1
MỤC LỤC
Mụ
c
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2
Tên mục
Trang
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp thực hiện
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
1
1
1
1
1
2
2
2
3
13
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
15
15
15
2
Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập
làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn là
phân môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện,
Chính tả, Luyện từ và câu trong mônTiếng Việt ở bậc Tiểu học. Mục tiêu của cả
người dạy và người học là cần phải “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người
giáo viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài
thơ, cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình
ảnh, tình cảm, ... Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các
cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan,
thiếu cảm xúc, ít hình ảnh, …
Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài
viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông
báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi
này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó,
tôi rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích môn văn?
Để giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật
xung quanh, thiên nhiên đất nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá
nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách cho các em?”.
Để trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp
4A Trường Tiểu học Xuân Dương. Tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn dấu trong mỗi
cá nhân học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày “ Một số
biện pháp giúp học sinh lớp 4A trường Tiểu học Xuân Dương huyện Thường
Xuân học tốt phân môn Tập làm văn lớp 4 dạng bài văn miêu tả đồ vật, cây
cối, con vật”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm các giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn
dạng văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật.
- Tháo gỡ một số tồn tại, vướng mắc trong quá trình dạy phân môn Tập
làm văn của giáo viên và việc học phân môn Tập làm văn của học sinh đặc biệt
là dạng văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp 4A- Trường Tiểu học Xuân Dương huyện Thường Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp trực quan.
- Các phương pháp khác: Phân tích ngôn ngữ, so sánh đối chiếu, thống kê
và xử lý các số liệu thu được.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Tiếng Việt là môn học công cụ gắn bó khăng khít với các môn học khác
trong nhà trường. Chương trình Tiếng Việt Tiểu học nói chung và chương trình
Tiếng Việt lớp 4 nói riêng đã xác định mục tiêu là hình thành và phát triển ở học
sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp
trong cuộc sống. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các
thao tác tư duy. Bên cạnh đó còn cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản
về Tiếng Việt và hiểu biết về tự nhiên - xã hội, con người. Bồi dưỡng cho các em
tình yêu Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN.
Để giúp cho các em biết làm bài văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật là cả một
quá trình rèn luyện bền bỉ. Bài văn không thể hay được nếu học sinh không có
sự quan sát tỉ mỉ, kĩ càng, không biết phối kết hợp giữa tư duy trực quan và tư
duy ngôn ngữ để biến những kiến thức sách vở thành kiến thức riêng của bản
thân mình.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Trong hai năm học vừa qua (2018-2019 và 2019-2020) tôi đều được các
đồng chí lãnh đạo nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4. Qua quá
trình giảng dạy và qua việc dự giờ để học tập, rút kinh nghiệm chuyên môn ở
các đồng nghiệp. Tôi nhận thấy việc làm văn dạng miêu tả đồ vật, cây cối, con
vật ở lớp 4 còn gặp nhiều khó khăn.
* Về phía giáo viên
- Chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích
cực và những kĩ thuật dạy học mới vào bài dạy trong từng bài học. Đa số các cô
thường quan niệm rằng dạy Tập làm văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật cho học
sinh đơn giản, bởi vì các đồ vật, cây cối và con vật đó có trong cuộc sống gần
gũi với các em học sinh như: cái bút, cái cặp, cái trống trường, cây ổi, cây nhãn,
cây mít, cây bàng, con gà, con chó, con mèo ...Nhưng thực tế khi dạy, ta chưa
biết vận dụng phương pháp để đưa cái gần gũi đó và hướng các em chuyển
thành câu đoạn hay mà chủ yếu dựa vào vở bài tập học sinh có sẵn, hướng cho
học sinh hoàn thành trong vở bài tập là xong. Chính vì thế khi hướng dẫn học
sinh viết đoạn văn giáo viên còn lúng túng sử dụng các phương pháp chưa nhịp
nhàng logíc dẫn đến học sinh viết câu, đoạn chưa hay, chưa liền mạch.
* Về phía học sinh
- Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy
đơn giản trực quan nên việc làm văn của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Chất
lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn
chưa cao.
- Vốn sống và vốn kiến thức văn của học sinh nhất là học sinh vùng nông
thôn quê chúng tôi còn hạn chế .Đa số các em là con trong những gia đình có bố
mẹ làm nghề nông thuần túy nên số phụ huynh có điều kiện và có ý thức mua
sách báo cho con em mình đọc còn rất ít. Hơn nữa không ít em chưa có thói quen
đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với các tác phẩm văn học.
4
- Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng làm văn
của học sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn. Điều đó đã thể hiện rõ
qua việc tôi cho học sinh viết văn nói về một đồ vật, một cây hoặc một con vật
mà em yêu thích.
* Kết quả đạt được sau khi học sinh làm bài Tập làm văn.
Lớ
p
Năm học
Số HS
4B
4A
2018-2019
2019-2020
28
30
HTT
SL
TL
4
14,3
5
16,7
Chất lượng
HT
SL
TL
19
67,8
18
60
CHT
SL
TL
5
17,9
7
23,3
Đây cũng chính là một thực trạng khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở về
việc làm văn của học sinh lớp 4 trong năm học này và của cả những năm học
trước. Trước tình hình thực tế như vậy đã thôi thúc và luôn đặt ra trong tôi
những câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao được chất lượng làm văn cho học sinh
lớp 4 đặc biệt là dạng văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật và rồi tôi cũng đã
mạnh dạn tìm và đưa ra được một số biện pháp để nâng cao chất lượng làm văn
cho học sinh. Tôi đã áp dụng những biện pháp này vào việc dạy làm văn cho học
sinh lớp 4. Thật đáng mừng qua hai năm áp dụng chất lượng làm văn của học
sinh lớp tôi phụ trách đã được nâng lên khá rõ. Tôi xin mạnh dạn chia sẻ cùng
các đồng nghiệp một số giải pháp như sau.
2.3. Các giải pháp thực hiện.
Để nâng cao chất lượng làm văn phần miêu tả đồ vật, cây cối và con vật
cho học sinh lớp 4 đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì và bền bỉ, phải có kiến
thức, phải am hiểu sâu rộng về môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập làm
văn. Vì đây là một công việc mang tính chất quyết định để dẫn đến thành công.
Tôi đã tiến hành những biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng phân mônTập
làm văn lớp 4 phần miêu tả.
2.3.1. Cung cấp các kiến thức văn học.
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới
có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các
em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu
vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi cách phải bổ sung vào
vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của Tiếng Việt. Cách làm nhanh nhất
là thông qua môn Tập đọc. Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ
ngữ mà các em chưa hiểu, sau đó tôi chốt lại một từ yêu cầu các em ghi vào “ sổ
từ”, tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
Ví dụ: Ở bài Đường đi Sa Pa. ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2, trang 102), tôi
yêu cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và
hình ảnh.
- Trắng xóa tựa mây trời.
5
- Lướt thướt liễu rủ.
- Bồng bềnh huyền ảo.
Bài Con chuồn chuồn nước ( Tiếng Việt lớp 4 - Tập 2- Trang 127).
- Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút.
- Đặt câu: - Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh.
- Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông.
Vậy qua môn Tập đọc học sinh tích lũy được “ vốn liếng” từ không hề
nhỏ. Ngoài ra cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn
hay trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào văn
bản của mình.
Ví dụ:
Cá thu Biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
( Đoàn thuyền đánh cá)
Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi
cong lướt thướt liễu rủ.
( Đường đi Sa Pa)
2.3.2. Luyện điền từ, chọn từ.
Song song với việc tích lũy vốn từ qua môn Tập đọc. Trong tiết luyện
viết đoạn văn tôi thường xuyên cho các em củng cố về từ ngữ qua dạng bài
luyện từ, từ dễ, từ khó.
* Điền từ để câu văn giàu hình ảnh:
- Nắng ban mai (hồng tươi) nhuốm chan hoà trên từng sắc lá.
- Hoa hồng đẹp (lộng lẫy) cánh hoa đỏ (thắm), mịn (như nhung).
- Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang (phả lửa)
lên trời.
- Bầu trời xanh (thăm thẳm), mây trắng (bồng bềnh) trôi.
- Cây cao (cao vút).
- Gió thổi (rì rào) trong đám lá.
- Mào của trống ta y hệt một bông hoa đỏ (chon chót)
- Những quả cam (vàng óng), da (căng mọng) như mời gọi người đến thưởng thức.
- Đôi mắt (long lanh như thuỷ tinh), lúc nào cũng (liến láu) nhìn quanh.
Việc chọn từ điền vào câu văn, giáo viên nên để học sinh thoải mái, không
ép hay áp đặt. Sau mỗi lần để học sinh chọn điền tôi cũng để học sinh khác bình
luận, nhận xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt môn văn có thể học
hỏi được nhiều từ, câu của các bạn học tốt hơn mình. Bài tập này đa dạng, dễ
cho ví dụ. Giáo viên nên khuyến khích và động viên học sinh làm tốt. Nếu với
những câu quá khó giáo viên có thể gợi ý.
Với dạng bài này tôi cho các em luyện tập ở các tiết “Luyện tập xây dựng
đoạn văn”, tiết “Hướng dẫn học” giúp các em lựa chọn các câu văn hay để viết
6
đoạn văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học và vừa giúp học sinh
ghi nhớ lâu hơn.
2.3.3. Dạy viết câu có kết cấu đơn giản.
Tháp cao nào cũng phải xây dựng từ dưới mặt đất chính vì vậy để viết
được những câu văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên học sinh cần
nắm được câu trong dạng đơn giản nhất, đó là những dạng câu học sinh đã được
học: Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?... câu khiến, câu hỏi, câu cảm….
Dạy những loại câu này đối với học sinh không khó. Ta chỉ cần hướng
dẫn tốt qua tiết Luyện từ và câu. Xác định các yêu cầu cơ bản học sinh cần nắm
được, và thường xuyên củng cố thật nhiều.
Câu phải có hai bộ phận chính: Chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? Vật gì?
- Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? Như thế nào? Là gì?
Đi đôi với việc dạy lý thuyết tôi cho học sinh luyện viết câu, phân tích
thật nhiều, lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu:
Ví dụ: Sau khi học xong bài Tập đọc “ Sầu riêng” Tiếng việt 4 tập 2:
+ Học sinh cần tích luỹ từ: ngọt ngào, quyến rũ, quyện.
+ Đặt câu và phân tích:
Dạ hượng / ngọt ngào lan toả khắp khu vườn
CN
VN
Vườn hoa / quyến rũ lũ ong bướm rập rờn bay đến
CN
VN
Mít chín / thơm nồng, ngọt sắc như vị của trứng gà quyện với mật ong già
CN
VN
Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững chắc
về câu.
2.3.4. Dạy viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp.
Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, không
hấp dẫn người đọc. Bởi vậy, ta cần trang bị những kiến thức nâng cao về câu cho
những “mầm non văn học”. Tuy nhiên ta không bắt buộc học sinh tiếp thu những
gì quá phức tạp không phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có thể dạy
là:
- Câu có trạng ngữ.
- Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.
a. Dạng câu có trạng ngữ.
Đâu tiên tôi cho học sinh tiếp xúc với các loại câu này, tập tìm chủ ngữ, vị ngữ.
Trên vòm cây, chim hót líu lo.
Học sinh rất dễ nhầm lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ nếu chưa tiếp xúc
với loại câu này. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi:
+ Con gì hót líu lo? ( con“ chim” vậy “ chim” là chủ ngữ).
+ Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ).
Vậy “Trên vòm cây” là bộ phận gì? học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ
nói rõ chim hót ở đâu.
7
Tương tự như vậy tôi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian,
nguyên nhân, mục đích, nơi chốn để học sinh có thể đặt câu:
Ví dụ:
- Ngoài vườn, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
- Để chăm sóc con, chị gà cần mẫn bới đất tìm thức ăn.
- Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trông thật xinh.
b. Dạng câu có nhiều chủ ngữ, vị ngữ.
Tôi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu.
Ví dụ: Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung.
Bằng cách làm này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc
khô khan kể lể. Học sinh viết câu văn hấp dẫn hơn.
- Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc.
- Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống.
- Chú mèo cuộn mình, lăn tròn như quả bóng.
- Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi.
Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt.
Bài văn không rời rạc, khô khan bởi chỉ được viết từ các câu đơn.
2.3.5. Dạy các biện pháp nghệ thuật.
Muốn bài văn hay thì trong bài văn không thể thiếu tính nghệ thuật. Học
sinh lớp 4 kiến thức về lĩnh vực này còn hiểu lơ mơ, hời hợt. Nếu giáo viên
không dạy, học sinh khó mà nắm bắt được. Để đưa nghệ thuật vào trong văn có
rất nhiều biện pháp. Nhưng theo tôi, đối với học sinh ở lứa tuổi này, hai biện
pháp nghệ thuật phù hợp nhất là so sánh và nhân hóa.
a. Biện pháp so sánh.
Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có các biện pháp so sánh trong các
bài Tập đọc đã học.
Ví dụ:
- Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng
rực rỡ.
- Hoa cẩm chướng là ngôi sao màu trên vòm trời xanh lục giữa vườn.
- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng
ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng
ngàn ngọn nến trong xanh.
- Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn.
- Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con.
- Những tán hoa lớn xòe ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
- Với những cánh tay quều quào xoè rộng, nó như con quái vật già nua
cau có và khinh khỉnh giữa đám bạch dương tươi cười.
- Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai
đó thả hàng vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời xanh biếc chi chít cành và xoay
thành những tán tròn quanh thân cây.
8
Với những câu văn này tôi sẽ giới thiệu để các em nắm chắc được biện
pháp so sánh bằng cách sau:
Ví dụ: Câu “Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia
nắng vàng rực rỡ”. Tôi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy
hình ảnh mặt trời để tả bông hướng dương.
Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu
khác để mô tả bông hướng dương.
“Bông hướng dương rất to, màu vàng, có rất nhiều cánh nhỏ”. Và yêu
cầu học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu thứ nhất, 100% học
sinh được hỏi đều trả lời như vậy. “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử
dụng biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so
sánh tôi lại đưa ra một câu văn nữa.
“Bông hướng dương như chiếc đĩa màu vàng”
Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng
định câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi: “Tại sao cả hai câu đều
sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay hơn?” và giải thích “ở câu thứ
nhất, tác giả dùng hình ảnh mặt trời đang toả nắng” một hình ảnh đẹp, sinh động
và rất độc đáo để so sánh vì vậy đã làm cho bông hướng dương tươi đẹp hẳn
lên. Còn câu thứ ba so sánh với cái đĩa có đặc điểm giống bông hướng dương
song đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của bông hoa. Từ đó giúp học sinh hình
thành sự hiểu biết. Khi so sánh muốn làm cho một sự vật đẹp hơn phải so sánh
với sự vật khác giống nhưng đẹp hơn, có những nét độc đáo, nổi bật hơn và
ngược lại.
Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên, vì nếu không luyện
tập thì các kiến thức đó cũng mai một dần. Sau đây là một vài dạng bài tập mà
tôi đã xây dựng trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”:
* Nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn.
So sánh như vậy giúp các em cảm nhận được điều gì mới mẻ của sự vật?
Thân dừa bạc phếch tháng năm.
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao.
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng
chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt
long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng
mùa thu.
Dạng bài này không khó đối với học sinh nhưng không phải học sinh nào
cũng cảm nhận được cái đẹp cái mới mẻ trong đoạn văn, đa phần các em chỉ
nhận ra hình ảnh so sánh.
* Điền từ thích hợp vào chỗ trống tạo thành câu văn có hình ảnh so
sánh gợi tả.
- Nhìn từ xa, cây bàng… một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
- Những trái chuối cong cong… vầng trăng khuyết.
9
- Những chiếc gai… những chú lính đứng trang nghiêm gác cho nàng
công chúa hoa hồng.
Ở dạng bài này hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống
như, tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt.
* Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi chỗ
trống để mỗi dòng dưới trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc
một mặt trời mới mọc)
- Hoa bỏng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng
nhỏ xíu hoặc chùm quả).
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như (những mũi tên bay trong gió
hoặc những viên đạn rời khỏi lòng súng).
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che
chở cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là (ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời con hoặc ngôi
sao dẫn đường cho con đi lên phía trước).
- Nụ hồng trông giống hệt những (chiếc tháp) bé bé, xinh xinh.
Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền
thoải mái, không áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen học
sinh chọn từ để cho học sinh hứng thú học văn.
* Tập so sánh.
Nâng cao hơn, tôi yêu cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu.
Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như:
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan.
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín.
- Tàu dừa, vầng trăng (tròn, khuyết), mặt hồ.
Loại bài tập này khó hơn, nó đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong
phú lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Bởi vậy, tôi thường đưa ra những câu tham khảo khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà vẫn
chưa có được những câu văn có thể tích luỹ được để làm tư liệu. Ví dụ:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.
- Đồng lúa chín y hệt một biển vàng.
- Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn in sắc mây, trời.
Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong
phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày càng một nâng cao. Trong các bài viết,
đưa biện pháp mô tả vào để so sánh một việc làm dễ dàng đối với học sinh.
b. Biện pháp nhân hóa.
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn
trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những câu
chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới
phong phú của nghệ thuật nhân hoá. Không cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới
thiệu học sinh sẽ nhanh chóng nắm được ngay.
10
Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho
các em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:
1. Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió.
2. Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
1. Gà Mái Mơ nuôi con rất khéo.
2. Chị gà Mái Mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
1. Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
2. Những bé gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
1. Gốc hồng màu đen xám.
2. Gốc hồng như một người mẹ già đi trong bộ áo xám đen nhường sắc
non xanh cho hoa, cho lá.
1. Bông hồng nhung vươn cao.
2. Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp
của mình.
1. Nắng chiếu đầy vòm lá.
2. Những tia nắng tinh nghịch đùa trên vòm lá.
Không khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung
một câu trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất.
“ Nó hay hơn vì sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi
nghĩ giáo viên cần lí giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa:
Chị Mái Mơ, chị chuối, bé gà, cô hồng nhung… trở nên sinh động, đáng yêu vì
đã có những suy nghĩ, tính cách của con người.
Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu
cho các em cách nhân hoá sự vật.
* Gọi tên sự vật.
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô trăng, chị gió,
bác mặt trời, anh gà trống, chị Mái Mơ, bác mèo mướp, chị chuối tiêu.
* Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
- Hoa quỳnh trầm tư.
- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị Mái Mơ hiền lành.
- Những bé gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót.
- Trăng tinh nghịch nhòm qua cửa sổ.
- Quyển vở sung sướng, hãnh diện khoe điểm 10 đỏ chói.
Song song với việc giới thiệu, tôi thường dành thời gian đọc cho các em
nghe những câu chuyện có sử dụng nhiều biện pháp nhân hoá như: Dế Mèn
phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa, Hai con ngỗng của nhà văn Tô Hoài (tiến hành vào
tiết Sinh hoạt tập thể, Kể chuyện).
Nhắc học sinh liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích có các con vật đáng
yêu thông minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu mực cho học sinh tập,để nắm
được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.
11
Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này ta cho
các em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
1. Tập nhân hoá các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh bằng cách một
hoặc cách hai?
2. Nêu tâm trạng của các loài hoa vào mùa xuân?
3. Tưởng tượng ra cuộc trò chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo?
4. Chị Mái Mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những
cử chỉ, lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
Dựa vào những câu chuyện đã được nghe, những bộ phim hoạt hình đã
được xem thì những bài tập trên không khó lắm đối với học sinh. Tuy nhiên giáo
viên cần lưu ý chủ đề viết. Có thể gợi ý học sinh như sau:
- Bác mặt trời toả tia nắng ban mai hồng tươi.
- Chị gió tinh nghịch nô đùa cùng đám lá.
- Mèo mướp lười biếng nằm sưởi nắng ở dưới sân.
- Cô gà mái đảm đang dẫn đàn con đi kiếm mồi.
- Chị chim sâu chăm chỉ lách chách chuyền cành.
- Hồng nhung lộng lẫy trong chiếc áo đỏ thắm mịn màng.
- Cúc vàng ủ rũ nhìn các bạn đi hội xuân. Nó không còn bộ quần áo nào
lành lặn cả.
- Hễ kiếm được miếng mồi nào chị Mái Mơ cũng lục tục gọi bầy con đến
nhường cho chúng.
- Chị dang đôi cánh ấm áp ủ bầy con nhỏ.
- Từ ngày nuôi lũ con, bộ lông chị gà cứ xơ xác hẳn đi.
- Chị gà rất giàu kinh nghiệm, chị chẳng bao giờ dẫn đàn con đến gần
rãnh nước.
Bằng cách luyện tập này thì việc vận dụng biện pháp nhân hoá vào bài tiến
bộ rõ rệt. Câu trả lời này, tôi sẽ minh hoạ bằng bài văn của các em ở phần sau.
Trên đây là các bước “dạo đầu” giúp các em có một vốn văn học nhất
định phục vụ cho việc viết bài. Học sinh sử dụng các “viên gạch” đó xây nền các
“ngôi nhà” như thế nào mới quan trọng. Muốn có bài văn hay cần gì trong tiết
dạy? Tôi xin trả lời bằng nội dung của phần 2 đề tài.
2.3.6. Dạy viết văn.
Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài viết
hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật,
cảm xúc. Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của học sinh cần
có tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn ta tập trung giải quyết 3
nhiệm vụ.
2.3.7. Xây dựng nội dung.
Phong phú về nội dung là yêu cầu đầu tiên của một bài viết tốt. Giải quyết
nhiệm vụ này tương đối khó nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ. Khi dạy, giáo viên
cần lưu ý hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa vì chương trình văn được soạn
cho trình độ phổ cập, đối với lớp khá ta có thể bổ sung thêm. Đích đầu tiên học
12
sinh cần đạt là phải hoàn thiện về bố cục (có 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài) ý
phong phú có trọng tâm.
Khi đã hoàn thiện về bố cục. Tôi tiếp tục chú ý đến nội dung bài văn.
Muốn bài văn phong phú học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi câu
hỏi học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ không phải một câu cộc lốc. Ví
dụ như câu hỏi:
- Thân cây thế nào? (trong bài quan sát cây hoa hồng). Tôi không bằng
lòng với câu trả lời kiểu: “Thân cây khẳng khiu, cành đâm ra mọi phía”. Cao
hơn, tôi đòi hỏi ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ (màu sắc, độ cao, to, cách bố trí, các
cành, cành non, cành già, gai) và trả lời bằng một đoạn văn.
- Thân cây thâm thấp, màu xanh tươi. Cành cây khẳng khưu đan chéo vào
nhau, vươn ra mọi phía. Đôi ba mầm non mới trồi lên mập mạp đầy sức sống.
Rải rác trên cành lá những chú gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú
lính gác cho nàng công chúa hoa hồng.
Rèn luyện thói quen quan sát nhiều góc cạnh của sự vật sẽ giúp học sinh
có được những bài văn “giàu ý”. Tuy nhiên không thể dàn trải mênh mông mà
bài văn phải có trọng tâm. Học sinh biết lựa chọn chi tiết nổi bật, lướt qua chi
tiết phụ để viết câu sâu hơn và biết dùng “từ đắt” hơn. Ví dụ bài: Tả cây hoa
hồng thì phải tả kĩ. Nhìn tổng thể hoa trên cây, nhìn chi tiết từng bông: Bông nở
to, bông chúm chím, nụ. Phát hiện vẻ đẹp riêng của chúng, so sánh chúng. Quan
sát kĩ từng cánh hoa, cách cấu tạo và điều quan trọng nhất là phải làm nổi bật
hình ảnh loài hoa, cây hoa mình quan sát.
2.3.8. Đưa nghệ thuật vào bài văn.
Nói đến nghệ thuật ta có cảm giác nó cao siêu và xa vời với học sinh Tiểu
học. Nhưng cái “nghệ thuật” ở các em chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ ngữ, hình
ảnh và sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa. Bởi vậy nó cũng rất gần gũi
quen thuộc với các em vì các em đã có được cả một quá trình học tập và rèn luyện.
Trong quá trình tập diễn đạt nội dung, có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
- Ta có thể tả màu sắc hoa hồng nhung bằng từ nào? (đỏ thẫm, đỏ thắm,
đỏ đậm, đỏ tươi, đỏ rực, …)
- Gốc hồng làm nhiệm vụ gì?
Tuy nó sần sùi màu nâu và khô cằn. Em có thể dùng biện pháp so sánh
hay nhân hoá để làm nổi bật nét đẹp trong hình thức xấu xí của nó được không?
(gốc cây như người mẹ giản dị trong bộ áo nâu xám. Nhường sắc xanh tươi cho
lá, cho hoa).
- Những chiếc gai có thể nhân hóa được không? (Nhân hoá như những
người lính).
- Tàu lá chuối có thể so sánh với cái gì? ( Cái quạt khổng lồ, tấm lụa màu
xanh lục).
- Những quả chuối cong cong giống cái gì? (Vầng trăng khuyết).
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của
mình. Sau khi nghe phần trình bày của các em, tôi sẽ rút ra một số từ ngữ, hình
ảnh, câu văn hay để cả lớp có thể học tập và đưa vào bài của mình.
13
2.3.9 Đưa cảm xúc vào bài văn.
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm
xúc” của người viết. Cảm xúc không chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm
đậm trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật
là trừu tượng.
Bởi vậy ta không nên đòi hỏi các em một cách chung chung. Các em lồng
được tình cảm của mình vào từng ý văn, giáo viên nên gợi ý cụ thể như sau:
- Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế
nào? (Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lòng người).
- Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm
được ăn ghê lắm).
- Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn).
Tương tự như vậy ta cần “bắt” học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận xét
cảm xúc của mình trước một vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự liệt
kê. Nó thấm đẫm các suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
Kết hợp được 3 yếu tố trên: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc thì bài văn của
học sinh cũng đạt tới một thành công lớn. Nó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho ta vun
trồng những năm học tới.
2.3.10. Kết quả.
Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự
lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học văn
của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được đoạn văn, bài văn
gãy gọn, mạch lạc, có cảm xúc thì giờ đây các em đã viết được những câu văn
giàu cảm xúc, đoạn văn và bài loogic dẫn dắt người đọc và người nghe có cảm
giác muốn đọc, thích đọc và thích nghe. Điểm bài hoàn thành tốt ngày càng
nhiều. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn điển hình của các học sinh lớp tôi.
14
15
Hình ảnh minh họa bài viết của học sinh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh là một yêu cầu cần thiết, quan
trọng song chúng ta không thể nôn nóng. Những ngày đầu năm học, bản thân tôi
thấy rất trăn trở khi thực hiện phân môn Tập làm văn. Để giải quyết những khó
khăn, trăn trở đó, tôi đã suy nghĩ và tự rút ra cho mình một số kinh nghiệm dạy
Tập làm văn đặc biệt là phần miêu tả đồ vật, cây cối và con vật như tôi đã trình
bày ở trên. Khi ứng dụng các biện pháp đó vào các nội dung dạy văn miêu tả đồ
vật, cây cối và con vật đồng thời kết hợp với việc chọn viết mở bài theo cách
gián tiếp, kết bài theo cách mở rộng, tôi đã thu được kết quả như sau:
* Kết quả đạt được sau khi học sinh làm Tập làm văn dạng bài miêu
tả đồ vật, cây cối, con vật.
Lớp
Số
HS
Chất lượng
Chưa áp dụng
Đã và đang áp dụng
HTT
HT
CHT
HTT
HT
CHT
Năm học
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
14,
3
16,
7
19
67,
8
60
5
17,
9
23,
3
12
42,
9
46,
7
16
57,
1
53,
3
0
0
0
0
4B
28
2018 -2019
4
4A
30
2019 -2020
5
18
7
14
16
Từ thực tế về kết quả trên đây, tôi thấy chất lượng làm văn của các em đã
có sự chuyển biến, năng khiếu học văn của một số học sinh được phát huy và
16
bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên trong quá trình làm văn, một số em vẫn còn lúng túng,
nghèo nàn về câu từ, về cách diễn đạt ý trong viết văn. Song tôi tin rằng các em
sẽ tiến bộ hơn nữa nếu được quan tâm kèm cặp của gia đình và thầy cô.
Dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4 là một quá trình tập luyện, giúp học
sinh bước đầu có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt một cách nghệ thuật.
Mặc dù với trình độ của bản thân còn hạn chế, thời gian thực hiện nghiên
cứu còn chưa nhiều, song tôi mong muốn đóng góp một số kinh nghiệm nhỏ của
mình khi dạy làm văn cho học sinh lớp 4 để nâng cao chất lượng phần làm văn
miêu tả. Qua việc tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu, tôi tích luỹ cho mình một số
kinh nghiệm nhỏ sau đây.
- Giáo viên luôn phải có sự chuẩn bị kỹ càng các nội dung dạy học trước
khi lên lớp.
- Phối hợp nhịp nhàng tất cả các biện pháp dạy học làm văn và kinh
nghiệm về các biện pháp dạy học của bản thân.
- Bản thân mỗi đồng chí giáo viên phải tự mình tích luỹ vốn kiến thức
hiểu biết Tiếng Việt, Văn học có liên quan đến chương trình dạy học.
- Kiên trì, chịu khó, tỉ mỉ trong việc hướng dẫn cho học sinh.
- Luôn tạo ra hứng thú học tập cho học sinh, cung cấp vốn từ, vốn sống,
khơi dậy trí tưởng tượng, lòng say mê ở học sinh.
- Quan tâm theo dõi sự tiếp thu và tiến bộ của từng học sinh trong lớp để
kịp thời động viên, điều chỉnh các nội dung dạy phù hợp với các đối tượng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc tìm hiểu những khó khăn của học sinh và tìm ra được hướng để khắc
phục những vướng mắc khi lĩnh hội tri thức mới là một điều không thể thiếu
trong quá trình dạy học. Với việc tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn Tập
làm văn lớp 4 đặc biệt là phần văn miêu tả ở trường Tiểu học hiện nay và đưa ra
được các biện pháp khắc phục đã đem lại một kết quả rất khả quan. Với giáo
viên cần có trong tay những giải pháp hợp lí khi dạy dạng bài này. Cũng thông
qua đề tài này, tôi đã áp dụng có hiệu quả, nay tôi mạnh dạn đưa ra để đồng
nghiệp tham khảo, áp dụng vào trong quá trình giảng dạy để đạt kết quả cao
trong việc dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 đặc biệt là phần văn miêu tả.
Tìm hiểu những biện pháp phù hợp với từng nội dung bài học là yêu cầu
không thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với đề tài này tôi mong được
góp một phần nhỏ vào kho tàng kinh nghiệm giảng dạy phân môn Tập làm văn
trong môn Tiếng việt lớp 4 nói riêng và trong cả bậc Tiểu học nói chung.
Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải biết
sáng tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên còn cần
17
tận tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học. Để dạy cho
học sinh làm văn tốt, trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kĩ, dạy thật tốt các phân môn
Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bởi chúng có mối liên quan, có tác động
trực tiếp đến phân môn Tập làm văn. Nó giúp học sinh tích luỹ vốn từ, hiểu và
vận dụng từ, vận dụng những câu văn, đoạn văn hay của bài Tập đọc vào bài văn
của các em. Mặt khác thông qua những bài văn hay cần cho học sinh nhận xét
việc sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật, từ đó giúp các em tích luỹ được
vốn kiến thức văn học. Hay trong những tiết học Luyện từ và câu khi hướng dẫn
học tôi luôn khuyến khích, hướng dẫn học sinh tìm các từ hay (theo chủ đề), đặt
câu văn giàu hình ảnh, phân tích từ, so sánh câu. Môn Tập làm văn quả là khó
đối với học sinh. Bài Tập làm văn là một tác phẩm văn học của các em. Tác
phẩm này hay, dở còn phụ thuộc vào năng lực của mỗi em, kĩ năng giao tiếp,
điều kiện sống của gia đình. Với lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, lòng yêu
nghề, tôi đã khắc phục được khó khăn và giúp học sinh lớp tôi ngày càng yêu
thích môn Tập làm văn hơn và tôi thấy các em học văn thực sự có hiệu quả.
3.2. Kiến nghi
- Đối với nhà trường: Các tổ chức trong nhà trường đặc biệt là tổ chức
Đội TNTP nên tổ chức các cuộc thi sáng tác thơ, viết truyện,…để khơi dậy lòng
yêu thích ham mê sáng tác, rèn luyện vốn từ cho các em, thông qua đó sẽ hiểu
hơn được tâm tư tình cảm của các em đặc biệt là phát hiện nhân tài để phát triển.
- Đối với giáo viên: Phải thật sự tâm huyết với nghề, luôn có suy nghĩ và
hành động tìm tòi nghiên cứu tài liệu, học hỏi bạn bè đồng nghiệp, tự học, tự rèn
luyện để nâng cao chất lượng dạy và học.
- Đối với học sinh: Phải luôn nêu cao ý thức tự giác trong học tập, phải
chăm chỉ rèn luyện, tìm tòi ở sách, báo, bài học, trên mạng xã hội…. để có
những bài văn đạt hiệu quả cao nhất.
- Đối với phụ huynh: Phải thường xuyên phói kết hợp với giáo viên kiểm
tra, bổ sung tài liệu, động viên, khen ngợi, khuyến khích kịp thời cho con em
mình để học sinh có niềm tin trong học tập từ đó sẽ phát huy được khả năng học
làm văn nói riêng và phát triển hơn nữa cho các môn học khác nói chung.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
nhằm bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp
4. Trong quá trình thực hiện mặc dù đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ
song không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan
tâm, góp ý xây dựng của các cấp lãnh đạo, các đồng chí trong Ban giám hiệu
nhà trường và bạn bè đồng nghiệp để bản thân tôi đạt hiệu quả hơn nữa trong
công tác giảng dạy nhằm góp một phần công sức nhỏ bé của mình để nâng cao
chất lượng giảng dạy của Trường Tiểu học Xuân Dương nói riêng và của ngành
giáo dục nói chung.
Thường Xuân, ngày 26 tháng 6 năm 2020
XÁC NHẬN
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
18
Nguyễn Thi Ngân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
T
T
Tác giả
Tài liệu
Nhà
Năm xuất
xuất bản
bản
1
Bộ Giáo dục và Đào Sách giáo khoa Tiếng Giáo dục
tạo.
Việt lớp 4
2006
2
Bộ Giáo dục và Đào Sách giáo viên Tiếng Giáo dục
tạo.
Việt lớp 4
2006
3
Bộ Giáo dục và Đào Tài liệu bồi dưỡng giáo Giáo dục
tạo.
viên dạy các môn học
lớp 4
2002
4
Bộ Giáo dục và Đào Tài liệu BDTX dành cho Giáo dục
tạo.
giáo viên Tiểu học chu
kỳ 2003-2007.
2005
19
5
Vụ giáo dục Tiểu
học.
Các chuyên đề giáo dục Giáo dục
Tiểu học.
6
Nguyễn Ngọc Bảo.
Lý luận dạy học.
Giáo dục
2002
7
S.A.Amonasvili.
Chào các em.
Đại học
quốc gia
2001
8
Nguyễn Ngọc Bảo
Tâm lý giáo dục Tiểu Đại học
học.
quốc gia
2003
9
Bùi Phương Nga.
Trịnh Quốc Thái.
Đổi mới việc dạy học Giáo dục
môn Tiếng Việt ở Tiểu
học.
1999
10 Nguyễn Thượng
Giao.
Giáo trình phương pháp Giáo dục
dạy môn Tiếng Việt ở
Tiểu học.
1998
11
Tạ Đức Hiền
Nguyễn Thị Nga
Phạm Đức Minh
Để học tốt văn và Tiếng
Việt Tiểu học
Hà Nội
2007
12
Trần Thị Thìn
Các bài văn mẫu lớp 4
Giáo dục
2010
13
Trần Mạnh Hưởng
Lê Hữu Tỉnh
Bồi dưỡng học sinh giỏi Giáo dục
Tiếng Việt 4
2005
14
Nguyễn Trí
Để học tốt Tiếng Việt 4
Nguyễn Trọng Hoàn
Đỗ Lê Chẩn
Giáo dục
2005
Đến 2018
2008
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thi Ngân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Xuân Dương, huyện
Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá xếp loại
(Ngành GD, cấp
huyện/tỉnh)
Kết quả
đánh
giá xếp
loại
(A, B,
hoặc C)
Năm học đánh
giá xếp loại
20
1
2
3
4
5
Một số phương pháp và
hình thức tổ chức dạy họchọc vần lớp 1.
Một số kinh nghiệm bồi
dưỡng học sinh lớp 5 giải
các bài toán về dãy số.
Một số biện pháp rèn chữ
đẹp, giữ vở sạch cho học
sinh lớp 2.
Một số biện pháp rèn chữ
đẹp, giữ vở sạch cho học
sinh lớp 2.
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 2D trường Tiểu
học Xuân Dương học tốt
môn Toán lớp 2 phần hình
học.
Phòng GD & ĐT
huyện Thường Xuân
C
2006 - 2007
Phòng GD & ĐT
huyện Thường Xuân
B
2010- 2011
Phòng GD & ĐT
huyện Thường Xuân
A
2012 - 2013
Sở GD & ĐT tỉnh
Thanh Hóa
C
2012 -2013
Phòng GD & ĐT
huyện Thường Xuân
C
2016 - 2017