Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số phương pháp hướng dẫn học sinh tự học môn địa lí 11 ở trường THPT quan hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.01 KB, 18 trang )

1. Mở đầu
1.1 . Lí do chọn đề tài
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng, nó đòi hỏi mọi người
phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Người xưa đã nhắc nhở con
cháu rằng: “Nếu còn trẻ mà chẳng chịu học hành thì khôn lớn sẽ chẳng làm việc
gì có ích” hoặc “Nhân bất học bất tri lí”. Vì vậy việc học vô cùng quan trọng đối
với mỗi con người. Bởi học để nâng cao hiểu biết, kiến thức, kĩ năng và hoàn
thiện nhân cách. Nhưng học như thế nào để đạt hiệu quả thì thiết nghĩ mỗi người
cần phải có phương pháp học. Và qua kinh nghiệm bao đời được đúc kết, người
ta nhận ra rằng tự học là phương pháp hữu hiệu nhất.
Sinh thời, Bác Hồ từng căn dặn: “...Không phải có thầy thì học, thầy
không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập...” Người cũng từng nhấn mạnh:
“không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi
mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta cần phải tiếp tục học và
hành để tiến bộ kịp nhân dân”[1]. Từ đó, ta thấy tự học có vai trò ý nghĩa rất
lớn, không chỉ trong giáo dục nhà trường mà cả trong cuộc sống.
Từ nhỏ bản thân từng là một học sinh rất thích môn Địa lí. Vì niềm yêu
thích đó, tôi đã lựa chọn nghề nghiệp của mình là một giáo viên môn Địa lí với
hy vọng sẽ thổi tình yêu đó vào các thế hệ học trò mà mình giảng dạy. Tuy
nhiên, trong điều kiện và sự phát triển của xã hội hiện nay, nhiều học sinh không
yêu thích môn học Địa lý, ngại học môn Địa lí.
Trong chương trình Địa lí 11 bậc THPT thì kiến thức địa lí về khu vực và
thế giới thường khá dài và có nhiều phần kiến thức khó, khô. Vì vậy để có được
sự yêu thích, hứng thú của học sinh đối với môn học không phải dễ. Người giáo
viên giảng dạy phải có kiến thức bộ môn, yêu trò và không ngừng học hỏi nâng
cao kiến thức chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học. Trong nhiều năm
công tác, tôi đã nỗ lực tìm kiếm, học hỏi, ứng dụng nhiều phương pháp dạy học
mới nhằm khơi dậy sự hứng thú của học sinh đối với môn học, tăng cường năng
lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả
năng sáng tạo của học sinh, thay đổi không khí tiết học. Đồng thời thực hiện chỉ
đạo đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường


phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị
quyết 29 - NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó
ưu tiên phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực của học
sinh.
Bản chất của sự học là tự học, cốt lõi của dạy học là dạy việc học, kết quả
của người học tỉ lệ thuận với năng lực tự học của người học. Trong quá trình
công tác, tôi luôn chú trong rèn luyện các phương pháp tự học cho HS. Đó
không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu của dạy học.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài "Một số phương pháp
hướng dẫn học sinh tự học môn Địa lí 11 ở trường THPT Quan Hóa" để
nghiên cứu và vận dụng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1


- Tăng cường khả năng tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, giúp học sinh
chủ động tích cực hơn trong việc tự tìm hiểu và ghi nhớ kiến thức, đặc biệt trong
thời kì học sinh nghỉ học vì dịch bệnh co vid-19.
- Rèn luyện kĩ năng làm việc độc lập, kĩ năng giao tiếp, hoạt động nhóm...
- HS thấy được lợi ích của các kiến thức Địa lí trong đời sống hàng ngày,
tạo cho các em thói quen quan sát và biết liên hệ thực tế về các đặc điểm dân số
cũng như ảnh hưởng của các vấn đề dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở Việt Nam.
- Góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học,
phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, tăng cường ứng dụng hiệu quả
công nghệ thông tin trong dạy học
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Sáng kiến đề cập đến phần địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực và
một số nước trên thế giới ở chương trình THPT.

- Nghiên cứu ở trường THPT Quan Hóa trong năm học 2019 – 2020.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Bao gồm các tư liệu và bản đồ về dân cư, xã hội, tài liệu tập huấn về
hướng dẫn học sinh tự học và theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.
1.4.2. Phương pháp lấy ý kiến
Được vận dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm lấy ý kiến của các nhà
khoa học, các nhà quản lý, các đồng nghiệp trong và ngoài tỉnh trong việc chọn
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực tự học cho học sinh,
giúp các em chủ động, tích cực hơn trong giờ học Địa lí.
1.4.3. Phương pháp so sánh địa lí
Thông qua các phương pháp truyền thống và phương pháp dạy học tích
cực theo định hướng phát triển năng lực để đưa ra kết luận về mức độ thích hợp
đối với từng đối tượng học sinh và từng bài học nghiên cứu.
1.4.4. Phương pháp khảo sát học sinh
Thông qua các tiết dạy trên lớp và các bài kiểm tra trong các năm học
trước cũng như năm học 2019 – 2020.
Khảo sát thu thập tài liệu và kết hợp với điều tra phỏng vấn nhằm bổ sung
thêm tư liệu, cứ liệu cho việc đề xuất một số phương pháp dạy học theo định
hướng phát triển năng lực tự học cho học sinh, giúp các em chủ động, tích cực
hơn trong giờ học Địa lí.[4]
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ vai trò của phương pháp dạy tự
học. Trong quá trình tự học, giáo viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến
thức mà quan trọng là phải định hướng, tổ chức cho học sinh tự khám phá ra
những kiến thức mới, qua đó giúp học sinh không chỉ nắm bắt được kiến thức
mà còn biết cách tìm ra kiến thức.
Thực tế cho thấy càng ở bậc học cao thì tự học càng được coi trọng. Tự học
được xem là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học, là cầu nối giữa học tập và

2


nghiên cứu khoa học.Vì thế muốn thành công trên bước đường học tập và
nghiên cứu thì người học phải có khả năng tự học và tự giải quyết những vấn đề
mà cuộc sống hay khoa học đặt ra [5].
Với phương châm “Nghỉ học không có nghĩa là ngừng học, không đến
trường không có nghĩa là ngừng thi” toàn ngành giáo dục luôn luôn tìm ra các
giải pháp để hoàn thành chương trình năm học một cách tốt đẹp nhất.
2.1.1. Cơ sở triết học
Theo triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình
phát triển. Mâu thuẫn trong học tập nảy sinh giữa yêu cầu nhận thức với tri thức,
kỹ năng còn hạn chế của người học.
2.1.2. Cơ sở tâm lý
Theo các nhà tâm lý học, chỉ tư duy tích cực khi có nhu cầu hoạt động, chỉ
có kết quả cao khi chủ thể ham thích tự giác và tích cực. Thực tế cho thấy nếu
học sinh chỉ học một cách thụ động, được nhồi nhét kiến thức, không có thói
quen suy nghĩ một cách sâu sắc thì kiến thức nhanh chóng bị lãng quên.
2.1.3. Cơ sở giáo dục học
Dạy học tự học nằm trong hệ thống giáo dục nó phù hợp với nguyên tắc về
tính tích cực và tự giác. Nó khêu gợi hoạt động học tập của học sinh, hướng đích
gây hứng thú cho người học.
Những kết quả nghiên cứu của giáo dục cho thấy: Sẽ đem lại kết quả giáo
dục tốt hơn nếu quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo, quá trình
giáo dục được biến thành quá trình tự giáo dục. Từ đó cho thấy tầm quan trọng
của việc dạy tự học.
2.1.4. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế giảng dạy ở trường THPT hiện nay, hầu hết các giáo viên đã
được trang bị lí luận về các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Tuy nhiên
việc thực hiện các phương pháp dạy học trong thực tế còn chưa thường xuyên và

chưa hiệu quả, phương pháp giảng dạy chưa có nhiều đổi mới. Điều này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan trong đó một trong những
nguyên nhân chủ yếu là do các em học sinh coi môn địa lí chỉ là môn phụ, học
thuộc. Phần lớn các em còn thụ động, quen với việc chờ giáo viên đọc - chép
hoặc chờ giáo viên ghi lên bảng mới chép. Các em chưa chủ động tích cực tự
chiếm lĩnh kiến thức, còn duy trì thói quen học vẹt, lười tư duy.
Thực tế hiện nay đa số học sinh ở trường THPT nói chung và học sinh lớp
11 nói riêng chưa xác định rõ động cơ học tập, chưa có kế hoạch học tập, chưa
biết cách tìm kiếm thu thập thông tin, học liệu, khả năng hợp tác trong học tập
chưa cao, chưa biết tự kiểm tra, đánh giá để xem năng lực của bản thân như thế
nào... Với lượng kiến thức ngày càng nhiều, cách học như vậy khiến nhiều học
sinh không theo kịp chương trình, rơi vào tình trạng quá tải, chán học...làm kết
quả học tập bị sa sút, không còn duy trì được “phong độ” như các lớp dưới. [6]
Trên cương vị là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, bản thân tôi luôn ý thức
phải đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau để tổ chức các giờ dạy thật sinh động, tạo hứng thú, tăng cường tính tích
cực chủ động của học sinh trong giờ học. Một trong những phương pháp bản
3


thân tôi đã và đang thực hiện đó là phương pháp hướng dẫn học sinh tự học nhằm nâng cao khả năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức cho học sinh lớp 11.
2.1.5. Một số khái niệm được sử dụng trong đề tài
Quan niệm về tự học: Hiện nay có nhiều quan niệm về tự học, ví dụ như:
- Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự
mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân
tích, tổng hợp,…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức
thuộc một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của
nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học.
- Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn
luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV và sự quản lí

trực tiếp của cơ sở giáo dục và đào tạo. Cụ thể hơn, tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và
có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả
động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan
có ý chí tiến thủ, không ngại khó, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học) để
chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình.
- Theo quan điểm dạy học tích cực, bản chất của học là tự học, nghĩa là
người học luôn là chủ thể nhận thức, tác động vào nội dung học một cách tích
cực, tự lực, chủ động và sáng tạo để đạt được mục tiêu học tập. Hay nói cách
khác, không ai học giúp cho người học được, vì thế muốn học được phải tự học.
Theo đó, quá trình hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, chủ yếu là do HS tự
thực hiện, còn môi trường học chỉ đóng vai trò trợ giúp. Việc học chỉ có hiệu
quả khi người học ý thức được việc học (có nhu cầu học tập) từ đó có động cơ, ý
chí và quyết tâm để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong học tập. Tự học là
một quá trình chủ thể nhận thức tác động một cách tích cực, tự lực, chủ động và
sáng tạo vào đối tượng học nhằm chuyển hoá chúng thành tài sản riêng, làm cho
chủ thể thay đổi và phát triển [5]
Như vậy, tự học là tự mình thực hiện việc học. Tự học không thể thiếu
trong hoạt động học, trong đó HS phải biết huy động hết khả năng trí tuệ, tình
cảm và ý chí của mình để lĩnh hội một cách sáng tạo tri thức, kĩ năng và hoàn
thiện nhân cách của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong cuộc đời của
mỗi người bao giờ cũng có hoạt động tự học, song vấn đề quan trọng là tự học ở
mức độ nào và tự học như thế nào, kết quả tự học cao hay thấp phụ thuộc vào kĩ
năng tự học của mỗi cá nhân và đặc biệt với học sinh THPT thì còn phải phụ
thuộc rất lớn đến sự hướng dẫn của GV hay học liệu, phương tiện hỗ trợ...
Sử dụng sơ đồ tư duy trong tự học
Trong việc học và đặc biệt là khi ôn tập, hệ thống hoá kiến thức, học sinh
đã được làm quen với việc kẻ bảng, biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và thường học
sinh có chung cách “ghi chép” giống GV hay người trợ giúp, hoặc mẫu trong tài

liệu, nên việc ghi nhớ thường bị động, khó khăn, khó khắc sâu, khó nhớ.
Đến nay, sơ đồ tư duy được xem là hình thức ghi chép hỗ trợ tìm tòi, đào
sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống
4


hoá một chủ đề, một hệ thống bài tập hay một mạch kiến thức, các cách giải của
một dạng bài tập,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường
nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, sơ đồ tư duy còn là một
sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe, có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi người vẽ một kiểu, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt
khác nhau. Do đó, việc lập sơ đồ tư duy còn giúp phát huy khả năng sáng tạo
của mỗi người.
Nghe hiệu quả: Biết nghe giảng đúng cách hay nghe tích cực sẽ giúp học
sinh rút ngắn thời gian học tập, làm bài tập nhanh chóng và dễ dàng hơn, tự tin,
hứng thú hơn và không ngỡ ngàng khi gặp lại các nội dung học tập, nhất là trọng
tâm bài học.
Ghi chép hiệu quả: Ghi chép không những có thể khiến tăng cường sự tập
trung mà còn là một công cụ hỗ trợ ghi nhớ. Khả năng ghi chép phụ thuộc vào
từng người và được bắt nguồn từ những kinh nghiệm có sẵn. Ghi chép còn giúp
chúng ta nguồn lưu trữ thông tin để sau này dùng lại hay ôn lại nếu cần. Song để
ghi chép được nhanh và hiệu quả nên sử dụng các thủ thuật như: dùng từ viết tắt,
dùng chữ bắt đầu của một từ; dùng các kí hiệu hoặc tạo ra những từ viết tắt riêng
cho mình; đặt tựa đề riêng cho đề mục và ghi lùi sang phải từng chi tiết liên
quan với đề mục; dùng những chấm riêng cho từng dòng và xuống dòng cho
mỗi chi tiết; chừa chỗ trống nhiều so với lề trái, khoảng 1/3 chiều ngang tờ
giấy;... Không cần ghi lại mọi thứ mà hãy tư duy, lắng nghe để hiểu và ghi được
những điều quan trọng nhất.
Đọc hiệu quả: Đọc hiệu quả là đọc một cách tập trung và kĩ lưỡng để hiểu
được chính xác những gì đọc được. Ta biết rằng một từ, một cụm từ hay một chữ,

thường có hai phần là âm và nghĩa. Đứng về mặt kĩ thuật, đọc là một quá trình kết
hợp lướt mắt qua các con chữ và nhập nghĩa của các con chữ đó vào đầu.
Ghi nhớ thông tin hiệu quả: Ghi nhớ là quá trình tiếp nhận thông tin và
lưu giữ thông tin ấy trong đầu, để sau đó có thể nhắc lại, dùng lại được. Ghi nhớ
đòi hỏi yêu cầu cao với người học. Để có thể ghi nhớ thông tin nhanh và lâu.
Liên tưởng trong tự học: Liên tưởng giúp các em phát huy tính khám phá,
tính sáng tạo bằng cách kết nối vấn đề đang học, vấn đề đang gặp phải, cần được
ghi nhớ, vấn đề chưa thật quen thuộc, chưa thật hiểu rõ, với cái mà mình đã biết.
Nhờ đó, ta sẽ dễ nhớ và dễ truy cập, sử dụng một vấn đề nào đó khi cần.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong tự học
Công nghệ thông tin không chỉ hiểu là máy tính và mạng Internet mà là tất
cả những phương tiện kĩ thuật dùng để khởi tạo, lưu trữ, chuyển tải, chia sẻ, trao
đổi thông tin. Trong giáo dục, công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối
với dạy và học, tạo ra “môi trường số” giúp giáo viên, học sinh linh động hơn
trong việc thu thập, xử lí, trao đổi, quản lí thông tin cũng như giao tiếp, cộng tác
và đánh giá hoặc liên kết nội dung bài học với những ý tưởng thực tế của cuộc
sống.
Tổ chức hoạt động nhóm hiệu quả
Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình thức
này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sáng tạo.
5


Điều quan trọng là học sinh cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi
tham gia làm việc nhóm.
2.2. Thực trạng việc tự học của học sinh ở trường THPT Quan Hóa
2.2.1. Về giáo viên
Giáo viên theo biên chế hiện tại còn thiếu tới 14 người, tuy nhiên giáo
viên được đào tạo đạt chuẩn, yêu nghề, có năng lực, nhiệt tình trong giảng dạy,
có ý thức chấp hành kỉ luật tốt và quan trọng là nắm được phương pháp giảng

dạy, quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, có ý thức
học hỏi đồng nghiệp thông qua các hoạt động dự giờ rút kinh nghiệm và các
buổi sinh hoạt nhóm chuyên môn. Đặc biệt chú trọng đến đặc trưng của bộ môn
là sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học khi lên lớp.
2.2.2. Về học sinh
Học sinh hầu hết là con em của các dân tộc thiểu số như Thái, Hmông,
Mường...nhưng các em rất chăm ngoan, hiền lành và đã được làm quen với cách
học mới, tích cực chủ động hơn trong việc phát hiện kiến thức, có ý thức tự giác
trong làm bài tập, chuẩn bị bài mới. Qua kiểm tra vở, bài tập ở nhà của học sinh
cho thấy phần lớn học sinh đã đầu tư thời gian cho việc làm bài tập, chịu khó tìm
tòi những kiến thức thực tế khi giáo viên yêu cầu.
Tuy nhiên, việc học tập của học sinh vẫn còn một số tồn tại sau:
- Trình độ nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, các em thường ngại
ngùng, ít tham gia phát biểu ý kiến, xây dựng tập thể lớp...
- Nhiều học sinh còn lười học, thiếu tính tích cực chủ động trong học tập,
đặc biệt là trong việc hoạt động nhóm.
- Một số học sinh không chịu khó làm bài tập ở nhà, thậm chí còn mượn vở
của bạn ở trong lớp và các lớp khác để chép lại một cách thụ động, đối phó với
giáo viên.
- Các bài tập giáo viên hướng dẫn làm trên lớp nhưng học sinh không tiếp
thu, làm hay chỉnh sửa, bổ sung những phần còn thiếu, sai. [6]
2.2.3. Cơ sở vật chất của nhà trường
Trường THPT Quan Hoá là ngôi trường được thành lập năm 1980 trải 40
năm thành lập nhà trường có truyền thống hiếu học và đang từng bước có các
phương tiện để phục vụ cho học tập tranh ảnh, bản đồ, sách tham khảo, ...
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu cũng như Tổ chuyên môn nên việc
phát huy phong trào dạy và học tốt ở bộ môn Địa lí nói riêng và các môn học
khác nói chung rất thuận lợi. [6]
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề
Để học sinh tự học có hiệu quả, ngoài việc tạo động cơ, hứng thú cho các

em, cũng như hướng dẫn các em lập kế hoạch học tập hay tự kiểm tra đánh giá
Đặc biệt trong năm học trải qua biết bao thăng trầm với sự bùng phát của dịch
bệnh côvid- 19 này, tôi đã sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật tự học sau:
2.3.1. Nghe hiệu quả
* Các năng lực phát triển ở học sinh: Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Nghe
hiểu và chắt lọc thông tin bổ ích từ các bài giảng, lời giải thích, thảo luận.
* Ưu, nhược điểm:
6


- Ưu điểm: Biết nghe giảng đúng cách hay nghe tích cực sẽ giúp học sinh
rút ngắn thời gian học tập, làm bài tập nhanh chóng và dễ dàng hơn, tự tin, hứng
thú hơn và không ngỡ ngàng khi gặp lại các nội dung học tập, nhất là trọng tâm
bài học.
- Nhược điểm: Nếu học sinh không chú ý, mất tập trung sẽ phá vỡ logic
của nội dung cũng như quá trình nghe giảng.
* Các biện pháp để luyện kĩ thuật nghe tích cực ở học sinh:
- Tập trung theo dõi bài giảng hay hướng dẫn học của giáo viên ngay từ lúc
bắt đầu của tiết học.
- Tập trung nghe trọn vẹn nội dung chính, những điểm quan trọng nhất mà
giáo viên thường nhấn mạnh qua ngữ điệu hay qua việc nhắc lại nhiều lần, để
hiểu vấn đề, rồi ghi chép ý chính theo cách hiểu của mình. Chú ý ghi theo dàn
bài để nhìn được khái quát cấu trúc chung của bài học, chú ý tới trọng tâm, mấu
chốt của vấn đề.
- Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ và các tài liệu trực quan khác đã giới
thiệu, vì ở thời điểm này giáo viên sẽ hệ thống hoá kiến thức, so sánh, phân tích,
nhờ đó ta có thể nắm được trình tự, tiến dần đến kết luận và rút ra cái mới.
- Nếu gặp chỗ nào khó, không hiểu, thì hãy tạm thời gác nó lại và sẽ cố
gắng tìm hiểu những điều đó sau, để quá trình nghe giảng không bị gián đoạn.
- Nghe giảng với thái độ độc lập và có phê phán; ghi chép hoặc thắc mắc

những chỗ còn hoài nghi hoặc chưa hiểu để hỏi bạn và thầy. Trong hoặc cuối tiết
học, có thể nêu câu hỏi với GV để làm rõ những chỗ chưa hiểu, khắc sâu kiến
thức...
- Nghe giảng đồng thời phải tư duy tích cực, khẩn trương: Liên hệ những kiến
thức đang nghe với kiến thức đã học và trong thực tế để tìm ra mối liên hệ.
Lưu ý:
- Đối với học sinh: luôn phải đọc bài mới trước khi đến lớp. Nhờ đó, biết
được những vấn đề khó để nhắc mình chăm chú hơn khi nghe giảng.
- Đối với giáo viên:
+ Cần giảng bài truyền cảm để thu hút học sinh.
+ Quan sát thường xuyên quá trình nghe giảng của học sinh.
+ Xây dựng kế hoạch bài giảng cụ thể, chắt lọc thông tin để tránh dàn trải,
không phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
2.3.2. Ghi chép hiệu quả
* Các năng lực phát triển ở học sinh
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: viết đúng các dạng văn bản với cấu trúc hợp
lí, logic, đúng chính tả, rõ câu, rõ ý.
- Năng lực sáng tạo: Xem xét sự vật dưới nhiều góc độ khác nhau, hình
thành và kết nối các ý tưởng.
* Ưu, nhược điểm.
- Ưu điểm: Ghi chép không những có thể khiến tăng cường sự tập trung mà
còn là một công cụ hỗ trợ ghi nhớ. Ghi chép còn giúp chúng ta nguồn lưu trữ
thông tin để sau này dùng lại hay ôn lại nếu cần.
7


- Nhược điểm: Khả năng ghi chép phụ thuộc vào từng người và được bắt
nguồn từ những kinh nghiệm có sẵn. Nhiều học sinh chỉ chăm chú ghi chép mà
không chú ý đến việc nghe giảng. học sinh dù có ghi chép cẩn thận mà không
xem lại thì cũng dễ bị lãng quên kiến thức.

* Biện pháp ghi chép hiệu quả.
Song để ghi chép được nhanh và hiệu quả nên sử dụng các thủ thuật như:
dùng từ viết tắt, dùng chữ bắt đầu của một từ; dùng các kí hiệu hoặc tạo ra
những từ viết tắt riêng cho mình; đặt tựa đề riêng cho đề mục và ghi lùi sang
phải từng chi tiết liên quan với đề mục; dùng những chấm riêng cho từng dòng
và xuống dòng cho mỗi chi tiết; chừa chỗ trống nhiều so với lề trái, khoảng 1/3
chiều ngang tờ giấy. Không cần ghi lại mọi thứ mà hãy tư duy, lắng nghe để hiểu
và ghi được những điều quan trọng nhất. Lưu ý:
- Cần kết hợp giữa việc vừa nghe giảng vừa ghi chép. Ghi chép bài giảng
theo ý hiểu của mình, có thể dùng các ký hiệu hoặc chữ viết tắt để tiết kiệm thời
gian ghi chép dành thời gian cho việc nghe giảng.
- Ghi nhanh thuật ngữ hay khái niệm, vấn đề mới lạ vào giấy, vở hay sổ tay.
- Trước tiết kiểm tra, viết lại những gì đã ghi chép sẽ giúp em nhớ được các
chi tiết quan trọng và dễ dàng truy cập khi cần.
- Tất cả những gì ghi chép được cần sắp xếp theo từng mục, theo nhu cầu
và cách riêng của mình.
- Nếu có máy tính thì nên sắp xếp dữ liệu theo thư mục các tập tin, khi đó,
việc tìm kiếm sửa đổi thật là đơn giản.
- Chú ý viết lại những vấn đề quan trọng khi nghe người khác hay khi đọc
tài liệu, nhờ đó sẽ hiểu sâu, hiểu liền mạch nội dung nghe được, tránh được tình
trạng học vẹt.
2.3.3. Đọc hiệu quả
Đới với môn học Địa lí, đọc hiệu quả không chỉ dừng lại ở việc đọc các văn
bản, tài liệu, nội dung SGK mà cần rèn luyện cho học sinh các kĩ năng khác như:
đọc bản đồ, lược đồ, sơ đồ, nhận xét bảng số liệu.
* Các năng lực phát triển ở học sinh:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Đọc và lựa chọn được các thông tin quan
trọng từ các văn bản, tài liệu.
- Năng lực giải quyết vấn đề: Phát hiện, phân tích các tình huống có vấn đề;
đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn đề.

- Năng lực sử dụng bản đồ, lược đồ: Mô tả, so sánh, giải thích được sự phân
bố hoặc mối quan hệ của các yếu tố tự nhiên hoặc kinh tế-xã hội trên bản đồ,
lược đồ.
- Năng lực sử dụng số liệu thống kê; sử dụng hình vẽ, tranh ảnh địa lí, mô
hình, video: Nhận biết, phân tích, so sánh, giải thích các yếu tố tự nhiên và kinh
tế - xã hội.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm:
8


+ Đọc hiệu quả là đọc một cách tập trung và kĩ lưỡng để hiểu được chính
xác những gì đọc được, giúp ta trả lời được những câu hỏi đã đặt ra.
+ Đồ dùng trực quan (bản đồ, lược đồ, sơ đồ…) là phương tiện mang lại
hiệu quả cao để hình thành khái niệm, có vai trò to lớn giúp học sinh nhớ kĩ
những hình ảnh và khắc sâu kiến thức.
- Nhược điểm: Đòi hỏi về thời gian cho việc đọc, trình bày kết quả, đánh
giá chéo. Nếu được thực hiện kém, nó thường mang lại kết quả ngược lại.
* Biện pháp đọc hiệu quả.
- Khi đọc cần ghi chép các ý chính, các chi tiết quan trọng.
- Một số điều nên làm khi đọc hiểu:
+ Trau dồi vốn từ: Nên hiểu rõ các sắc thái nghĩa của từ, chú ý cách dùng từ
của người khác và biết lựa chọn, sử dụng từ, ngữ một cách chính xác, uyển
chuyển và cẩn trọng trong viết và nói.
+ Khi đọc các sách có tính chuyên sâu hay mang tính học thuật thì trước
hết phải hiểu đúng các khái niệm đồng thời biết trân trọng cách dùng từng từ của
người viết để ý thức đầy đủ về tính chính xác của từ ngữ.
+ Khi gặp một khái niệm mới thì đừng bỏ qua mà cần tìm hiểu kĩ nội hàm
của khái niệm này.
+ Sau khi đọc, nên hình thành thói quen liên tưởng, tìm nghĩa và bắt lấy

dụng ý của người viết thật nhanh.
+ Đọc kĩ khái niệm và những từ cần xem xét nghĩa của nó trong tổng thể.
+ Đối với môn địa lí, ngoài các văn bản, nội dung SGK; giáo viên cần
hướng dẫn học sinh kĩ năng đọc hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa như
các bảng số liệu, sơ đồ, hình ảnh. Nó không chỉ là nguồn kiến thức mà còn có
khả năng phát triển tư duy, rèn luyện các kĩ năng đặc thù của bộ môn. Từ việc
quan sát thực tế học sinh sẽ phải tư duy trừu tượng, tuy nhiên để học sinh tìm
ra được kiến thức từ những kênh hình này thì phải có định hướng của giáo viên
vì bản thân tranh ảnh không thể tạo ra sự quan sát tích cực từ học sinh nếu như
nó không được quan sát trong những tình huống “có vấn đề”. Từ việc quan sát,
học sinh sẽ phải phân tích, giải thích và rút ra những kết luận Địa lí.
Ví dụ 1: Trong bài 7. Liên minh châu Âu EU, tiết 1. EU- liên minh khu vực
lớn nhất, giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào hình 11.3 phân tích ba trụ cột
của Liên minh châu Âu, từ đó học sinh trình bày được mục đích của EU.
Ví dụ 2: Trong bài 4: Thực hành: Tìm hiểu các cơ hội và thách thức của
toàn cầu hóa đối với các nước đang phát triển, giáo viên hướng dẫn học sinh
đọc các nội dung SGK, gạch chân những cơ hội và thách thức, từ đó nắm được
các tác động của xu hướng toàn cầu hóa đến nền kinh tế - xã hội các nước đang
phát triển để viết báo cáo.
Ví dụ 3: Khi học sinh nghiên cứu bài 5, tiết 1: Một số vấn đề của châu Phi,
giáo viên cung cấp thêm thông tin như sau:
“Liên hợp quốc hôm 20/7/2011 đã tuyên bố nạn đói ở nhiều khu vực nam
Sômali. Đây là lần đầu tiên từ “nạn đói” chính thức được dùng, kể từ khi gần
10 triệu người chết đói ở Êtiôpia năm 1984. “Nạn đói” được xác định khi tỉ lệ
9


tử vong là hơn 2/10.000 người/ngày và tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi chết chiếm trên
30% trong một khu vực”.
HS dựa vào nội dung SGK, thông tin bổ sung để trả lời các câu hỏi của

giáo: Thông tin trên cho thấy tình trạng gì ở châu Phi ? Em hãy đề xuất một số
biện pháp để khắc phục tình trạng này ở châu Phi.
2.3.4. Ghi nhớ thông tin
* Năng lực phát triển ở học sinh :
- Năng lực tự quản lí: Bước đầu biết làm việc độc lập theo thời gian biểu,
làm chủ được các cảm xúc của bản thân trong học tập và đời sống.
- Năng lực giải quyết vấn đề: Thu thập và làm rõ các thông tin có liên quan
đến vấn đề.
- Năng lực tư duy tổng hợp theo lãnh thổ:
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm: ghi nhớ vừa giúp nhớ kiến thức, vừa tăng cường tính chủ động,
tích cực trong học tập.
- Nhược điểm: Ghi nhớ đòi hỏi yêu cầu cao với người học, nhất là sựu tự ý
thức. Vì thế, giáo viên khó kiểm soát được việc thực hiện của học sinh.
* Các biện pháp ghi nhớ thông tin hiệu quả.
Ghi nhớ là quá trình tiếp nhận thông tin và lưu giữ thông tin ấy trong đầu,
để sau đó có thể nhắc lại, dùng lại được. Để có thể ghi nhớ thông tin nhanh và
lâu, cần lưu ý các bước sau:
- Đọc đi đọc lại: Đọc lại những gì đã ghi chép sau buổi học sẽ giúp nhớ bài
tốt hơn. Có thể đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác nhau
và đọc theo đúng mục tiêu đó.
- Nắm ý chính: Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo cách
của mình là điều cốt lõi của việc đọc có hiệu quả.
- Trích lược những chi tiết quan trọng: Mỗi ý chính trong một bài đều có
liên quan đến một chi tiết quan trọng, vì thế, nếu càng nhớ và dẫn được càng
nhiều chi tiết quan trọng hay các liên hệ giữa các chi tiết và các ý, hoặc giữa các
ý với nhau, thì càng liên hệ được các ý tưởng với kiến thức nền tảng. Nhờ đó, ta
dễ dàng huy động, sử dụng khi cần.
- Ghi thành dàn bài: bằng cách chia nội dung bài thành các phần chính, có
bố cục rõ ràng.

- Nhẩm trong óc: Là cách hệ thống lại và ôn từng phần của bài, chỗ nào
quên thì dừng lại và lật bài đã có ra xem. Tiếp đó nhẩm sang phần khác, chú ý
các phần quan trọng cần ghi nhớ. Sau đó, tìm những nội dung còn sót để học lại
cho thuộc và đặt thành câu hỏi rồi tự giải quyết câu hỏi ấy.
- Ghi ra giấy: Có thể ghi riêng ra giấy những thuật ngữ hay những khái
niệm mới, sau đó đóng hay cất những tờ giấy này vào nơi dễ nhìn thấy, có thể
mở ra xem để ghi nhớ. Khi ghi chỉ nên tóm tắt phần quan trọng, chính yếu nhất,
tránh ghi rườm rà.
- Hỏi và tự trả lời: Tự đặt cho mình những câu hỏi và trả lời các câu hỏi để
ghi nhớ được các thông tin cần tìm hiểu. Các loại câu hỏi như: Cái gì? Ở đâu?
10


Khi nào? Tại sao? Như thế nào?. Cách này vừa giúp ta nhớ kiến thức, vừa tăng
cường tính chủ động, tích cực trong học tập.
2.3.5. Liên tưởng trong tự học
* Các năng lực phát triển ở học sinh:
- Năng lực giải quyết vấn đề: Thực hiện và đánh giá giải pháp vấn đề, suy
ngẫm và vận dụng trong bối cảnh mới.
- Năng lực sáng tạo: Áp dụng những điều đã biết trong bối cảnh mới, nêu
được nhiều ý tưởng mới trong học tập, tạo ra yếu tố mới trên các ý tưởng khác
nhau.
- Năng lực tư duy tổng hợp theo lãnh thổ: phân tích được mối quan hệ giữa
các thành phần tự nhiên và các hiện tượng kinh tế - xã hội.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm: Liên tưởng giúp các em phát huy tính khám phá, tính sáng tạo
bằng cách kết nối một vấn đề đang học, một vấn đề đang gặp phải, cần được ghi
nhớ, một vấn đề chưa thật quen thuộc, chưa thật hiểu rõ, với cái mà mình đã
biết. Nhờ đó, ta sẽ dễ nhớ và dễ truy cập, sử dụng một vấn đề nào đó khi cần.
- Nhược điểm: Mỗi liên tưởng là một kết nối các nội dung cần ghi nhớ. Vì

thế, học sinh cần phải thực hiện một cách thường xuyên mới mang lại hiệu quả
mong muốn.
* Các biện pháp thực hiện hiệu quả:
- Xem xét lại các luật liên tưởng: đặc trưng, tương phản, gần nhau, quan hệ,
lặp lại….
- Thường xuyên rèn luyện bằng cách: khéo léo kết nối các nội dung cần ghi
nhớ với những sự vật, hiện tượng đa dạng, phong phú xung quanh.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh nghiên cứu mục I. Một số vấn đề tự nhiên
trong Bài 5, tiết 2. Một số vấn đề của châu Phi, giáo viên có thể gợi mở: “Tại
sao được bao bọc bởi các biển, đại dương nhưng châu Phi lại có khí hậu khô
nóng với nhiều hoang mạc rộng lớn?” Để trả lời được câu hỏi này, học sinh phải
liện hệ nội dung SGK, hình 5.1, kiến thức Địa lí 7, các nhân tố ảnh hưởng tới
lượng mưa trong địa lí 10.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh nghiên cứu mục I.1 về vị trí địa lí trong bài
6. Hợp chúng quốc Hoa Kì, tiết 1. Tự nhiên, dân cư và xã hội, giáo viên hỏi “Vị
trí địa lí ý nghĩa có ý nghĩa như thế nào đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
Hoa Kì?” học sinh sẽ móc nối kiến thức với những điều đã học, kinh nghiệm
bản thân (Hoa Kì gần Mĩ Latinh là khu vực giàu tài nguyên, cách xa châu Á và
châu Âu bởi 2 đại dương lớn, đường bở biển dài…) để tìm ra câu trả lời.
2.3.6. Sử dụng công nghệ thông tin và các ứng dụng trên điện thoại
thông minh.
Công nghệ thông tin không chỉ hiểu là máy tính và mạng Internet mà là tất
cả những phương tiện kĩ thuật dùng để khởi tạo, lưu trữ, chuyển tải, chia sẻ, trao
đổi thông tin.
* Các năng lực phát triển ở học sinh:
11


- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông: Học sinh biết cách
lựa chọn và sử dụng các thiết bị ICT hoàn thành các nhiệm vụ cụ thể, sử dụng

mạng Internet để tìm kiếm thông tin, thảo luận nhóm và chia sẻ sản phẩm.
- Năng lực sáng tạo: Say mê, nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập,
không suy nghĩ theo lối mòn.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: học sinh thuyết minh về sản phẩm học tập
của mình.
- Năng lực hợp tác: học sinh thảo luận, chuẩn sửa, bổ sung để hoàn thiện
nội dung bài học.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm: Trong giáo dục, công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối
với dạy và học, tạo ra “môi trường số” giúp giáo viên, học sinh linh động hơn
trong việc thu thập, xử lí, trao đổi, quản lí thông tin cũng như giao tiếp, cộng tác
và đánh giá hoặc liên kết nội dung bài học với những ý tưởng thực tế của cuộc
sống.
- Nhược điểm: Có nhiều học sinh hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chưa có
máy tính, kết nối mạng.
* Các biện pháp thực hiện hiệu quả:
- Hướng dẫn học sinh ứng dụng công nghệ thông tin trong tìm kiếm thông tin:
Ở Việt Nam, có một số trang web mà học sinh trung học nên tham khảo để
tìm kiếm thông tin như: http//google.com.vn, youtube.com, hocmai.vn,
viettelstudy.vn, tuyensinh247.com, kienthuc.com, violet.vn, …
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lí thông tin:
+ HS đọc lướt, đọc kĩ tài liệu.
+ Đánh dấu hoặc ghi chép lại những thông tin quan trọng.
+ Lựa chọn, chắt lọc thông tin cần thiết và sao lưu trong các địa chỉ, trang
web.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong trao đổi thông tin:
+ HS có thể tương tác với giáo viên qua: email, chat, viber, zalo, skype,
webcam, facebook, các trang web tự tạo, đặc biệt trong thời gian dịch bệnh vừa
qua đã sử dụng rất nhiều phần mền Meet, Vn edu teacher ….đã thu hút rất nhiều
học sinh tự học.

+ Tương tác học sinh – học sinh qua các diễn đàn, nhóm học tập lập trên
facebook, zalo, Google Drive, googlegroup,…
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá kết quả tự học:
+ Học sinh tham gia làm bài tập, bài kiểm tra, bài thi,… sau mỗi bài học,
chủ đề học có thể tham khảo ở một số trang web như: tuyensinh247.com,
moon.vn, hocmai.vn.
+ Học sinh đối chiếu với đáp án để tự đánh giá.
- Ứng dụng công nghệ thông tin khi giảng dạy trên lớp:
Chương trình Địa lí lớp 11 là những vấn đề về tự nhiên, kinh tế xã hội các
nước, các khu vực và thế giới, nội dung các bài học thường khá dài với nhiều
khái niệm, thuật ngữ chuyên ngành khô khan, khó hiểu. Để truyền tải đến học
sinh một cách sinh động, giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và có thể tự tìm ra kiến
12


thức thì phương tiện dạy học tốt nhất là giáo viên nên tăng cường việc sử dụng
công nghệ thông tin trong dạy học. Việc soạn thảo kế hoạch dạy học bằng các
phần mềm như Powerpoint hay sử sụng các video clip giúp học sinh hứng thú
hơn, chủ động hơn trong tìm hiểu kiến thức.
* Một số lưu ý với giáo viên khi sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học:
- Lựa chọn hình ảnh, video clip phù hợp với nội dung bài học.
- Các thông tin sử dụng cần chính xác, khoa học, mang tính giáo dục.
- Chất lượng hình ảnh, video clip phải rõ ràng, logic, phù hợp với nội dung
bài học.
- Thời lượng các đoạn video clip vừa đủ, không quá dài tránh làm ảnh
hưởng đến thời gian học các phần khác.
- Giáo viên cần đặt câu hỏi gợi mở hoặc đưa ra những tình huống có vấn đề
để kích thích sự tò mò của học sinh.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 7, tiết 2. EU - Liên kết, hợp tác để cùng phát triển [2],
giáo viên hướng dẫn học sinh theo dõi 1 đoạn video về Đường hầm dưới biển

Măng-sơ và điền các nội dung theo phiếu học tập.
2.3.7. Tổ chức hoạt động nhóm
* Các năng lực phát triển ở học sinh:
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Học sinh thuyết minh, trả lời các câu hỏi về
sản phẩm của nhóm mình; biết cách nhận xét, đánh giá, đặt câu hỏi có vấn đề
cho nhóm khác.
- Năng lực hợp tác: Học sinh thảo luận, chỉnh sửa, bổ sung để hoàn thiện sơ
đồ nội dung bài học. Học sinh được luyện các kĩ năng cộng tác làm việc như
tinh thần đồng đội, đoàn kết.
- Năng lực giải quyết vấn đề: Học sinh biết đặt câu hỏi và giải quyết các
tình huống có vấn đề nảy sinh.
- Năng lực sáng tạo: Học sinh phát hiện và vận dụng được các ý tưởng mới.
- Các năng lực chuyên biệt của môn Địa lí: Học sinh cần có các năng lực
này để cùng thảo luận để tìm ra kiến thức mới.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm: Phát triển tính tự lực, sáng tạo cũng như năng lực xã hội. Nếu
dạy học được tổ chức tốt sẽ thực hiện được những chức năng và công dụng khác
với dạy học toàn lớp. Do đó, dạy học theo nhóm góp phần bổ sung cho dạy học
toàn nhóm.
- Nhược điểm: đòi hỏi thời gian nhiều, các nhóm sẽ xảy ra hỗn loạn nếu
chưa được luyện tập, gây ồn, một số học sinh thụ động.
* Các biện pháp thực hiện hiệu quả:
- Nhập đề và giao nhiệm vụ: giáo viên giới thiệu chủ đề và các chỉ dẫn cần
thiết. GV cần xác định và giải thích nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm, xác định cụ
thể mục tiêu cần đạt được. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau hoặc khác
nhau.
- Thành lập nhóm: Có rất nhiều phương án để lập nhóm khác nhau như
phân chia các nhóm ngẫu nhiên, các nhóm cố định trong một thời gian dài, các
nhóm có học sinh ngồi gần nhau, các nhóm có các đặc điểm chung (có ngày sinh
13



theo mùa, có cùng sở thích…). Tùy theo mục tiêu dạy học, giáo viên quyết định
việc thành lập nhóm.
- Làm việc nhóm:
+ Chuẩn bị: sắp xếp bàn ghế phù hợp, sao cho học sinh có thể ngồi đối diện
nhau trong quá trình thảo luận.
+ Lập kế hoạch làm việc: chuẩn bị tài liệu học tập, đọc tài liệu, phân công
công việc trong nhóm, mỗi thành viên đều có trách nhiệm làm việc.
+ Chuẩn bị nội dung trình bày, cách trình bày, cử đại diện trình bày.
- Trình bày và đánh giá kết quả:
+ Đại diện các nhóm trình bày trước lớp, có thể trình bày bằng miệng hoặc
văn bản kèm theo.
+ Kết quả trình bày được các nhóm đánh giá và rút ra những kết luận theo
nội dung.
+ Giáo viên áp dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong thảo luận nhóm
như: kĩ thuật khăn trải bàn, mảnh ghép, bể cá.
Lưu ý:
- Giáo viên phải nắm vững phương pháp thực hiện, có năng lực lập kế
hoạch và tổ chức thực hiện.
- Không nên để nhóm quá đông hoặc quá ít, tầm 4 - 6 học sinh là phù hợp.
- Giáo viên cần quan sát để theo dõi các cá nhân hoạt động, hỗ trợ học sinh
khi cần thiết. [5]
Ví dụ: Khi dạy bài 6, tiết 1: Gv chia lớp thành 6 nhóm nhỏ và tìm hiểu các
nội dung theo phiếu học tập[3]
+ Nhóm 1 và 4: Tìm hiểu vùng phía Tây.
+ Nhóm 2 và 5: Tìm hiểu vùng phía Đông.
+ Nhóm 3 và 6: Tìm hiểu vùng Trung tâm.
Các nhóm thảo luận theo kĩ thuật “khăn trải bàn” được biến thể. Mỗi cá
nhân hoàn thành nội dung vào phiếu học tập rồi dán vào các ô nhỏ trên giấy Ao;

nhóm trưởng điều hành lấy ý kiến chung và thư kí ghi vào ô lớn.
Đại diện 3 nhóm tương ứng 3 nội dung trình bày. Các nhóm khác bổ sung,
đánh giá chéo. GV nhận xét và chuẩn kiến thức.
2.3.8. Hướng dẫn học sinh học trên truyền hình
Để đảm bảo chất lượng dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
học sinh Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra các yêu cầu theo đó nhà trường đã thông
báo thời khóa biểu theo lịch phát sóng trên truyền hình cho phụ huynh, học sinh
để phối hợp tổ chức cho các em học tập. Sau đó sẽ đánh giá, công nhận kết quả
học tập cho học sinh.
2.3.9. Sử dụng sơ đồ tư duy
* Năng lực phát triển ở học sinh :
- Năng lực sáng tạo: Say mê, nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập,
không suy nghĩ theo lối mòn.
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông: Thiết kế sơ đồ tư
duy trên máy tính, chia sẻ, trao đổi thông tin với bạn bè.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: học sinh thuyết minh về sơ đồ tư duy đã vẽ.
14


- Năng lực hợp tác: học sinh thảo luận, chuẩn sửa, bổ sung để hoàn thiện sơ
đồ nội dung bài học.
* Ưu, nhược điểm:
- Ưu điểm:
+ Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe, có
thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu, dùng màu sắc, hình
ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau. Do đó, việc lập sơ đồ tư duy còn giúp phát
huy khả năng sáng tạo của mỗi học sinh.
+ Việc lập sơ đồ tư duy đòi hỏi quá trình tư duy tích cực, học sinh trở thành
“tác giả” kiến thức và làm chủ “tác phẩm” kiến thức hội hoạ. Qua đó góp phần
bồi dưỡng năng lực tự học, tập nghiên cứu cho học sinh .

- Nhược điểm: học sinh phải nắm chắc và toàn diện nội dung bài học để
đưa ra bố cục, hình thức biểu hiện phù hợp.
* Các biện pháp thực hiện.
- Bước 1. Bắt đầu ý chính của chủ đề và diễn đạt chủ đề bằng một kí hiệu,
hình vẽ, cụm từ... vẽ ở chính giữa trang giấy (gọi là trung tâm). Kênh chữ trên sơ
đồ tư duy được viết ngắn gọn, dưới dạng từ khoá, khi học sinh thuyết minh thì
mới diễn đạt đầy đủ.
- Bước 2. Vẽ các nhánh, bắt đầu là nhánh cấp 1, xuất phát từ trung tâm, đó
là các nội dung chính của chủ đề (tên các mục)
- Bước 3. Vẽ nhánh cấp 2, 3,... và hoàn thiện sơ đồ tư duy.
+ Vẽ các nhánh cấp 2 xuất phát từ nhánh cấp 1, ghi kiến thức trên các
nhánh đó, vẽ thêm hình ảnh liên tưởng theo cách của mình.
+ Tiếp tục quá trình trên, các nhánh con cấp 3, 4,… của nhánh con trước đó
(hay nói rõ hơn, nhánh con cấp 3, 4,… là các ý triển khai của các ý trước đó).
Lưu ý: Các đường nhánh có thể là đường thẳng hoặc các nhánh đường
cong, tuy nhiên, theo một số kết quả nghiên cứu cho thấy các nhánh đường cong
phù hợp với nếp nhăn của não và làm cho mắt dễ chịu hơn.
- Bước 4. Báo cáo hay thuyết minh về sơ đồ tư duy đã vẽ.
Đại diện của nhóm báo cáo (thuyết minh hay trình bày) về sơ đồ đã thiết
lập. Hoạt động này vừa giúp giáo viên biết rõ việc hiểu kiến thức của các em
vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người.
- Bước 5. Chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy.
+ Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để dần hoàn thiện sơ
đồ về nội dung của bài học. Giáo viên là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
+ Khi học sinh đã biết cách lập sơ đồ tư duy, giáo viên có thể hướng dẫn các
em cách “ghi” bài theo cách sử dụng sơ đồ tư duy. Hướng dẫn học sinh ghi theo
cách hiểu của các em, tóm lược các ý chính trong SGK, ghi các nội dung mà
giáo viên mở rộng, bổ sung vào bài giảng hay các nội dung tham khảo thêm…
+ Khi học sinh đã thành thạo việc lập sơ đồ tư duy, sử dụng được sơ đồ tư

duy trên lớp, giáo viên hướng dẫn các em dùng sơ đồ tư duy trong việc tự học ở
nhà, khi ôn bài hay hệ thống kiến thức của một chủ đề, một chương. Học sinh
có thể dùng một cuốn vở để lập các sơ đồ tư duy, hoặc vẽ rời trên giấy A4 rồi
15


xếp thành một tập, cho vào túi để sau này ôn lại bài. Với cách này, hi vọng các
em sẽ ôn tập nhanh và hiệu quả.
+ Học sinh có thể lập sơ đồ tư duy để chuẩn bị bài mới, các em có thể đọc
trước SGK, vẽ theo cách hiểu của mình, khi đến lớp sẽ bổ sung thêm các thông
tin, các nội dung khác bằng cách vẽ thêm nhánh.
Ví dụ: Vẽ sơ đồ tư duy bài 1:

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian áp dụng cho các lớp 11 ở năm học này, tôi nhận thấy đây
là một số phương pháp có nhiều tính ưu việt, điều đó được thể hiện qua thái độ,
không khí sôi nổi trong các giờ học trên lớp của học sinh, kết quả kiểm tra bài
cũ và kết quả các bài kiểm tra của năm học này so với năm học trước đặc biệt
khi kết quả học tập năm học này khác những năm trước.
2.4.1. Về thực hiện các nhiệm vụ học tập ở nhà
Đa số học sinh chuẩn bị bài khá- tốt trước khi đến lớp, hoàn thành các bài
tập, bài thực hành được giao (Đôi khi một số em chưa chuẩn bị bài chưa tốt do
những nguyên nhân khách quan hay chủ quan nhưng khi được gợi ý, các em vẫn
có thể trả lời đúng những nội dung trọng tâm của bài học trước).
2.4.2. Về chuẩn bị bài mới và tinh thần thái độ học tập
Sau khi học xong bài mới, cuối mỗi tiết học giáo viên định hướng và nhắc
học sinh học bài, đọc – soạn bài cho tiết sau. Đối với những nội dung có sử
dụng hình thức thảo luận nhóm hoặc thuyết trình thì phân công nhiệm vụ cho
các nhóm thật cụ thể, hướng dẫn học sinh tìm hiểu trước từ các học liệu. Kết
quả là ở tiết học sau hầu hết các em đã nắm trước một số nội dung trọng tâm của

bài học, có tinh thần hăng say, hứng thú tham gia phát biểu xây dựng bài thậm
chí đặt thêm các câu hỏi khác có liên quan đến nội dung bài học.
2.4.3. Về kết quả học tập
So sánh chất lượng điểm số của một số lớp 11 tôi được phân công giảng
dạy (tính điểm tổng kết), kết quả cụ thể như sau:
- Lớp thực nghiệm: 11A1 và 11A5 so với 10A1 và 10A5 năm học trước:
> = 8.0
6.5-7.9
5.0-6.4
< 5.0
Lớp
Sĩ số
SL TL % SL TL % SL TL % SL TL%
10A1
41
5 12.2 20 48.8 13 31,7 3
7,3
16


10A5
38
2 2,7
10 26.3 22 57,9 5
13,1
Kết quả sau khi kết thúc năm học 2019-2020.
> = 8.0
6.5-7.9
5.0-6.4
< 5.0

Lớp
Sĩ số
SL TL % SL TL % SL TL % SL TL%
11A1
41
15 36.5 16 39.0 10 24.4 0
0
11A5
38
10 26.4 21 55.2 7 18.4 0
0
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Trong vấn đề giáo dục nói chung và việc học nói riêng, tự học có một vai
trò hết sức quan trọng. Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và
ghi nhớ bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài
liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những
nhiệm vụ học tập mới. Đồng thời, tự học giúp người học hình thành được tính
tích cực, độc lập tự giác trong học tập, không những thế tự học còn giúp con
người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người
khác. Tuy nhiên hình thành thói quen tự học là cả một quá trính lâu dài, nó đòi
hỏi người học phải có sự quyết tâm, tính kiên trì, nhẫn nại. Ngoài ra để khả năng
tự học của học sinh đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần khéo léo, linh hoạt khi
sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học, tận tâm, gần gũi và theo sát quá
trình học tập của các em.
Bên cạnh những kết quả đạt được, đề tài vẫn còn những tồn tại nhất định:
- Phạm vi nghiên cứu còn hạn chế, chỉ nghiên cứu ở đối tượng học sinh lớp
11, trường THPT Quan Hoá.
- Thời gian áp dụng của giải pháp chưa dài.
- Tính định lượng trong các phân tích, đánh giá chưa cao, nguồn số liệu

chưa chi tiết, đầy đủ về quá trình điều tra, khảo sát.
- Do nhiều hạn chế khách quan, nên việc khảo sát thực tế chỉ được thực
hiện ở một số lớp.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với giáo viên
- Tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường
khả năng tự học cho học sinh, từ khâu lập kế hoạch dạy học, thực hiện các khâu
lên lớp đến khâu kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
- Tăng cường sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học; việc phân
tích, rút kinh nghiệm bài học được thực hiện theo các tiêu chí tại Công văn
5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014.
- Lựa chọn nội dung từ các bài học trong sách giáo khoa hiện hành của một
môn học hoặc các môn học có liên quan để xây dựng nội dung bài học.
- Xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành;
dự kiến các hoạt động học sẽ tổ chức cho học sinh để xác định các năng lực và
phẩm chất chủ yếu có thể góp phần hình thành, phát triển trong bài học.
17


- Xác định và mô tả mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận
dụng cao) của mỗi loại câu hỏi, bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá
năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học.
- Biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả ở 4
bước để sử dụng trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học và kiểm tra,
đánh giá, luyện tập theo chủ đề bài học.
- Thiết kế tiến trình dạy học bài học thành các hoạt động học theo tiến trình
sư phạm của phương pháp dạy học tích cực để tổ chức cho học sinh thực hiện ở
trên lớp và ở nhà.
- Tăng cường hoạt động dự giờ thăm lớp, học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè,
đồng nghiệp.

- Sử dụng triệt để, có hiệu quả các đồ dùng dạy học, tăng cường sử dụng
công nghệ thông tin trong dạy học.
- Cung cấp cho học sinh các tài liệu, địa chỉ các trang Web thông dụng giúp
các em thuận tiện trong tìm kiếm thông tin.
3.2.2. Đối với các cấp quản lý
Cần quan tâm, kiểm tra giám sát việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học của các giáo viên. Trang bị thêm cơ sở vật chất kĩ thuật, đồ dùng dạy học,
nâng cao chất lượng phòng bộ môn (hệ thống máy vi tính, mạng Internet, máy
chiếu...) để giáo viên sử dụng trong các tiết học.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng và rút ra từ thực tế giảng dạy.
Trong quá trình thực hiện, do thời gian và khuôn khổ của đề tài nên không tránh khỏi
những hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của bạn bè, đồng nghiệp để
xây dựng các phương pháp dạy học bộ môn ngày càng hiệu quả hơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của
người khác.

Phạm Xuân Thành

18



×