trong quá trình giảng dạy ở lớp 12, tôi xin mạnh dạn đề xuất một vài kinh
nghiệm dưới đây nhằm “Hướng dẫn cách làm bài văn nghị luận về một bài
thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Triệu Sơn 5”, giúp các em
có thêm kĩ năng làm bài văn nghị luận và có thể đạt điểm cao trong các kì thi,
nhất là kì thi THPT quốc gia sắp tới.
2.3. Giải pháp thực hiện.
Qua một số năm giảng dạy chương trình Ngữ văn 12, nghiên cứu những đề thi
Tốt nghiệp, Đại học, Cao đẳng trong những năm trước và đề thi THPT quốc gia
năm vừa qua, tôi đã bắt gặp một số dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
thường được sử dụng. Trong phạm vi đề tài này, tôi xin đưa ra một vài hướng
dẫn để tiến hành nghị luận cho các dạng đề đó.
2.3.1. Hướng dẫn chung.
Phần này yêu cầu học sinh cần nắm được những kiến thức cơ bản về tác
giả, tác phẩm, đoạn thơ để làm cơ sở cho việc nghị luận. Hơn nữa, còn hướng
dẫn học sinh viết bài văn nghị luận có bố cục 3 phần (mở bài, thân bài và kết
bài).
a) Phương pháp đầu tiên của người giáo viên là hướng học sinh nắm chắc chuẩn
kiến thức của các tác phẩm thơ đã học. Đó là cơ sở để học sinh có kiến thức cơ
bản đồng thời mở rộng vấn đề khi thực hiện bài văn nghị luận. Tất cả bốn bài
66


thơ, đoạn thơ: “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Việt Bắc” của Tố Hữu, “Đất Nước”
của Nguyễn Khoa Điềm, “Sóng” của Xuân Quỳnh, học sinh cần phải thuộc, nhớ

chuẩn kiến thức cơ bản. Bên cạnh đó còn có bảy tác phẩm đọc thêm, mặc dù
không có trong cấu trúc đề thi của Bộ nhưng học sinh cũng cần nắm qua để có
cơ sở liên hệ, so sánh trong quá trình làm bài.
b) Dù đề ra như thế nào thì khi dạy và học tác phẩm thơ đều bắt buộc học sinh
phải thuộc lòng những bài thơ ngắn. Cụ thể học sinh phải thuộc lòng bài thơ
“Tây Tiến”, “Sóng”. Đối với những bài thơ dài cần phải thuộc những đoạn nổi
bật (đoạn trích “Đất Nước”, “Việt Bắc”). Khi ôn tập các tác phẩm thơ, giáo viên
cần dành thời gian để kiểm tra khâu học thuộc lòng của các em. Để thực hiện
được điều này, giáo viên phải chủ động ngay từ đầu năm lúc giới thiệu chương
trình, phương pháp học…cần thiết nói rõ cho học sinh chủ động: Thơ là phải
thuộc lòng văn bản.
c) Trong quá trình giảng dạy cũng như ôn tập những tác phẩm thơ, giáo viên cần
chốt lại chủ đề của bài thơ hoặc cảm hứng chủ đạo của tác giả để học sinh không
nhớ được nhiều hoặc là hiểu chưa sâu bài thơ thì các em có thể dựa vào đó mà
có đường hướng phân tích theo đề yêu cầu.
Ví dụ khi đề cập đến bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, học sinh cần
phải nhớ được cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ bao trùm lên cả
không gian và thời gian. Từ đó, học sinh sẽ định hình lại nội dung bài thơ. Đó là
nỗi nhớ về những kỉ niệm Tây Tiến một thời gian khổ mà hào hùng: Hình ảnh
núi rừng Tây bắc hùng vĩ và hiểm trở, hoang du và dữ dội hiện lên như một bức
tranh hoành tráng. Con đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến gắn
kết với bức tranh phong cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ dữ dội, vừa nên thơ. Hình
ảnh của những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong một đêm liên hoan và cảnh
sông nước thơ mộng. Hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp đầy bi tráng và
lãng mạn.
Hoặc khi tìm hiểu bài thơ “Việt bắc” của Tố Hữu, học sinh cần phải nhớ chủ
đề: Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một
cảm nhận mang tính riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy
chung của con người đối với con người và đối với quá khứ cách mạng nói
chung. Khi nắm được điều này giúp học sinh tránh được nhầm lẫn nội dung bài

thơ. Bởi lẽ bài thơ có hình thức kết cấu đối đáp theo lối hát giao duyên cho nên
có học sinh nhầm lẫn phân tích bài thơ theo hướng tình cảm nhớ nhung của đôi
nam nữ yêu nhau. Điều này là rất tai hại.
d) Đọc kĩ phần tiểu dẫn cũng là một việc làm cần thiết nhằm mục đích nắm vững
những nét cơ bản về tác giả, về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, về xuất xứ đoạn
trích. Đó là cơ sở để ta tìm hiểu đúng và sâu nội dung tác phẩm.
Ví dụ: Khi tìm hiểu về đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Ta
cần hiểu biết đầy đủ về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từ con người (nguồn gốc
xuất thân: gia đình, quê hương), cuộc đời (quá trình học tập, trưởng thành và
sáng tác) đến tư tưởng và phong cách nghệ thuật. Có thể nói hồn thơ của
Nguyễn Khoa Điềm được hun đúc từ cái nôi gia đình trí thức cách mạng và giàu
77


truyền thống văn chương nghệ thuật. Cùng gia đình, quê hương xứ Huế đã tạo
cho con người này chất thơ tài hoa. Khi trưởng thành, Nguyễn khoa điềm đến
với ngành học ngữ văn là một điều tất yếu. Đến khi trở thành người lính, trải
nghiệm qua thực tiễn chiến đấu, hồn thơ này mới thật sự bay bổng. Chính sự ra
đời trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung, đoạn “Đất Nước” nói riêng có
ảnh hưởng từ những điều đã nêu.
Vấn đề thứ hai, cần phải nắm vững hoàn cảnh sáng tác của trường ca
“Mặt đường khát vọng”: Hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971. Đây là
thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đi vào giai đoạn ác liệt nhất nhưng cũng
hào hùng nhất. Ý chí và khát vọng giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam
lúc này đã mạnh mẽ và quyết liệt hơn bao giờ hết. Tắm mình trong không khí
lịch sử này, cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên tiếng thơ
nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân dân anh hùng. Sự thức nhận của nhà thơ
cũng là sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiến Miền Nam, nhận
rõ bộ mặt xâm lược của Đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được
sứ mệnh của thế hệ mình. Đó là cơ sở để chúng ta hiểu một cách sâu sắc đoạn

trích “Đất Nước”.
Đây chính là một điều cũng không kém phần quan trọng khi nắm kĩ phần
tiểu dẫn, nó giúp cho việc diễn đạt ý của học sinh khi viết bài (nhất là phần mở
bài).
e) Một điểm chung cần chú ý: Muốn khai thác một tác phẩm thơ thì phải phân
tích ngôn ngữ (từ gợi cảm, từ trọng tâm, từ đắt…), hình ảnh thơ, vần điệu, nhịp
điệu, tiết tấu, các biện pháp tu từ…, đối sánh giữa tác phẩm này với tác phẩm
khác…
Ví dụ: Khi phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Điều cơ bản học sinh cần phải nắm vững: Phẩm chất cao đẹp quên mình
của người lính Tây Tiến vì Tổ quốc. Ngay câu thơ đầu là hình ảnh những nấm
mồ dọc biên giới. Hình ảnh “mồ viễn xứ” và từ láy “Rải rác” gợi vẻ cô đơn, hiu
hắt của những cái chết xa nhà, nhưng các từ Hán Việt “ biên cương, viễn xứ” đầy
cổ kính, trang trọng lại giảm nhẹ bi thương, buồn mà không bi lụy. Hai câu cuối
bằng biện pháp nói giảm “anh về đất”, nhân hóa “ Sông Mã gầm…” xen lẫn các
từ Hán Việt trang trọng, ca ngợi sự hy sinh thầm lặng, bi tráng của người chiến
sĩ được thiên nhiên tiễn đưa bằng khúc nhạc trầm hùng.
Như vậy, chúng ta dựa trên cơ sở những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ thể
hiện trong văn bản để làm nổi bật nội dung đoạn thơ. Cứ như thế giáo viên giúp
học sinh cách tìm hiểu, khám phá ra cái hay, cái đẹp, ý nghĩa sâu sắc của văn
bản thơ.
g) Phân tích thơ cũng cần chú ý phân biệt các thể thơ. Xét qua bốn tác phẩm
được học chính thức ta thấy:
88



- Thơ năm chữ có bài “Sóng” của Xuân Quỳnh.
- Thơ lục bát có bài “Việt Bắc” của Tố Hữu.
- Thơ tự do có bài “Tây Tiến” của Quang Dũng; “Đất Nước” của Nguyễn Khoa
Điềm.
Mỗi thể thơ đều có đặc trưng riêng, nên cách phân tích không hoàn toàn
giống nhau. Thơ năm chữ nên phân tích từng khổ. Thơ lục bát và thơ tự do phân
tích theo trình tự cảm xúc, gom ý để chia ra từng phần. Tất nhiên đây chỉ là tạm
chia để dễ phân tích, ngoài ra còn tùy khả năng ở mỗi người mà sẽ có cách phân
tích phù hợp (có thể hình thức cắt ngang hoặc bổ dọc).
2.3.2 Hướng dẫn cách làm bài cụ thể cho dạng đề nghị luận về một bài thơ,
đoạn thơ:
Nội dung, yêu cầu của dạng nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
- Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ là phân tích, đánh giá, bàn luận dựa trên
văn bản của một bài thơ, đoạn thơ nhằm phát hiện, khám phá những biểu hiện cô
đọng nhất về cảm xúc, suy tư của cái tôi trữ tình được bộc lộ trong bài thơ, đoạn
thơ thông qua hình thức nghệ thuật mang tính đặc thù.
- Người viết bài cần thể hiện khả năng cảm thụ và nhận thức cái hay, cái đẹp về
nội dung cũng như hình thức của bài thơ, đoạn thơ thông qua việc phân tích,
giảng bình, lý giải và thẩm định văn bản.
Cách thức triển khai bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:
- Cần căn cứ vào đặc trưng thể loại. Thơ nói chung, thơ trữ tình nói riêng được
coi là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc, là khúc hát của tâm hồn. Do đó nghị luận
về một bài thơ, đoạn thơ cũng có nghĩa là tìm hiểu, khám phá về hình tượng cái
tôi trữ tình, về dòng chảy cảm xúc, tâm trạng của cái tôi trữ tình được bộc lộ cụ
thể qua kết cấu, hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ của bài thơ, đoạn thơ.
- Việc phân tích, giảng bình, đánh giá, bàn luận về một bài thơ, đoạn thơ cùng
việc sử dụng các dẫn chứng để đối chiếu, so sánh làm sáng tỏ thêm cần có một
sự suy luận logic, chặt chẽ nhưng tất cả điều hướng tới một mục đích làm nổi bật
các giá trị về tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
Có thể triển khai một bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ theo các bước cụ

thể như sau:
a) Tìm hiểu đề: Đây là vấn đề rất cần thiết, có ảnh hưởng lớn đến kết quả làm
bài. Nhiều học sinh mới đọc qua đề là bắt tay vào làm bài ngay, dẫn đến bài làm
có thể sai lạc cả nội dung và phương pháp hay có những đoạn xa đề, lạc đề,
thiếu ý. Phân tích đề là giúp cho học sinh nắm được:
- Yêu cầu về nội dung (luận đề).
- Yêu cầu về thao tác.
- Phạm vi tư liệu dẫn chứng.
Ví dụ: Học sinh cần làm hai dạng đề sau:
Đề 1: Phân tích đoạn thơ:
“…Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
99


Đất Nước trong chúng ta hài hòa nống thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ xở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
(“Đất Nước”-Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm).
- Với đề bài này, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và xác định nội dung
chính. Từ đó ta xác định được yêu cầu về nội dung: Cảm nhận sự gắn bó thân
thiết của đất nước với cuộc sống mỗi con người và nhắc nhở ý thức trách nhiệm

của mỗi người đối với đất nước.
- Để làm rõ nội dung đề ra, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh xác định thao
tác cần thiết để làm bài. Dựa trên yêu cầu của đề, ta xác định được thao tác:
Phân tích.
- Phần thứ ba cũng rất quan trọng, đó là phạm vi tư liệu để dẫn chứng. Nếu
không xác định được phần này, học sinh dễ bị rơi vào trường hợp phân tích tràn
lan, không xác định được trọng tâm, thậm chí sử dụng tư liệu hoàn toàn sai lệch
với đề ra. Như vậy theo yêu cầu của đề, ta cũng xác định được phạm vi tư liệu
dẫn chứng: Đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Đề 2: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của
Quang Dũng.
Tương tự như trên , ta cũng xác định được yêu cầu của đề:
- Yêu cầu về nội dung (luận đề): Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính Tây
Tiến.
- Yêu cầu về thao tác: Nghị luận về một hình tượng văn học (phân tích vẻ đẹp
của hình tượng người lính Tây Tiến).
- Phạm vi tư liệu dẫn chứng: Bài thơ “Tây Tiến”, một số bài thơ chống Pháp
viết về người lính.
b) Lập dàn ý: Điều hết sức quan trọng là giúp học sinh tạo ra được bố cục bài
viết.
- Mở bài: Đây là phần mở đầu của bài văn.
Học sinh thường lúng túng trong việc mở bài. Để khắc phục tình trạng này,
giáo viên lưu ý học sinh đọc kĩ phần tiểu dẫn trong sách giáo khoa để nắm
những nét cơ bản về tác giả, hoàn cảnh sáng tác…Từ đó, học sinh dễ dàng viết
phần mở bài. Ta tạm đưa ra mô hình của phần mở bài như sau:
+ Vài nét về tác giả.
+ Hoàn cảnh ra đời của bài thơ hoặc xuất xứ đoạn thơ.
+ Dẫn bài thơ, đoạn thơ và nêu ngắn gọn về chủ đề tư tưởng.

10



Hoặc bằng cách giới thiệu khái quát từ đề tài, chủ đề, hình tượng thơ. Giáo
viên định hướng cho học sinh tùy theo đề bài để chọn cách thức hợp lí.
Trở lại ở đề bài trên, đề 1 ta có thể mở bài như sau: Nguyễn Khoa Điềm tiêu
biểu cho thế hệ nhà thơ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ.
Thơ của ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí
thức tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Với trường ca “Mặt đường khát
vọng” tên tuổi của ông được nhiều người biết đến. Bản trường ca nhằm thức tỉnh
thanh niên miền nam vùng tạm chiến ý thức trách nhiệm trước cuộc chiến đấu
chống Đế quốc Mĩ của toàn dân tộc. “Đất Nước” trích phần đầu chương V của
trường ca này đã thể hiện những cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước.
Trong đó có đoạn “Trong anh và em hôm nay … Làm nên Đất Nước muôn
đời…” thể hiện cảm nhận sự gắn bó thân thiết của đất nước với cuộc sống mỗi
con người và nhắc nhở ý thức trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước.
Như vậy với phần mở bài này, nội dung chủ yếu là ở phần tiểu dẫn sách
giáo khoa. Nếu thuộc, học sinh sẽ dễ dàng làm được.
Tương tự như thế, đề 2 ta cũng sẽ mở bài được một cách dễ dàng: Quang
Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
“Tây Tiến” là sự hồi tưởng của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và
con người Tây Bắc một thời gian khổ và oai hùng. Hình ảnh người lính Tây Tiến
hiện lên trong bài thơ mang một vẻ đẹp bi tráng, đậm chất lãng mạn, hào hoa
bay bổng, mang dấu riêng của hồn thơ Quang Dũng.
- Thân bài: Phần trọng tâm của bài văn, giải quyết toàn bộ nội dung vấn đề; sắp
xếp ý theo một hệ thống trình tự nhất định, hợp lí.
+ Phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. Có nhiều cách phân tích,
trước hết xác định thể thơ (như đã trình bày ở trên) để có hướng phân tích thích
hợp, phân tích có thể theo hướng cắt ngang (theo bố cục của bài thơ, đoạn thơ),
cũng có thể phân tích cắt dọc (theo chủ đề của bài thơ, đoạn thơ):
Phân tích nội dung trong bài thơ, đoạn thơ là tìm hiểu hết ý nghĩa (tư

tưởng, tình cảm) của tác phẩm thơ:
* Xác định mạch tâm trạng chính của bài thơ, đoạn thơ.
* Xác định tứ thơ.
* Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ, đoạn thơ.
* Phải làm rõ giá trị nhận thức của bài thơ, đoạn thơ. Phân tích rõ từng phần,
từng ý bài thơ, đoạn thơ để hiểu được tác giả viết về điều gì? Có ý nghĩa như thế
nào từ trong cuộc sống, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của con người.
* Thấy được giá trị tư tưởng của bài thơ, đoạn thơ, thấy được điều mà nhà thơ
muốn gửi gắm tư tưởng tình cảm là gì? Sự rung động của người viết đối với tác
phẩm thơ…..
Phân tích về nghệ thuật trong bài thơ, đoạn thơ: Phân tích những phương
tiện mà nhà thơ sử dụng để phản ánh và bộc lộ tình cảm.
* Xác định thể thơ.

11


* Các phương thức sử dụng ngôn ngữ tạo nên hình tượng thơ: Chất liệu thơ (hệ
thống hình ảnh, sự vật); Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, cường
điệu, nói giảm, chơi chữ….
* Phân tích nhạc thơ: Tiết tấu (số tiếng, phép điệp, phép đối, phối thanh…)
Phân tích những nét đặc sắc nghệ thuật là để làm nổi bật nội dung của bài thơ,
đoạn thơ.
+ Nhận định, đánh giá về bài thơ, đoạn thơ là đánh giá về giá trị nội dung tư
tưởng và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. Vị trí của bài thơ, đoạn thơ trong sự
ngiệp sáng tác của tác giả cũng như những đóng góp cho nền thơ ca dân tộc. Tất
nhiên trong mỗi bài thơ, đoạn thơ tùy theo dụng ý nghệ thuật của tác giả mà ta
có cách phân tích cho đúng hướng. Phân tích nên đi từ nghệ thuật dẫn đến nội
dung hoặc từ nội dung dẫn đến nghệ thuật. Từ những điều đã nêu, ta có thể vận
dụng vào hai đề bài nêu ở trên.

Đề 1:
- Phân tích ở nội dung:
+ Mối quan hệ giữa con người với “Đất Nước”: Là mối quan hệ hữu cơ khăng
khít không thể tách rời nhau. Xác định “Đất Nước” được kết tinh, tồn tại trong
cuộc sống của mỗi người
+ Con người giữ vai trò chủ thể trong mối quan hệ ấy (Đất Nước vẹn tròn, to
lớn hay hài hòa, nống thắm) là do con người có ý thức đoàn kết nhau, không chỉ
quá khứ, hiện tại mà cả tương lai (Hôm nay, mai này).
+ Trách nhiệm của con người đối với “Đất Nước”: Tự nguyện và xuất phát từ
tình cảm yêu thương bởi Đất Nước là máu xương của mình (gắn bó, san sẻ, hóa
thân).
- Phân tích ở nghệ thuật:
+ Từ “Đất Nước” viết hoa, lặp lại nhiều lần vừa thể hiện ý nghĩa cao cả của
“Đất Nước” vừa thể hiện tình cảm yêu quí, trân trọng “Đất Nước”.
+ Hình ảnh gần gũi, cụ thể, giàu sức gợi cảm vừa có ý nghĩa khái quát, vừa
giàu chất suy tư.
+ Dạng câu trùng điệp, cách xưng hô ngọt ngào, các từ ngữ giàu tình cảm (hài
hòa, nồng thắm, gắn bó, san sẻ, hóa thân) tạo nên giọng điệu tâm tình, lời thơ
nhắn nhủ nhẹ nhàng tha thiết.
- Nhận định, đánh giá đoạn thơ: Với phong cách thơ trữ tình - chính luận, lời
thơ ngọt ngào tha thiết đoạn thơ thể hiện những suy nghĩ rất mới trong cách cảm
nhận về “Đất Nước”, nhất là nhìn thấy mối quan hệ khắng khít giữa cá nhân với
cộng đồng, cá nhân và “Đất Nước”, giữa hiện tại và tương lai “Đất Nước”, từ đó
khơi gợi trách nhiệm mỗi người đối với “Đất Nước”. “Đất Nước” vừa gần gũi,
cụ thể, vừa cao cả thiêng liêng, vừa chung và riêng trong mỗi con người. Cảm
nhận mới mẻ ấy xuất phát từ tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
Đề 2:
- Phân tích nội dung:


12


+ Về tính bi tráng: Chất bi tráng của một tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa
hai yếu tố: bi và tráng. Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến thể hiện ở sự hào
hùng mãnh liệt, ý chí chiến đấu quên mình, tâm hồn hào hoa, lãng mạn giữa bao
gian khổ hy sinh.
+ Người lính Tây Tiến phải chiến đấu và đối mặt với nỗi bi thương: Chiến đấu
trong hoàn cảnh khắc nghiệt, giữa một thực tế chiến tranh tàn khốc, cái chết
đồng hành với mỗi bước chân trên đường ra chiến trận.
+ Giữa bi thương của chiến tranh tàn khốc, người lính Tây Tiến ngời sáng vẻ
đẹp hào hùng, tâm hồn lãng mạn hào hoa.
+ So sánh hình tượng người lính Tây Tiến với hình tượng người lính trong các
tác phẩm khác của thơ ca thời chống Pháp: Người lính được miêu tả rất thực
trong những sinh hoạt cụ thể hằng ngày, trong những bước đi nặng nhọc trên
đường hành quân với những đói rét bệnh tật, với những nét vẻ tiều tụy về hình
hài, song vẫn phong phú trong đời sống tâm hồn với những khát vọng tuổi trẻ.
Liên hệ so sánh với người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy được
nét tương đồng của người lính vệ quốc. Đồng thời chúng ta sẽ thấy được những
nét khác biệt, nguyên nhân của sự khác biệt:
* Những người lính Tây Tiến hầu hết là những chàng trai trí thức đất Hà
Thành – đất kinh kì hoa lệ. Thuở ấy họ ra đi với ý chí chiến đấu mạnh mẽ nhưng
tâm hồn vẫn đậm chất lãng mạn, bay bổng. Viết về người lính của đất kinh kì
đầy lãng mạn bằng một giọng điệu bi hùng và những hình ảnh có chất cổ điển,
bút pháp lí tưởng hóa như vậy là phù hợp.
* Xuất phát từ tâm hồn của chính chủ thể trữ tình: một Quang Dũng đa tài lãng
mạn, hào hoa…đã tạo nên một Tây Tiến bi tráng hào hùng. Cái “chơi vơi, thăm
thẳm, mưa xa khơi, súng ngửi trời, oai linh thác gầm thét, dữ oai hùm”… là
những giai điệu, những sắc màu của thế giới tâm hồn quang Dũng. Xuất thân từ
một trí thức Hà Thành tâm hồn lãng mạn nên nhà thơ đặc biệt đồng điệu, đồng

cảm với chất lính hào hoa, phóng khoáng, nên thơ.
- Phân tích nghệ thuật:
+ Sự kết hợp tài hoa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn.
+ Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu.
+ Từ ngữ, hình ảnh vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính lại vừa
mới lạ đem lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
- Nhận định, đánh giá bài thơ:
Mặc dù có những nét độc đáo riêng gây được ấn tượng trong lòng người
đọc, nhưng hình tượng của người chiến sĩ trong bài thơ Tây Tiến vẫn mang
những nét bản chất chung nhất của anh bộ đội cụ Hồ: Yêu nước, căm thù giặc,
tự nguyện từ bỏ gia đình, quê hương đi chiến đấu. Họ cũng có lý tưởng chiến
đấu vì độc lập, vì tự do của Tổ quốc, có nghị lực kiên cường vượt qua mọi gian
khổ hy sinh. Điều đó làm cho họ có những nét gần gũi với tất cả những bài thơ
viết về người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Kết bài: Phần cuối cùng của bài viết.
+ Tổng quát lại ý vừa trình bày ở phần thân bài.
13


+ Liên hệ nêu giá trị chung của tác phẩm.
Phần này tương quan với phần mở bài. Trong thực tế có nhiều học sinh thiếu
phần kết luận hoặc kết luận sơ sài. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên nên
hướng dẫn học sinh:
* Tập và buộc học sinh sau khi đọc kĩ đề thì phải nháp (bằng hình thức dàn ý).
* Nếu học sinh ít làm nháp thì tối thiểu buộc các em nháp trọn vẹn thành văn
phần mở bài và kết bài.
Trở lên hai đề đã nêu, giáo viên định hướng học sinh phần kết bài.
Đề 1:
- Đề tài về “Đất Nước” đã có từ lâu, nhưng đến Nguyễn khoa Điềm ông đã
làm hấp dẫn, sống dậy một đề tài cũ bởi ở cảm nhận mới lạ về “Đất Nước”. “Đất

Nước” được nhìn ở nhiều góc độ nhưng bao giờ cũng giản dị gần gũi, sáng
trong, nhìn vào đâu ta cũng thấy dáng hình “Đất Nước”.
- Tác phẩm bộc lộ tình yêu quê hương đất nước sâu nặng của tác giả, không
chỉ thức tỉnh thanh niên thấy được đất nước rất thiêng liêng mà qua đó còn kêu
gọi họ có trách nhiệm đối với “Đất Nước”.
- Bài thơ có giá trị vượt thời gian.
Đề 2:
- Người lính trong bài thơ “Tây Tiến” là một hình tượng đẹp, thể hiện phẩm
chất anh hùng của người chiến sĩ. Bài thơ được khắc họa bằng sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Tây Tiến” thể hiện vẻ
đẹp của một thế hệ anh hùng trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Thế hệ hôm nay phải trân trọng, biết ơn người đi trước đã sống chết cho quê
hương…Tuổi trẻ hôm nay cần đóng góp và gìn giữ độc lập tự chủ của dân tộc
trong mọi hoàn cảnh.
Tóm lại để có kĩ năng viết bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, người
viết cần có sự nhạy cảm tinh tế và sáng suốt để tìm hiểu, khám phá và thẩm định
đúng các giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. Người viết cần
nắm được bản chất thể loại đồng thời phải biết nhìn nhận, soi chiếu bài thơ, đoạn
thơ từ nhiều phía để có cái nhìn toàn diện, biết đánh giá và phản biện. Chú ý mọi
khám phá giá trị nội dung cũng như nghệ thuật đều phải dựa trên các tiêu chí
khách quan, mọi cắt nghĩa lí giải nhất thiết phải có lí lẽ xác đáng, có cơ sở khoa
học, tránh suy diễn áp đặt. Huy động kiến thức văn học và những trải nghiệm
thẩm mĩ của bản thân để tạo lập văn bản nghị luận phù hợp với yêu cầu đề bài.
Trở lại những bài thơ được học chính thức trong chương trình ngữ văn 12, việc
ôn luyện cho học sinh bài nào phải khắc sâu, dứt điểm bài đó. Nên ôn theo
hướng lập dàn ý bài văn, qua đó để chỉ các em cách phân tích.
2.4 . Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng “Hướng dẫn cách làm bài văn
nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Triệu
Sơn 5”, bước đầu tôi đã thu được những kết quả đáng ghi nhận, cụ thể như sau:

- Sau khi được tiếp cận với cách làm văn này, học sinh không còn lúng túng
mà tỏ ra tự tin, thành thạo hơn và đảm bảo được những yêu cầu cơ bản khi bắt
14


gặp những dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ. Đa số các em đã biết: xác
định vấn đề cần nghị luận, làm rõ trọng tâm, bài làm đầy đủ bố cục 3 phần, có
luận điểm, luận cứ rõ ràng và trình bày gọn gàng, mạch lạc, biết tách đoạn, tách
ý…
- Cũng từ phương hướng dạy học trên mà cuối học kì II, năm học 2019-2020,
tiến hành khảo sát lại chất lượng làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, đoạn
trích văn xuôi giữa lớp do tôi trực tiếp giảng dạy (12A3) với lớp không dạy
(12A1), thống kê kết quả thực nghiệm như sau:
Lớp thực nghiệm

Lớp đối chứng

12A3 (43)

12A1 (42)

Giỏi

06 (13.0%)

02 (4.7%)

Khá

13 (30.2%)


07 (16.7%)

T.bình

20 (46.5%)

15 (35.7%)

Yếu

04 (9.3%)

11 (26.2%)

Kém

0 (0%)

07 (16.7%)

Kết quả

Thông qua bảng số liệu, tôi rút ra kết luận sau: Tỉ lệ học sinh đạt điểm giỏi,
khá, trung bình ở lớp thực nghiệm (12A3) tăng lên đáng kể so với lớp đối chứng
(12A1). Còn ở lớp đối chứng (12A1) gần như chưa có sự chuyển biết so với kết
quả khảo sát đầu học kì I.
Từ kết quả thực nghiệm trên đây, tôi nhận thấy rằng việc “Hướng dẫn cách
làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 12 ở trường
THPT Triệu Sơn 5”, là vô cùng cần thiết. Bởi nó hình thành kĩ năng làm bài

văn nghị luận cho học sinh và từ đó giúp các em có thể đạt được điểm cao trong
các kì thi quan trọng.
- Không chỉ thế, mà qua những tiết học như vậy, tôi thấy mình thêm gần gũi
với các em, thân thiện hơn trong giao tiếp, ứng xử. Cô - trò chúng tôi trở nên
hứng thú hơn trong việc truyền giảng và tiếp nhận, cảm thụ văn học. Các em có
thêm điều kiện để rèn luyện tư duy và khả năng giao tiếp. Qua đó, góp phần tạo
nên “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, giúp các em thêm tin, thêm yêu
cuộc sống.

15


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận
- Qua quá trình giảng dạy và thử nghiệm cách làm bài văn nghị luận trên, tôi
đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm quý báu trong việc “Hướng dẫn
cách làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 12 ở
trường THPT Triệu Sơn 5”, như sau:
+ Khi dạy, giáo viên cần phân phối thời gian, chia nội dung kiến thức hướng
dẫn rèn luyện cụ thể, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ở đây, vừa có kiến
thức ôn luyện, vừa có kiến thức mở rộng, nâng cao, bài tập nghị luận rải rác từ
đầu học kì I đến cuối học kì I nên càng không thể vận dụng máy móc.
+ Khi dạy học, giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh cả kĩ năng diễn đạt luận
điểm, kĩ năng chuyển tiếp và liên kết đoạn, phần…
+ Kiến thức kĩ năng có thể cung cấp, củng cố vào các buổi học thêm, song
song với chương trình học chính khoá buổi sáng.
+ Đặc biệt, vào giai đoạn ôn luyện cho học sinh thi THPT quốc gia, chọn học
sinh giỏi, giáo viên cần có thao tác hệ thống kiến thức theo từng dạng bài nghị
luận cụ thể, sao cho học sinh rèn luyện thành thạo và nắm vững kiến thức về tác
phẩm văn chương để có thể tự tin tạo lập một văn bản nghị luận về một bài thơ,

đoạn thơ bất kì.
- Khả năng ứng dụng của đề tài: Trước hết, giải pháp đã được tôi áp dụng
trong các lớp tôi dạy nhằm giúp các em biết cách làm bài văn nghị luận về một
bài thơ, đoạn thơ. Ngoài ra, giải pháp này có tính khái quát cao do đó nó còn có
thể áp dụng cho các lớp khác trong trường và trong các trường THPT khác. Tùy
theo điều kiện từng trường, từng lớp mà ta có thể điều chỉnh cho phù hợp.
- Nhận định khả năng mở rộng phạm vi nghiên cứu của đề tài: để bắt kịp
với xu hướng đổi mới đề thi, kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh, tôi sẽ nghiên
cứu và mở rộng đề tài nhằm giúp các em có thêm kĩ năng làm bài văn nghị luận
về một bài thơ, đoạn thơ với các dạng đề khác.
3.2. Kiến nghị
- Đối với giáo viên chủ nhiệm: Cần đôn đốc nhắc nhở học sinh nghiêm túc
học tập và rèn luyện.
- Đối với gia đình, phụ huynh học sinh: Nên tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về
vật chất lẫn tinh thần cho các em học tập được tốt hơn.
- Đối với nhà trường: Cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi có liên quan
đến nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ như: thi chọn học sinh giỏi cấp trường,
thi thử THPT quốc gia…Để các em có điều kiện rèn luyện, trau dồi và học hỏi
thêm kinh nghiệm.
- Đề tài này là vốn có của cá nhân, nhưng được tích luỹ qua nhiều năm dạy
học và ôn tập cho học sinh, đặc biệt là học sinh khối 12, kết hợp với quá trình
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với đồng nghiệp, bạn bè, tham khảo các tài liệu.
16


Sáng kiến đã được nghiên cứu công phu, song không tránh khỏi những hạn chế.
Vì vậy, cá nhân tôi rất mong được sự đóng góp, trao đổi ý kiến của các bạn đồng
nghiệp để có thể hoàn thiện và góp phần nâng cao hơn nữa chuyên môn, nghiệp
vụ của mình trong quá trình công tác.


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Triệu Sơn, ngày 02 tháng 7 năm 2020.
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm do mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Lê Thị Xuân San

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1
Tác giả: Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) – NXB Giáo dục Việt Nam.
[2]. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2
Tác giả: Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) – NXB Giáo dục Việt Nam.
[3]. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12
Tác giả: Phan Trọng Luận (Chủ biên) – NXB Đại học Sư phạm, 2010.
[4]. Hướng dẫn giải các kiểu, dạng đề thi quốc gia môn Ngữ văn
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Trọng Khánh (Chủ biên) – NXB ĐHQGHN, 2009.
[5]. Từ điển thuật ngữ văn học
Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[6]. Nhà văn trong nhà trường: Kim Lân
Hoài Việt - NXB Giáo dục.
[7]. Một vài website:
- />- />

18


19



×