Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh ở lớp 5, trường tiểu học vạn xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.05 MB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TỌA THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT BÀI VĂN TẢ CẢNH Ở LỚP 5
TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN XUÂN

Người thực hiện: Trịnh Hữu Kiên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vạn Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2020


Mục lục
Mục
1

Nội dung

Trang

Mở đầu

1

1.1


Lí do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

1.5

Những điểm mới của SKKN

2

Nội dung


3

2.1

Cơ sở lí luận

3

2.2

Thực trạng của vấn đề

3

2.3

Các biện pháp thực hiện

5

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

15

Kết luận, kiến nghị

18


3.1

Kết luận

18

3.2

Kiến nghị

18

2

3


3

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Tiếng Việt là mơn học giữ một vị trí quan trọng trong chương trình Tiểu học.
Mơn Tiếng Việt gồm các phân mơn: Tập đọc, Tập viết, Kể chuyện, Luyện từ và
câu, Chính tả, Tập làm văn. Tất cả các phân môn này đều nhằm giúp học sinh rèn
luyện bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết thông qua hoạt động học tập và giao tiếp
của học sinh. Trong đó, Tập làm văn có thể coi là “đầu ra” của môn Tiếng Việt.
Phân môn Tập làm văn mang tính chất thực hành tổng hợp. Việc dạy tập làm
văn ở bậc Tiểu học sẽ góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ
đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tập tốt các
môn học khác. Chính những văn bản nói, viết các em có được từ phân môn Tập

làm văn theo các nghi thức lời nói, thuyết trình ... đã thể hiện những hiểu biết thực
tế, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã được học ở phân môn Tập làm
văn. Ở chương trình Tiểu học, thể loại văn miêu tả được học nhiều nhất, nó giúp
cho học sinh tái hiện lại cuộc sống con người và muôn vật, phong cảnh thiên nhiên
hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc được khắc họa bằng ngịi bút của học
sinh. Nó giúp các em có tâm hồn văn học, có tình u quê hương đất nước và cuộc
sống con người.
Mặt khác, học sinh tiểu học là đối tượng mà năng lực tư duy cịn hạn chế. Kỹ
năng sử dụng ngơn ngữ của các em chưa cao. Đặc biệt trình độ học sinh ở các địa
phương vùng khó khăn như trường Tiểu học Vạn Xuân còn chưa đồng đều hơn nữa
học sinh rất ngại học văn. Trong một tiết học thời gian có 40 phút là tối đa mà kiến
thức phải cung cấp quá nhiều nên giáo viên chỉ hay quan tâm đến đối tượng học
sinh khá, giỏi để tiết dạy thành công. Vì vậy mà kết quả học tập phân mơn tập làm
văn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh cịn lúng túng, vụng về,
gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói chung và văn tả cảnh nói riêng. Số học
sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là ít. Hầu hết khi làm văn tả cảnh
các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì rườm rà, diễn đạt ý thì
lộn xộn lủng củng. Có em ngồi cả tiết học mà khơng hồn thành được một bài văn
theo yêu cầu. Thậm chí nhiều đợt thao giảng cấp trường giáo viên bắt thăm phải tiết
tập làm văn thường thấy tâm lí khơng thoải mái khi phải dạy và kết quả thành công
chưa cao. Điều này đã làm tôi trăn trở và lo lắng. Năm học 2016 - 2017, tôi đã
nghiên cứu đề tài “ “Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh ở lớp
5 trường Tiểu học Xuân Cao 2, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hố”. Song
trong q trình vận dụng, bản thân nhận thấy đề tài cịn có nhiều hạn chế. Chính vì
vậy, tôi tiếp tục lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn
tả cảnh ở lớp 5B trường Tiểu học Vạn Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh


4


Hoá” để nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và học phân mơn Tập
làm văn nói chung và dạng bài văn tả cảnh nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những ưu điểm, hạn chế trong quá trình dạy học của giáo viên và
học sinh.
- Đưa ra một số biện pháp để phát huy các ưu điểm đó và đặc biệt là đưa ra
các biện pháp khắc phục những hạn chế khi dạy và học văn miêu tả.
- Giúp học sinh có hứng thú với phân mơn Tập làm văn nói chung và văn tả
cảnh nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp để giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh ở lớp 5.
Khi thực hiện đề tài, tôi đã chọn học sinh lớp 5B trường Tiểu học Vạn Xuân,
huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa để thực nghiệm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
1.5. Những điểm mới của SKKN
Sáng kiến của tơi có những điểm mới, đó là bổ sung những biện pháp sau:
*Biện pháp 4 : Rèn cho học sinh kĩ năng viết câu phù hợp.
*Biện pháp 5 : Chọn đề quen thuộc gần gũi với học sinh.
*Biện pháp 8: Bồi dưỡng học sinh năng khiếu.


5

2. Nội dung

2.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, phân môn Tập làm văn vận dụng các hiểu biết và kỹ
năng về Tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện và cung cấp. Từ các kỹ năng
nghe, đọc, nói, viết là hệ thống cấu trúc được xem xét từng mặt qua từng phân môn
và trở thành công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp tư duy học tập. Khi làm
một bài văn học sinh thực hiện một hoạt động giao tiếp. Mỗi bài văn là một sản
phẩm không lặp lại của từng học sinh trước đề bài. Do đó phân mơn Tập làm văn
giúp học sinh được tự do thể hiện cảm nhận riêng của mình về đề tài, phát huy sự
sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú, khả năng thẩm thấu cảm nhận cái đẹp... Phân
mơn Tập làm văn là một phân mơn khó đối với học sinh bởi nó yêu cầu học sinh
phải biết tổng hợp kiến thức, kỹ năng của các phân môn khác để viết thành một văn
bản hoàn chỉnh với bố cục, lời lẽ, từ ngữ rõ ràng, mạch lạc. Nếu như ở các lớp 1, 2,
3 các em học Tập làm văn thông qua việc trả lời các câu hỏi hoặc viết một đoạn văn
ngắn thì lên lớp 4, lớp 5 yêu cầu cao hơn là viết thành một bài văn hoàn chỉnh với
bố cục rõ ràng. Song đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau
quên, sự tập trung chú ý chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng
chán. Tư duy của các em mang đậm nét cụ thể, trực quan, khả năng phân tích tổng
hợp chưa cao, vốn từ ngữ còn hạn chế nên phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng
về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn nói chung và văn tả cảnh nói riêng. Số học sinh
làm được một bài văn hay, có sáng tạo chưa nhiều.
Theo chương trình sách giáo khoa lớp 5, văn tả cảnh chiếm số tiết khá lớn.
Như vậy, việc rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh là một việc làm rất quan
trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được những bài
văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật, sinh
động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học tốt tất cả các
kiểu bài văn miêu tả đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học.
Lấy học sinh làm trung tâm, còn thầy chỉ là người tổ chức hướng dẫn, trò tự khám
phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng
giảng dạy.
2.2. Thực trạng của vấn đề

2.2.1. Về phía học sinh
Qua thực tế dạy học ở trường tôi nhận thấy rằng: Kiến thức Tập làm văn ở
Tiểu học tập trung nhiều trong chương trình Tập làm văn lớp 4 - 5 với các kiểu bài
như: Trao đổi ý kiến; kể chuyện; miêu tả; … Trong đó khó nhất đối với học sinh là
văn miêu tả, cụ thể là văn tả cảnh lớp 5. Qua nhiều năm giảng dạy, tơi nhận thấy
học sinh có thể làm tốt các kiểu bài ở thể loại văn miêu tả như: tả đồ vật, tả con vật,
tả người; nhưng trong chương trình Tập làm văn lớp 5 - khi làm văn tả cảnh, thì
học sinh cịn nhiều lúng túng; câu văn thường ngắn ngủn, thiếu bộ phận, thiếu hình


6

ảnh; diễn đạt rối rắm, thiếu cảm xúc. Đa số các em chưa hoàn thành được bài văn
trong thời gian u cầu. Bài viết khơng có bố cục, sắp xếp ý lộn xộn, khơng theo
một trình tự nhất định, viết lan man, dài dòng, chưa biết miêu tả vào trọng tâm đơi
khi các em cịn kể cảnh kiểu liệt kê... Một số em làm văn theo kiểu “bắt chước” từ
các bài văn mẫu, chắp nối từng đoạn hay sao chép cả bài. Các bài viết thường rơi
vào tình trạng liệt kê, kể mà khơng tả, khơ cứng.
2.2.2. Về phía giáo viên
Phân mơn tập làm văn là một phân mơn khó vì thế trong q trình giảng dạy
giáo viên cịn lúng túng. Nhiều giáo viên chưa đào sâu suy nghĩ nghiên cứu bài dạy
nên việc truyền đạt cho học sinh chưa sâu sắc. Giáo viên mới chỉ hướng dẫn học
sinh làm bài theo từng tiết trong sách giáo khoa chứ chưa cho học sinh thấy được
mối quan hệ giữa các bài, chưa giúp học sinh gắn kết kiến thức của các tiết để viết
thành một bài văn hoàn chỉnh. Mặt khác giáo viên chưa biết vận dụng thời gian
luyện Tiếng Việt ở buổi 2 để hướng dẫn và luyện cho các em kỹ năng làm bài. Ở
các buổi luyện tập giáo viên thường ra một đề bài rồi yêu cầu học sinh viết dựa vào
những kiến thức mà các em tiếp thu được ở các tiết chính khố dẫn đến nhiều học
sinh viết một cách lơ mơ do không tổng hợp được các kiến thức đã học. Vì vậy, khi
dạy kiểu bài này địi hỏi giáo viên phải có nhiều sáng tạo cũng như sự nhạy bén,

linh hoạt trong quá trình lên lớp, chuẩn bị thật cơng phu các tình huống mà học sinh
có thể gặp.
Năm học 2018 - 2019, tơi đã áp dụng dạy thử nghiệm với những biện pháp đã
nêu ở đề tài viết năm 2016 - 2017. Kết thúc học kì 1, tơi đã tiến hành khảo sát học
sinh bằng đề bài sau:
Đề bài: Hãy tả một cảnh đẹp ở địa phương em.
Qua khảo sát 24 em học sinh ở lớp 5B đã đạt được kết quả sau:
Hoàn thành Tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

2

8,3%

8


33,3%

14

58,,4%

Từ kết quả khảo sát cho thấy khả năng làm bài văn của các em còn nhiều hạn
chế. Với các em làm bài đạt đã nắm được yêu cầu và nội dung của đề bài, bố cục rõ
ràng, cũng đã biết lồng cảm xúc khi miêu tả nhưng các em chưa biết miêu tả những
đặc điểm nổi bật của cảnh đó, cịn miêu tả chung chung, chưa biết sử dụng một số
biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá... dẫn đến bài văn tả cảnh chưa sinh động,
hấp dẫn. Có em thì mới làm được bài văn với đủ 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
Bài văn mang tính kể lể, liệt kê các cảnh đẹp chứ chưa biết miêu tả đặc điểm nổi
bật của cảnh. Cịn các bài văn chưa đạt thì chưa có bố cục rõ ràng, sắp xếp ý lộn


7

xộn, diễn đạt dài dòng... Đặc biệt, một số em mới chỉ viết dưới dạng đoạn văn 8
đến 10 câu. Chấm bài của học sinh, tôi thấy các em mắc khá nhiều lỗi: lỗi viết câu,
lỗi về chính tả, lỗi về dấu câu, lỗi diễn đạt, viết lạc đề,…
Ví dụ: Câu không đủ thành phần: Trên cánh đồng, chạy dọc theo xóm làng.
Lỗi diễn đạt: Cánh đồng đối với quê em là một cảnh đẹp của quê em.
Lỗi dùng sai dấu câu : Cánh đồng quê em. Vào buổi sáng, rất đẹp.
Lỗi dùng sai từ kết nối ý: Dịng sơng quê hương đã để lại trong tôi bao nhiêu
kỷ niệm nhưng tôi chẳng muốn rời xa.
Lỗi dùng từ (lặp một từ quá nhiều lần trong câu): Quê em là một vùng q
ven sơng Chu, q em có đồng lúa rộng, quê em có hồ Cửa Đạt rất đẹp.
Đọc bài văn của các em, tôi thấy rõ sự khô khan, nghèo cảm xúc, bài văn như

một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, lủng củng, lộn xộn, không lột tả
được đối tượng cần miêu tả, đôi khi cịn bịa đặt khơng có căn cứ.
Qua tìm hiểu, tơi thấy những nguyên nhân dẫn đến kết quả bài văn của học
sinh chưa đạt yêu cầu đó là:
Một là: Các em chưa hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, chưa phân biệt được
sự khác biệt giữa văn tả cảnh và các kiểu bài văn khác.
Hai là: Khả năng quan sát của các em và sự lựa chọn chi tiết để quan sát và
miêu tả thiếu tinh tế.
Ba là: Vốn từ miêu tả cịn nghèo nàn, hạn hẹp nên khơng lựa chọn được từ
có hình ảnh thích hợp để sử dụng.
Bốn là: Kĩ năng viết các đề bài xa lạ khơng gần gũi với thực tế ở địa phương
thì các em rất sợ không muốn làm bài.
Năm là: Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, viết câu văn phù hợp với đối tượng tả; kĩ
năng diễn đạt còn rất hạn chế. Chưa biết cách sắp xếp câu văn hay tạo nên bài văn
hay, bố cục thiếu rõ ràng, không phù hợp. Sáu là: Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ
đặt câu, viết đoạn; kĩ năng diễn đạt còn rất hạn chế. Chưa biết cách sắp xếp ý khi
viết bài, xây dựng bố cục thiếu rõ ràng, không khoa học.
Bảy là: Khơng có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ trong viết văn; khả
năng giao cảm với đối tượng miêu tả cịn hạn chế, cảm xúc khơng tự nhiên, tình
cảm gượng ép và khơ cứng.
Tám là: Việc mở rộng phạm vi đề bài, được yêu cầu kiến thức cao hơn so
với chương trình cơ bản để phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu văn học
hạn chế.


8

Chín là: Trong tiết trả bài, học sinh chưa được chữa lỗi kĩ càng, đầy đủ và
chưa biết cách để tự sửa lỗi cho mình.
Kết quả này cũng cho thấy một phần nào đó sự quan tâm của giáo viên trong

việc rèn luyện kỹ năng làm bài văn và mở rộng kiến thức cho học sinh còn hạn chế.
2.3. Các biện pháp thực hiện
Để khắc phục tình trạng trên và để giúp học sinh làm được bài văn tả cảnh
đạt những yêu cầu như vừa mang tính chân thực, vừa mang tính nghệ thuật và mỗi
bài văn là một sản phẩm sáng tạo của mỗi học sinh thì tơi đã hướng dẫn học sinh
như sau:
2.3.1. Biện pháp 1: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh.
Tả là mơ phỏng, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng có hình ảnh chứ
khơng phải là liệt kê các chi tiết. Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật
quen thuộc xung quanh các em: một dịng sơng, một cánh đồng, một cơn mưa, một
ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp hay một cảnh trên quê hương để lại cho em
nhiều ấn tượng nhất…Bài văn tả cảnh mang tính nghệ thuật cao, mang tính sáng
tạo, tính cá thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn tả cảnh là thứ ngôn ngữ giàu


9

sức gợi cảm và là ngôn ngữ đã được gọt giũa một cách công phu.

Hướng dẫn học sinh đặc điểm của văn tả cảnh

Chính vì vậy, để học sinh có những hiểu biết ban đầu về văn tả cảnh, tôi đã
cho học sinh tiếp cận với những bài văn tả cảnh tiêu biểu của những nhà văn nổi
tiếng như: Hoàng hơn trên sơng Hương (Hồng Phủ Ngọc Tường), Nắng trưa
(Băng Sơn), Buổi sớm trên cánh đồng (Lưu Quang Vũ), Rừng trưa (Đoàn Giỏi),
Chiều tối (Phạm Đức), … Học sinh được đọc văn bản, được tìm hiểu về nội dung,
bố cục của các bài văn tả cảnh để hiểu được đặc điểm của văn miêu tả. Tôi cho các
em thấy mỗi cảnh đều nằm trong một khung không gian và thời gian nhất định tạo
nên cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Khi tả cần nêu được khung cảnh chung này
nhưng phải biết tập trung tả những nét tiêu biểu của cảnh, làm cho nó khác với

cảnh khác. Đặc biệt, phải lồng được cảm xúc của người tả để bài văn sinh động. Từ
đó, tơi giúp học sinh rút ra cấu tạo của bài văn tả cảnh để học sinh ghi nhớ.
2.3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách
chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả.


10

Thứ nhất: Tơi tập cho học sinh quan sát, vì học sinh thường khơng có thói
quen quan sát. Phải có cơng quan sát mới tìm ra được những nét nổi bật, nét độc
đáo (cái mới, cái riêng) của đối tượng quan sát. Chính vì thế tơi đã tổ chức cho học
sinh quan sát trực tiếp một số cảnh vật thật, gần gũi với các em như: cảnh làng quê,
con đường, dịng sơng, con suối, ngơi trường…

Hướng dẫn học sinh quan sát một số cảnh vật thật của quê hương

Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng tất cả
các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác…
Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật
kĩ.
Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng khác
có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự
vật xung quanh.
Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách.
Đối với một số cảnh vật không thể quan sát trực tiếp thì phải hồi tưởng bằng
trí nhớ.
Thứ hai: Tơi hướng dẫn các em lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để
tả.
Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát, căn cứ vào nội dung ghi chép

được. Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và
khác biệt của đối tượng để miêu tả.


11

Lựa chọn hình ảnh, hoạt động của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên
hình ảnh tổng thể về đối tượng có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật
thiết với đối tượng.
Thứ ba: Tơi hướng dẫn học sinh sắp xếp ý, đoạn.
Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo thứ tự nào đó: theo
khơng gian, thời gian, …)
Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã chọn cho phù hợp.
Cách làm này giúp các em không tả dài dòng mà các em nắm bắt được cái
thần, cái hồn, cái dáng vẻ đặc biệt của cảnh; bằng ngôn ngữ làm thể hiện lên trước
mắt người đọc một khung cảnh rất thực, sống động. Nói ít gợi nhiều khơng có
nghĩa làm các em chỉ viết vài câu rồi chấm hết một bài văn mà khi tả cảnh không
nên lan man, cái nào cũng tả. Cần phải biết chọn lọc những đặc điểm nổi bật của
cảnh.
Tôi lưu ý các em khi sắp xếp ý:
- Tả bao quát toàn cảnh, nêu khung cảnh chung của cảnh vật và nêu cảm
tưởng, cảm nhận chung của em về cảnh vật.
- Tả từng bộ phận của cảnh theo một trình tự nào đó có thể theo không gian
hoặc thời gian. Chú ý đặc điểm của cảnh vật về đường nét, màu sắc, âm thanh, quy
mô, chỉ ra những nét riêng, vẻ riêng của cảnh. Ví dụ: Quan sát cảnh rừng buổi trưa,
nhà văn Đồn Giỏi đã ghi lại: “Rừng khô hiện lên với tất cả vẻ uy nghi tráng lệ của
nó trong ánh mặt trời vàng óng”. Đó chính là vẻ đẹp của một khu rừng vào buổi
trưa đầy nắng…
- Ở những nét nổi bật, tiêu biểu của cảnh người đọc dễ dàng nhận thấy những
màu sắc, âm thanh, hương vị của khu rừng gợi cho người ta một cảm giác lơ mơ dễ

đi vào giấc ngủ.
2.3.3. Biện pháp 3: Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh, làm giàu
trí tưởng tượng của các em khi tả.
Tôi hướng dẫn học sinh có thói quen tích lũy vốn từ. Vốn từ được tích lũy từ
nhiều nguồn: trong giao tiếp hàng ngày; qua đọc sách, báo; qua xem truyền hình,
nghe truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô giáo cung cấp… Đồng thời rèn cho
các em thói quen ghi chép lại các từ dùng để miêu tả.
Ví dụ: Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt, xanh rì, xanh mơn mởn,
xanh non, xanh lá mạ, xanh biếc, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê, khẳng
khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xác, trơ trụi, lác đác, xào xạc, lả tả,… Các từ
ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xoèn xoẹt, lách cách, cót két,
phành phạch, râm ran, ríu rít, rào rào, tí tách, đồm độp, loong boong, loảng
xoảng,…Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngọt, chan chát,
nồng nồng, cay xè, ngai ngái, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngọt mát,…


12

Khi đã có một số vốn từ nhất định, tơi giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng
tượng. Tưởng tượng trong văn miêu tả nói chung; văn tả cảnh nói riêng là rất quan
trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng
tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được điểm tương đồng với
đối tượng khác. Từ tưởng tượng học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng quen thuộc
và gần gũi với con người hơn.

Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ qua đọc sách, báo ở thư viện.

Tôi hướng dẫn học sinh tưởng tượng như sau:
- Tưởng tượng không phải trực tiếp quan sát vào đối tượng mà nhắm mắt,
hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng tác

động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- Tưởng tượng không phải là miêu tả bằng tình cảm, tình u của chính mình
đối với cảnh sẽ tả mà tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn,
đẹp hơn, sống động hơn.
So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng. Đây là
một trong những “bí quyết” để viết văn miêu tả nói chung, tả cảnh nói riêng được
hay hơn. Chẳng hạn, khi tả dịng sơng ta có thể so sánh với những sự vật như dải
lụa xanh của chị Hằng Nga bỏ quên trên cánh đồng hay con trăn xanh khổng lồ


13

trườn ra biển lớn hoặc con rắn khổng lồ uốn lượn giữa bốn bề bát ngát lúa ngô, …
Hay khi tả những chùm hoa phượng ta có thể so sánh với những đốm lửa hồng bập
bùng hoặc như những mâm xơi gấc.
Phân tích đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
Nhân hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
Ví dụ: Ơng sấm gõ trống thì thùng, bà chớp tức giận mang lưỡi kiếm sáng
rạch ngang trời.
Ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào
bài viết của mình.
Ngồi ra, tơi cũng cung cấp cho các em “bí quyết” khác dùng để viết văn tả
cảnh hay hơn nữa đó là sử dụng từ đồng nghĩa để tả. Nó giúp ta miêu tả chính xác,
cụ thể biểu hiện mn màu, mn vẻ của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Đoạn văn tả cánh đồng buổi sáng có sử dụng từ đồng nghĩa:
Những buổi sáng mùa hè đứng ở đầu làng mà nhìn cánh đồng thì thích thú
biết bao! Gió thổi mát rượi, sóng lúa nhấp nhơ từng đợt đuổi nhau ra xa tít. Cánh
đồng như tấm thảm nhung vàng mượt. Những bơng lúa chín nặng trĩu hạt ngả màu
vàng hoe. Ơng mặt trời ban phát những tia nắng vàng tươi rải khắp cánh đồng.
Bức tranh làng quê đượm một màu vàng trù phú.

Có thể nói việc đặt những từ đồng nghĩa: vàng mượt, vàng hoe, vàng tươi,
vàng trù phú cạnh nhau đã làm nổi bật bức tranh đồng quê vào mùa lúa chín thật
sinh động, giàu sức sống.
Làm văn miêu tả là phải quan sát như đã nói. Nhưng khi làm bài, các em
thường kể lại chứ không phải là tả, làm cho bài văn khô khan, nhạt nhẽo. Tôi đã
cho các em một mẹo nữa của làm văn tả cảnh đó là chuyển kể thành tả.
Ví dụ: Hai bên bờ sơng có rất nhiều cây cối đứng im.
Trên cánh đồng, em trông thấy rất nhiều người đang gặt lúa.
Buổi sáng, em nghe thấy tiếng chích chịe trong vắt. v…v…
Những câu văn như trên nặng về kể. Để cho hay, khi viết các em chỉ cần bỏ
bớt những cụm từ như: nó có, em trơng thấy, nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy, nghĩ
rằng, v.v… rồi thêm vào những từ láy, tính từ gợi tả, câu văn sẽ nhẹ nhàng, sinh
động; đối tượng được miêu tả sẽ trực tiếp hiện ra.
Như vậy, những câu trên chúng ta có thể diễn đạt lại như sau:
Sáng sớm, cây cối hai bên bờ sơng im lìm như cịn đang chìm vào giấc ngủ.
Trên cánh đồng, các bác xã viên cắt lúa nhanh thoăn thoắt.
Buổi sáng, tiếng chích chịe trong vắt.


14

Đây mới chính là những câu văn miêu tả.
2.3.4. Biện pháp 4: Chọn đề bài quen thuộc gần gũi với học sinh.
Miêu tả là thể loại văn khó đối với học sinh Tiểu học. Văn tả cảnh càng khó
hơn vì nó rất trừu tượng, địi hỏi người viết phải quan sát một cách tinh tế và làm
cho cảnh vật biết nói bằng lời. Vì thế mà việc chọn đề bài gần gũi với các em ban
đầu là rất quan trọng. Nếu đề bài tả cảnh quen thuộc thì học sinh rất có hứng thú
làm bài cịn đề bài tả một cảnh ít gặp thì các em rất sợ, khơng muốn làm bài.
Ví dụ: Đề bài trong sách Tiếng Việt 5 - tập 1- trang 22: Em hãy viết đoạn văn
tả một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong công viên, trên

đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). Với đề bài như thế này, tôi chọn cho học
sinh lớp tôi: Em hãy viết đoạn văn tả một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một
vườn cây (hay trên cánh đồng). Đây là những cảnh vật gần gũi với học sinh giúp
các em thích làm văn và gợi cho các em lòng yêu quê hương, đất nước.
2.3.5. Biện pháp 5: Rèn cho học sinh kĩ năng viết câu phù hợp.
Để viết được bài văn có chất lượng, học sinh còn phải biết dùng từ phù hợp để
viết được những câu văn hay, phù hợp với đối tượng miêu tả. Bởi bài văn hay được
tạo nên từ những câu văn hay. Vì thế, mỗi khi có dịp, tơi thường hướng học sinh
viết những câu văn khác nhau qua một từ hay một nội dung yêu cầu.
Ví dụ: Viết câu văn miêu tả về màu xanh ở quê em. Trước hết, tơi cho học
sinh tìm những từ đồng nghĩa về màu xanh: xanh tươi, xanh rì, xanh thẳm, xanh
mướt,… Sau đó các em chọn từ để đặt câu rồi sửa cho nhau trong nhóm. Kết quả
các em viết được những câu rất khác nhau:
. xanh thẳm: Bầu trời mùa thu cao và xanh thẳm.
. xanh mướt: Những bãi ngô non đang lên xanh mướt trông như một tấm thảm
màu ngọc thạch.
. xanh rì: Phía xa, hàng phi lao xanh rì đứng trang nghiêm như bảo vệ cánh
đồng lúa quê hương.
Từ đó, các em có thể lựa chọn những câu văn hợp với sự vật được miêu tả để
viết trong bài văn của mình.


15

Học sinh chữa lỗi cho nhau để có câu văn phù hợp

2.3.6. Biện pháp 6: Hướng dẫn xây dựng bố cục bài văn và xây dựng đoạn văn
mở bài, thân bài, kết bài.
Khi đã có đủ ý, tơi hướng dẫn học sinh xây dựng bố cục bài văn. Bố cục bài
văn tả cảnh gồm ba phần:

Mở bài: Giới thiệu chung về cảnh vật. (Cảnh gì? Ở đâu? Em tả nó vào lúc
nào? Lí do u thích cảnh vật đó là gì?)
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng
miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Nên sử dụng những biện pháp nghệ thuật để
lột tả hình ảnh một cách sinh động.
Kết bài: Nêu cảm nghĩ của người viết về cảnh vật (sự u thích, sự gắn bó
của cảnh đối với người tả, ý nghĩa của cảnh vật đó với quê hương, đất nước ...) Sau
đó, tơi hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn.
Đoạn mở bài: Mở bài cũng giống như lời chào, lời mời gọi người đọc đến
với bài viết của mình. Cũng như lời chào, lời mời gọi có thể viết rất giản dị, chân
thành, tự nhiên, ngắn gọn nhưng cũng có lúc cần dẫn dắt gợi mở khéo léo gây ấn
tượng, gây sự hấp dẫn cho người đọc.
Chẳng hạn cũng mở bài cho bài văn tả dịng sơng có em mở bài trực tiếp:
“Trên đất nước Việt Nam có biết bao nhiêu là dịng sơng đẹp như sơng Lam, sơng
Hồng, sơng Đáy... nhưng dịng sơng Chu là nơi có nhiều cảnh đẹp gắn liền với
cuộc sống người dân quê em”.


16

Nhưng cũng có em vào bài gián tiếp: "Quê hương” – hai tiếng nghe sao thân
thương đến lạ! Quê hương là nơi đã có nhiều kỉ niệm đẹp với chúng ta. Với mỗi
người, quê hương có thể là cánh đồng lúa trĩu bơng, là con diều no gió bay cao
trên bầu trời xanh thẫm… Còn quê hương của em là dịng sơng hiền hịa uốn khúc
quanh làng, đã gắn bó với em nhiều kỉ niệm đẹp thời thơ ấu.
Như vậy, cũng là giới thiệu dịng sơng mỗi người lại có một cách giới thiệu
riêng. Với học sinh, sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách
suy nghĩ, giới thiệu, diễn đạt. Tuy nhiên chúng ta khơng nhất thiết phải gị bó học
sinh làm mở bài theo một cách nào, mà chỉ dẫn cho học sinh cách vào bài phải bám
sát yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm rà nhưng cũng không thơ

kệch, vơ dun.
Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết
theo từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể hiện
được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà
người viết vận dụng để tả.
Khi liên kết câu văn, đoạn văn các em cần vận dụng các cách liên kết đã học
ở Luyện từ và câu như: liên kết bằng từ ngữ nối, thay thế từ ngữ, lặp từ,… Tuy
nhiên khi sử dụng những cách liên kết này các em cần lựa chọn từ tránh sử dụng
không đúng, gây rườm rà.
Đoạn kết bài: Rất quan trọng bởi nó thể hiện được rất nhiều tình cảm của
người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm
xúc của mình làm phần kết luận khơ cứng, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em
thường làm kết bài không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay,
chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách viết
phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc tự nhiên của mình.
2.3.7. Biện pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài Tập làm văn.
Tiết trả bài tập làm văn giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài
viết lần sau và học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn.
Tuy nhiên, ở tiết học này một số giáo viên thường làm qua loa, không chữa kĩ càng,
bớt xén thời gian để dạy môn khác.


17

Học sinh đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau sửa lỗi trong bài.

Để có được tiết trả bài có hiệu quả, tơi đã thực hiện như sau:
- Chấm bài cẩn thận, kĩ càng; chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết cho học sinh.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại như: lỗi về cách dùng từ, đặt câu;
lỗi diễn đạt; lỗi chính tả;… ghi lại các từ, các câu hay, đoạn văn hay.

- Nhận xét ưu điểm, nhược điểm; thống kê số điểm.
- Chữa lỗi cho học sinh theo từng loại như đã thống kê khi chấm bài.
- Đọc những câu văn hay, đoạn văn hay để học sinh học tập.
- Đặc biệt đọc những bài hay mang tính sáng tạo để học sinh cùng học tập.
- Trả bài và tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để các em trao đổi với
các bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau
sửa lỗi trong bài.
- Cho học sinh tự sửa lỗi và viết lại một đoạn cho đạt yêu cầu.
2.3.8. Biện pháp 8: Bồi dưỡng học sinh năng khiếu.
Tập làm văn chính là kết quả của sự đơm hoa kết trái trong quá trình học
tiếng Việt ở Tiểu học. Vườn cây cho nhiều trái nhưng “người làm vườn” ln
muốn tìm ra được những trái cây đặc sắc hơn để nhân giống. Vì vậy, tơi luôn từng
bước dõi theo học sinh nhằm phát hiện kịp thời những học sinh khá giỏi, học sinh


18

có năng khiếu để bồi dưỡng cho các em. Bằng cách:
* Ở bài hình thành kiến thức.
- Nâng cao, tăng dần độ khó.
- Từ những yêu cầu kiến thức, kĩ năng của bài học đưa thêm câu hỏi khái
quát hoặc so sánh với kiến thức, kĩ năng đã học.
- Yêu cầu tìm cách diễn đạt khác nhau cho cùng một nội dung.
- Cùng một nội dung diễn đạt những yêu cầu diễn đạt với những đối tượng
giao tiếp khác nhau.
* Ở bài thực hành luyện tập cho các em đề bài đa dạng hơn.
Ví dụ: Đề bài tả về cảnh ở địa phương, tôi cho các em làm quen một số đề:
- Hãy tả lại cảnh quê hương em vào một buổi(sáng, trưa, chiều) mùa nào đó
trong năm.
- Hãy tả lại một cảnh đẹp nổi tiếng ở quê hương em.

- Hãy tả lại cảnh ngày hội ở quê em.
Tôi cũng thay đổi hình thức ra đề để đề bài đỡ khơ khan hơn:
Ví dụ: Tuổi thơ em gắn với những cảnh đẹp của quê hương. Đó có thể là có thể là
cánh đồng lúa trĩu bông, là triền đê với con diều no gió bay cao trên bầu trời xanh
thẳm hay là dịng sơng hiền hịa uốn khúc quanh làng…Hãy tả lại một trong những
cảnh ấy.
Được mở rộng phạm vi đề bài, được yêu cầu kiến thức cao hơn so với
chương trình cơ bản, tơi thấy một số học sinh có năng khiếu về văn học đã bộc lộ
và phát triển rõ rệt.
Cùng với các biện pháp trên tôi thường xuyên chấm, chữa bài cho học sinh.
Vì đối với học sinh lớp 5, việc viết được đoạn văn hay một bài văn tả cảnh là các
em đã làm được một việc rất khó. Nên việc chấm, chữa kịp thời chính là động lực
thúc đẩy các em u thích mơn học. Đi đôi với việc chấm bài, tôi hướng dẫn học
sinh sửa bài. Với những bài có nhiều điểm hay, tơi thường đọc làm bài mẫu cho học
sinh cả lớp nghe và khuyến khích các em học tập. Với những bài viết có nhiều điểm
chưa đạt, tơi thường chấm riêng với em đó, sửa từng lỗi trong bài.
Có thể nói, những lời nhận xét sát thực của thầy cô rất bổ ích với các em. Do
đó, tơi thường lựa chọn câu nhận xét riêng cho từng phần của bài cho học sinh. Từ
đó, giúp học sinh hiểu bài viết của mình có ưu điểm gì hoặc lỗi gì cần sửa, học sinh
sẽ phát huy hay sửa chữa kịp thời.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


19

Năm học 2019 – 2020, tôi đã áp dụng những biện pháp đã nêu để giúp học
sinh lớp 5B trường Tiểu học Vạn Xuân làm tốt bài văn tả cảnh. Hết học kì 1, tơi kết
hợp với Ban giám hiệu và Tổ trưởng chuyên môn trong nhà trường tiến hành khảo
sát chất lượng 24 em học sinh bằng đề bài sau:
Đề bài: Hãy tả một cảnh đẹp mà em yêu thích.

Kết quả thu được: So sánh Học kì 1 năm học 2018-2019 với Học kì 1 năm
học 2019-2020.

Đánh giá
Hồn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành

Học kì 1

Học kì 1

năm học 2018-2019

năm học 2019-2020

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

2

8,3%

10


41,6%

15

62,5%

14

58,4%

7

29,2%

0

%

Nhận xét: Từ kết quả trên, tôi thấy việc vận dụng đề tài: “Một số biện pháp
giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh lớp 5” đã có sự chuyển biến rất tích cực, số
học sinh chưa đạt khơng cịn và bài làm của các em đều có sự tiến bộ. Cụ thể:
- Hầu hết học sinh biết trình bày bài văn có bố cục rõ ràng.
- Các em đã biết phối hợp miêu tả vừa đảm bảo tính chân thực, vừa mang
tính nghệ thuật. Bài viết của các em sinh động hơn và giàu hình ảnh hơn.
- Đọc bài viết của các em, người đọc đã hình dung được một cảnh vật cụ thể,
có đường nét, màu sắc. Mỗi bài văn tả cảnh của các em đã thể hiện được một bức
tranh sinh động với cảm xúc riêng của mỗi em.
Tóm lại, chất lượng mơn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn tả cảnh nói
riêng đã được nâng lên rõ rệt. Giờ đây phân mơn Tập làm văn khơng cịn là mơn
học khó khăn với các em học sinh nữa.

Dưới đây là một bài văn trong số các bài văn được đánh giá là Hoàn thành
Tốt của lớp:


20


21


22

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Với cách thức dạy Tập làm văn tả cảnh ở Tiểu học nói trên, giáo viên phải có
kế hoạch một cách có hệ thống, phải kiên trì, bền bỉ, lâu dài, khơng thể nóng vội.
Khi học sinh đã hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, biết quan sát đối tượng, tích lũy
được vốn từ miêu tả, biết xây dựng bố cục bài văn; cách diễn đạt, biết tưởng tượng
và sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn, được sửa lỗi kĩ càng trong tiết trả
bài thì viết văn tả cảnh trở nên dễ dàng hơn; học sinh hứng thú học hơn rất nhiều,
chất lượng bài viết của học sinh được nâng cao.
Dạy Tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình vào trong bài dạy thì
khi đó giáo viên và học sinh cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dịng
cảm xúc, cùng hịa chung tình cảm để cùng tìm hiểu và cùng cảm nhận đối tượng
với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy, người giáo viên cần chú ý:
- Trong q trình giảng dạy, giáo viên khơng nên nóng vội mà phải bình tỉnh
trong thời gian khơng phải một hoặc hai ngày. Phải tìm hiểu nguyên nhân sai sót cụ
thể của học sinh để từ đó tìm hướng khắc phục. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp
giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức
của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em.

- Phải nghiên cứu để nhận rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy.
Từ đó tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.
- Lưu ý quá trình giảm tải để điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học
sinh của lớp. Đề ra hướng giải quyết cho thống nhất với nội dung giảm tải.
- Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Các
em cần nắm được các bước tiến hành viết một bài văn.
Ngoài ra, giáo viên cần lưu ý học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn
chữ viết đẹp, đúng chính tả cho học sinh.
3.2. Kiến nghị
Với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn
này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người đó là
gia đình, nhà trường và xã hội để các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập.
Với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tịi tích lũy kinh nghiệm từ đồng
nghiệp, từ thơng tin sách vở,… và từ chính học sinh.
Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng
học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài.
Đặc biệt phải ln đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với học sinh và
bài dạy của mình. Động viên, gần gũi, giúp đỡ học sinh kịp thời.


23

Với nhà trường và các cấp quản lí: Tạo điều kiện hơn nữa để giáo viên
nâng cao tay nghề qua việc cung cấp sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ
mơn.
Động viên khuyến khích nhiều hơn nữa tới những giáo viên, học sinh đạt
nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập.
Trên đây là “Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh ở lớp
5B trường Tiểu học Vạn Xuân, huyện Thường Xuân” mà tơi đã thử nghiệm thành
cơng. Trong q trình thực hiện đề tài do kinh nghiệm của bản thân cịn ít nên chắc

chắn đề tài khơng tránh khỏi hạn chế. Vì vậy, tơi rất mong muốn nhận được sự
đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học để giúp cho đề tài nghiên cứu của tơi được
hồn thiện hơn nhằm nâng cao hiệu quả trong việc dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trịnh Hữu Kiên


24

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) - Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 - Tập 1,
tập 2- Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2006.
2. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) - Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 - Tập 1,
tập 2- Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2006.
3. “Phạm Thị Thu Hà. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 5 tập 1, 2”. Nhà
xuất bản Hà Nội.
4. “Giáo sư tiến sỹ Lê Phương Nga. 35 đề ôn luyện Tiếng Việt cuối cấp tiểu
học”. Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2011.
5. Những tài liệu liên quan đến việc dạy văn miêu tả Thế giới trong ta,
chuyên đề số: CĐ-TV 2005
6. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học lớp

5 - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2009
7. Sách tham khảo: Một số biện pháp dạy học văn miêu tả ở Tiểu học- NXBTPHCM.Năm 2005.
8. “Trần Mạnh Hưởng (chủ biên). Một số bài Tập làm văn chọn lọc lớp 5”.
Nhà xuất bản Giáo dục. Năm 2005.
9. Mạng Internet.
10. Tạp chí Giáo dục tiểu học.


25

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Hữu Kiên
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vạn Xuân.
T
T

1

2
3
4

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,

Tỉnh...)

Giúp học sinh trả lời câu hỏi
khó trong bài tập đọc “hơn
Phịng
một nghìn ngày vịng quanh
GD&ĐT
trái đất”
Kinh nghiệm giúp học sinh
Phịng
giải tốn có lời văn lớp 3 ở
GD&ĐT
trường Tiểu học Xuân cao 2.
Kinh nghiệm giúp học sinh
giải tốn có lời văn lớp 3 ở
Sở GD&ĐT
trường Tiểu học Xuân cao 2.
Một số biện pháp giúp học
sinh làm tốt bài văn tả cảnh ở
Phòng
lớp 5 trường Tiểu học Xuân
GD&ĐT
Cao 2, huyện Thường Xuân

Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)

Năm học đánh

giá xếp loại

C

2009

B

2014

C

2014

B

2017


×