Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy và khăn trải bàn để nâng cao hiệu quả ôn thi TNTHPT môn địa lí cho học sinh lớp 12 ở trường THPT nga sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.12 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG KỸ THUẬT “SƠ ĐỒ TƯ DUY’’
VÀ ‘’KHĂN TRẢI BÀN’’ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÔN THI
TỐT NGHIỆP THPT MÔN ĐỊA LÍ CHO HỌC SINH LỚP 12
Ở TRƯỜNG THPT NGA SƠN

Họ và tên : Mai Thị Nữ
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc môn: Địa lí

THANH HÓA NĂM 2020


MỤC LỤC
Nội dung
Mục lục
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
1.3. Đối tượng nghiên cứu đề tài.
1.4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN.
2.3. Giải pháp pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của SKKN


3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo chính.
Phụ lục

Trang
1
1
1
2
2
3
3
3
4
16
17
17
17


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay, hay kỳ thi THPT Quốc gia các năm trước
là kỳ thi quan trọng nhất của học sinh khối 12, vì để xét cả tốt nghiệp và đại học,
nên việc dạy học và ôn thi để các em đạt được kết quả cao cũng là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của giáo viên. Với hình thức thi trắc nghiệm, nó khác rất
nhiều so với thi tự luận. Thi tự luận chỉ với 4-5 câu hỏi, giới hạn trong một số
nội dung nhất định, thuộc một số phần nào đó; còn thi trắc nghiệm ngược lại. Nó

có phổ kiến thức rộng lớn, toàn diện, nằm ở toàn bộ chương trình sách giáo
khoa; với môn địa lí còn phong phú đa dạng hơn do có cả các kỹ năng về biểu
đồ và átlat…với nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Muốn làm tốt bài thi trắc
nghiệm, học sinh cần phải nắm vững kiến thức một cách hệ thống, đầy đủ, tuyệt
đối không thể học “tủ” như thi tự luận. Do vậy việc giúp học sinh học tập và ôn
luyện để đáp ứng được yêu cầu của thi trắc nghiệm cần phải có những biện pháp
thật tích cực mới có thể đạt được điều đó.
Những năm học trước kết quả thi THPT Quốc gia môn địa lí ở trường
THPT Nga Sơn so với nhiều môn xét đại học khác có phần khả quan hơn, song
số học sinh có điểm dưới 5 vẫn còn nhiều. Đây là điều làm cho các giáo viên
đứng lớp 12 chúng tôi luôn băn khoăn, trăn trở trong suốt thời gian qua.
Với mong muốn tìm ra cách giúp học sinh tích cực, chủ động học tập, ôn
luyện củng cố kiến thức để nâng cao kết quả học tập, thi cử tôi đã thử nghiệm
một số kỹ thuật dạy học tích cực vào trong quá trình dạy học, cũng như ôn tập
môn địa lí cho học sinh khối 12. Qua vài năm thực hiện, kết quả cũng có phần
khả quan, vì vậy tôi xin được chia sẻ kinh nghiệm về việc “ Sử dụng kỹ thuật
“Sơ đồ tư duy’’ và “Khăn trải bàn” để nâng cao hiệu quả ôn thi tốt
nghiệpTHPT môn địa lí cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Nga Sơn” mà tôi
đã sử dụng trong vài năm vừa qua. Tôi rất mong nhận được sự trao đổi, góp ý
chân thành của đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề này, để việc ôn thi
tốt nghiệp cho học sinh của chúng ta ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
1.2 Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Mục đích thứ nhất: giúp học sinh chủ động, tích cực tham gia các hoạt
động học tập, trong đó có nhiệm vụ ôn tập. Bởi vì nếu các em không thực sự
tham gia học tập, không có hứng thú với nhiệm vụ học tập thì các em sẽ không
thể nắm vững được kiến thức và có kết quả thi tốt được. Do vậy, điều đầu tiên
1


mà giáo viên cần đem đến cho học sinh là hứng thú muốn học tập, muốn chiếm

lĩnh kiến thức từ đó mới có thể ôn luyện có hiệu quả được. Chỉ có thông qua các
kỹ thuật dạy học tích cực mới có thể làm được điều đó. Đây cũng là tinh thần
của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
- Mục đích thứ 2: giúp học sinh tự giác, chủ động rèn luyện các câu hỏi trắc
nghiệm, làm đề thi mà không phụ thuộc vào bạn bè, không lên mạng copy kết
quả, không tùy tiện lựa chọn đáp án (“chùa”)… Khi nắm được kiến thức học
sinh mới có thể tự tin để làm bài, điều đó sẽ khởi dậy mong muốn học tập,
chiếm lĩnh tri thức, khẳng định tài năng, bản lĩnh của mình. Các kỹ thuật dạy
học tích cực như vẽ “sơ đồ tư duy” hoặc “khăn trải bàn” có thể giúp các em vừa
làm việc độc lập, thể hiện ý kiến riêng của mình, vừa biết phối hợp để làm việc
theo nhóm. Qua đó giúp các em nâng cao trách nhiệm và thực hiện nhiệm vụ của
mình tích cực hơn, chịu khó tìm hiểu kiến thức để hoàn thành bài tập, vừa khẳng
định được chính mình vừa biết giúp đỡ nhau bổ sung những phần kiến thức còn
yếu, hoặc khiếm khuyết để cùng nhau tiến bộ …
- Mục đích thứ 3: Giúp giáo viên thêm gắn bó tâm huyết với nghề, luôn tìm
tòi các phương pháp giảng dạy mới, nâng cao năng lực chuyên môn, cũng như
nắm bắt được tâm lí của học sinh …để nâng cao chất lượng dạy học nói chung,
ôn thi nói riêng, từ đó xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, tích cực.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh các lớp khối 12 mà tôi đã trực tiếp giảng dạy trong năm học: 2018
- 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Đọc và nghiên cứu
các tài liệu sách vở liên quan đến đề tài mà tôi đang nghiên cứu, chắt lọc những
nội dung liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó tôi tổng hợp lại thành cơ sở lí luận
cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: dự giờ, tham khảo ý kiến đồng
nghiệp.
- Phương pháp thực nghiệm : Thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm cho
các đối tượng học sinh khác nhau.

- Sau khi điều tra tôi tiến hành thống kê, xử lí số liệu thu được

2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Từ thực tế công tác giảng dạy tại trường THPT Nga Sơn, tôi nhận thấy đa
số học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc ôn tập thường xuyên,
liên tục cho kỳ thi THPT Quốc gia. Nhiều học sinh cho rằng ôn thi là việc của
cuối năm học; còn có một bộ phận học sinh chưa tích cực, còn lười biếng, không
muốn thực hiện các nhiệm vụ học tập, hoặc thực hiện bắt buộc, lấy lệ, hình
thức ... điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả dạy học của giáo viên và thi cử
của học sinh. Trước đây tôi cũng chưa chú ý đúng mức đối với việc ôn tập cho
học sinh, thông thường chỉ chuyển tải cho đủ nội dung ôn tập theo quy định,
chưa thật sự chú ý xem học sinh đã nhận được gì qua mỗi tiết học, tất cả các học
sinh trong lớp đã nắm được bài hay chưa, có khả năng giải quyết các bài tập,
hay các câu hỏi trắc nghiệm đến mức độ nào, phần nào học sinh còn yếu kém..
Do đó, công việc của người giáo viên lúc này là phải thay đổi suy nghĩ về vị trí
của người dạy và người học. Giáo viên nên lựa chọn các phương pháp mới để
giúp học sinh có hứng thú, chủ động trong học tập, ôn tập, bổ sung kịp thời
những kiến thức còn yếu, còn thiếu, để có thể chủ động hơn trong các kỳ thi của
mình.

Quá trình ôn tập, luyện đề, chính là quá trình củng cố, bổ sung kiến thức,
tập dượt cho kỳ thi chính thức. Chỉ khi có được kiến thức vững vàng thì các em
mới có thể đạt được kết quả cao.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong thực tế hiện nay khi ôn thi cho học sinh số đông giáo viên chưa từ
bỏ được kiểu dạy học truyền thống, đó là giáo viên nhắc lại kiến thức, còn học
sinh thì lắng nghe, tiếp thu bài một cách thụ động. Phần lớn học sinh vẫn theo
lối mòn xưa chờ đợi vào kiến thức sẵn có mà giáo viên đưa ra, vì vậy hầu hết
các em không biết vận dụng linh hoạt các kiến thức tổng hợp để làm bài một
3


cách chủ động, sáng tạo. Bản thân tôi trước đây, khi tham gia ôn thi THPT Quốc
gia, tôi chỉ nhắc lại kiến thức cũ cho học sinh, rồi tìm kiếm câu hỏi, đề cho học
sinh làm bài, sau đó chữa chung cho cả lớp. Với cách làm này thì chỉ thích hợp
với các học sinh khá giỏi và có ý thức tự giác trong quá trình học và làm bài, còn
phần lớn học sinh, nhất là bộ phận học sinh yếu, thiếu tự giác thì mục đích của
việc ôn tập chưa cao, khó kahức sâu được kiến thức cho học sinhh.
Mặt khác tôi và nhiều giáo viên chưa coi trọng việc ôn thi tốt nghiệp, (hay
thi THPT Quốc gia những năm trước) cho học sinh ngay từ đầu năm học, ôn
ngay sau mỗi bài, mỗi chuyên đề. Chúng tôi thường tập trung ôn thi vào cuối
học kỳ II, điều này không nên có, bởi vì không thể có kết quả tốt khi ôn luyện
một khối lượng kiến thức lớn trong khoảng thời gian ngắn được. Hơn nữa thời
gian qua đi, kiến thức trong các em nếu không được ôn tập thường xuyên sẽ rơi
rụng đi rất nhiều, cuối năm mới ôn thì như dạy bài mới. Điều đó dẫn đến kết quả
thi THPT Quốc gia nhìn tổng thể chưa cao. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy
học, ôn thi theo hướng tích cực là hết sức cần thiết; đó chính là lý do, là động
lực để bản thân tôi phải nỗ lực, tìm tòi áp dụng các phương pháp mới giúp học
sinh nâng cao hiệu quả học tập và thi cử.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

2.3.1. Sử dụng kỹ thuật “Sơ đồ tư duy” để ôn tập, hệ thống hóa kiến thức
đã học:
2.3.1.1. Sơ lược về kỹ thuật “Sơ đồ tư duy”:
- Sơ đồ tư duy (còn được gọi là lược đồ tư duy, bản đồ khái niệm) là một sơ
đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế khoạch hay kết
quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Sơ đồ tư duy có thể được
viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay trên máy tính.
- Cách làm: Viết tên chủ đề ở trung tâm, hoặc một hình ảnh phản ánh chủ
đề để từ đó phát triển ra các ý khác.
+ Khi vẽ học sinh có thể sử dụng tất cả các màu sắc, hình họa để thể hiện ý
tưởng của mình, điều này làm cho việc học rất thú vị.
+ Từ chủ đề ở trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết
một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề (Cùng màu chữ, màu
nhánh..cùng kiểu).
+ Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ thể hiện nội dung thuộc
nhánh chính đó (cùng kiểu nhánh, kiểu chữ, màu chữ khác với nhánh chính).
4


+ Tiếp tục như vậy ở các nhánh phụ tiếp theo.
- Ứng dụng: Sơ đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác
nhau, riêng với môn địa lý có thể ứng dụng trong các tình huống sau:
+ Ghi chép khi học bài bài mới
+ Tóm tắt nội dung, ôn tập một phần, một bài hoặc một chủ đề
+ Trình bày tổng quan một chủ đề lớn, một chương.
+ Thu thập, sắp xếp ý tưởng
- Ưu điểm của kỹ thuật này:
+ Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu, vì vậy các em học sinh có thể
thêm những ý tưởng, kiến thức sáng tạo phong phú, sử dụng trí tưởng tưởng làm
nổi bật thêm nội dung cần ghi nhớ.

+ Các mối liên hệ, quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng.
Nội dung chính được thể hiện nổi bật, cũng như cấp độ quan trọng của các nội
dung bên trong cũng được thể hiện rõ.
+ Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại. Điều này giải quyết
các yếu tố về thời gian, mức độ yêu cầu của các nhiệm vụ học tập.
+ Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
+ Các em có thể sử dụng để ôn bài một cách hệ thống, từ khái quát đến chi
tiết cho từng phần học, bài học, kể cả một chủ đề lớn (VD: Dân cư, công nghiệp,
nông nghiệp…).
+ Khi vẽ sơ đồ tư duy nội dung được trình bày rất cô đọng, súc tích, mà vẫn
đầy đủ thông tin, thậm chí cả những thông tin chi tiết nhất. Vì thế với một lượng
kiến thức lớn nhưng chỉ cần một trang giấy là có thể chuyển tải hết, giúp học
sinh thuộc bài dễ dàng, đầy đủ. Điều này là rất thuận lợi đối với thi trắc nghiệm.
2.3.1.2. Ứng dụng cụ thể vào ôn thi môn địa lí:
* Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy:
Giai đoạn 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy. Khi học
sinh biết cách vẽ mới có thể tự làm việc, chủ động thực hiện các nhiệm vụ học
tập hoặc được giao, điều này còn giúp các em khắc sâu kiến thức, nắm bài tốt
hơn nhiều so với việc nghe giáo viên truyền đạt lại, thậm chí hiệu quả hơn việc
sử dụng sơ đồ tư duy sẵn có.
Giai đoạn 2: Ứng dụng vào bài học cụ thể (Có thể vẽ sơ đồ ở trên lớp hoặc
ở nhà tùy vào nội dung bài học, thời gian và khả năng của học sinh).
5


- Thực hiện vẽ sơ đồ tư duy ở trên lớp:
+ Thứ nhất: Tổ chức làm việc theo nhóm, mỗi nhóm vẽ một phần sơ đồ
thuộc một phần kiến thức của một bài, sau đó các nhóm phối hợp để hoàn thành
một sơ đồ hoàn chỉnh của bài học.
Ví dụ ôn Bài ‘Vấn đề khai thác lãnh thổ theo chiều sâu ở ĐNB’, tôi tiến

hành như sau:
Bước 1: Chia bài học thành 4 phần kiến thức, tương đương 4 (hoặc 5)
nhánh lớn của sơ đồ xuất phát từ ô chính (từ khóa) là ‘Vấn đề khai thác lãnh thổ
theo chiều sâu ở ĐNB’.
Bước 2: Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm hoàn thành vẽ các nhánh nội
dung lớn thuộc một hoặc 2 phần kiến thức của bài.
Nhiệm vụ cụ thể:
Nhóm
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4

Nội dung công việc
Phần khái quát chung về Đông Nam Bộ
Khai thác lãnh thổ theo chiều sâu trong công nghiệp và dịch vụ
Khai thác lãnh thổ theo chiều sâu trong nông nghiệp, lâm nghiệp
Khai thác lãnh thổ theo chiều sâu trong tổng hợp kinh tế biển

Bước 3: Các nhóm thực hiện nhiệm vụ: thảo luận và tiến hành vẽ trên 1/4
khổ giấy A0 những nội dung kiến thức được phân công của mình:

Lưu ý: khi nhiều nhóm làm chung một chủ đề giáo viên cho các em thống
nhất màu mực, kiểu chữ cho từng bậc nhánh kiến thức .
6


Bước 4: Các nhóm dán kết quả lên bảng tạo thành một sơ đồ hoàn chỉnh,
đại diện các nhóm lên trình bày phần nội dung của mình. Các nhóm khác góp ý,
nhận xét.


Bước 5: Giáo viên nhận xét, đánh giá, chuẩn kiến thức.

7


Giáo viên cũng có thể cho các học sinh khác bổ sung kiến thức ngay trên
sơ đồ nếu còn không gian, hoặc hoặc sử dụng sơ đồ tư duy giáo viên đã chuẩn
bị, trình chiếu trên máy.
+ Thứ hai: Cũng theo cách hoạt động nhóm, nhưng các nhóm cùng vẽ sơ
đồ nội dung của cùng một bài, để hiện ý tưởng phong phú khác nhau về nội
dung bài học đó. (Các bước thực hiện cụ thể tiến hành như cách 1).
Trong trường hợp này sau khi học sinh các nhóm trình bày xong giáo viên
nên sử dụng sơ đồ đã vẽ trình chiếu để chuẩn kiến thức. Ví dụ ôn bài ‘ Vấn đề sử
dụng hợp lý và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng Sông Cửu Long’, tôi sử dụng sơ đồ
sau:

(Sơ đồ phóng to ở phụ lục 1)
+ Thứ ba: Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân, sau đó cử từ 2 -3 em lên vẽ
sơ đồ tư duy lên bảng ( có thể vẽ riêng lẻ - một phần, cùng nhau vẽ, phối hợp tạo
thành sơ đồ có nội dung hoàn chỉnh). Các bạn khác trong lớp có thể nhận xét, bổ
sung thêm. Giáo viên cũng dễ dàng bổ sung phần thiếu sót cho các em.

8


Ví dụ: Bài “ấn đề khai thác thế mạnh ở Tây Nguyên’, tôi đã cho các em thực
hiện như sau:

Với cách này giáo viên sau khi nhận xét, đánh giá công việc của học sinh

có thể bổ sung và chuẩn kiến thức ngay trên sơ đồ tư duy mà các em đã vẽ.
- Hướng dẫn vẽ sơ đồ tư duy để ôn bài ở nhà: đây là công việc mà giáo
viên nên hướng dẫn để học sinh làm sau mỗi tiết học ở trên lớp, sau mỗi chủ đề
học lớn ( Địa lí tự nhiên, dân cư, công nghiệp...). Việc vẽ sơ đồ tư duy ngay sau
khi học sẽ giúp các em học thuộc bài nhanh, không nhàm chán, cúng nhắc như
cách thuộc bài truyền thống, đặc biệt thuận lợi khi ôn tập. Khi thực hiện ở nhà
các em không bị gò bó về thời gian, thỏa sức sáng tạo để trình bày các ý tưởng.
Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể nội dung cần vẽ, chủ đề của sơ đồ
chính là bài học mà các em vừa học. Các em có thể vẽ ra giấy A4, ghim thành
tập để tiện cho giáo viên kiểm tra, cũng như giúp các em ôn bài sau này.
Bước 2: Kiểm tra việc vẽ sơ đồ của học sinh:
+ Thu sơ đồ của các em về kiểm tra, sửa, chấm điểm để động viên và
hướng dẫn các em quen dần với công việc này. (Nhất là thời gian đầu).
+ Kiểm tra sơ đồ kèm với kiểm tra miệng, lấy kết quả vẽ sơ đồ hỗ trợ việc
kiểm tra miệng, sẽ giúp học sinh có động lực để thực hiện, giáo viên cũng kiểm
9


tra được hiệu quả của việc ôn bài qua việc vẽ sơ đồ. Thực hiện đều đặn tạo thói
quen, dần dần hình thành kỹ năng cho các em.
+ Có thể chụp ảnh rồi trình chiếu những sơ đồ làm tốt để cả lớp tham khảo,
điều này động viên học sinh khá giỏi; làm tương tự với học sinh có nhiều tiến
bộ. Với các học sinh làm đối phó giáo viên sẽ động viên, nhắc nhở, so sánh..để
các em cố gắng. Giáo viên cũng có thể giao cho các học sinh khá, giỏi giúp đỡ
các bạn học yếu vẽ sơ đồ tư duy, sự tương trợ này sẽ làm các em bớt mặc cảm,
tự ti.
* Hướng dẫn HS ôn tập bằng các sơ đồ tư duy vẽ bằng phần mềm:
- Giáo viên có thể sử dụng phần mềm imindMap để vẽ các sơ đồ tư duy
các bài học để ôn tập cho học sinh. Sơ đồ điện tử này có thể sử dụng để chuẩn

kiến thức cho học sinh, trong các điều kiện thời gian hạn chế, hoặc trình chiếu
sơ đồ tư duy để củng cố, hệ thống lại kiến thức cho học sinh trước khi cho học
sinh rèn luyện câu hỏi trắc nghiệm theo từng bài (hoặc theo chủ đề).
Ưu điểm của sơ đồ này là có thể thay đổi tùy ý, độ chi tiết hay khái quát
của sơ đồ phụ thuộc vào thời gian, mục đích học tập, ôn luyện của học sinh để
vẽ cho phù hợp.
Ví dụ bài: Vấn đề sử dụng hợp lý và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng Sông
Cửu Long, có sơ đồ khái quát như sau:

(Sơ đồ khái quát – Phóng to ở phụ lục 2)
10


Hay sơ đồ chi tiết của bài ‘Vấn đề khai thác lãnh thổ theo chiều sâu ở
Đông Nam Bộ’:

(Sơ đồ phóng to ở phụ lục 3)
Qua việc việc sử dụng “Sơ đồ tư duy” vào việc ôn tập, củng cố kiến thức
cho học sinh, tôi thấy hiệu quả đạt được rất rõ ràng. Học sinh tích cực và chủ
động trong việc tiếp thu kiến thức. Việc các em tự vẽ sơ đồ tư duy đã giúp các
em không chỉ củng cố được kiến thức một cách hệ thống. Thông qua làm việc
nhóm giúp các em bổ sung được những kiến thức thiếu sót của bản thân, đồng
thời còn khắc sâu kiến thức. Nếu được tiến hành thường xuyên thì kiến thức sẽ
nhớ được lâu dài, bền vững; việc học bài cũ hay ôn tập cũng trở nên nhẹ nhàng
hơn, lại tiết kiệm thời gian. Cách ôn tập này nếu thực hiện công phu, sẽ góp
phần giảm áp lực cho cả thầy và trò trước các kỳ thi lớn (Học kỳ, tốt nghiệp
THPT).
2.3.2. Sử dụng kỹ thuật “Khăn trải bàn” để ôn luyện hệ thống các câu hỏi
trắc nghiệm :
2.3.2.1. Sơ lược về kỹ thuật “ Khăn trải bàn":

- Đây là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt
động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
+ Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
+ Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS
+ Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS
11


- Để học sinh thực hiện có hiệu quả giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách
tiến hành kĩ thuật "Khăn trải bàn"

- Hoạt động theo nhóm (4 người / nhóm) (có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người (hoặc 2 người) ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
- Tập trung vào các câu hỏi được giao
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...).
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và
thống nhất các câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy
A0)
- Đại diện nhóm lên trình bày ý kiến chung của nhóm.
Ưu điểm của kỹ thuật “Khăn trải bàn” đối với việc ôn tập bằng hệ thống
câu hỏi trắc nghiệm là:
- Kỹ thuật này giúp cho hoạt động cá nhân hay hoạt động nhóm có hiệu quả
hơn, mỗi học sinh đều phải tự hoàn thành nhiệm vụ của mình, không ỷ lại vào
các bạn học khá, giỏi, vừa phải phối hợp mới có thể làm những câu hỏi khó, các
học sinh giỏi sẽ trợ giúp cho các học sinh yếu kém. Ít nhất các em cũng lắng
nghe được sự giải đáp, giải thích từ các bạn giỏi, điều này sẽ giúp các em nắm
được kiến thức, tiến bộ dần dần.
12



- Kỹ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với các câu hỏi đã được giao,
mỗi học sinh có thể viết kết quả làm việc ra giấy nhớ sau đó dán lên phần của
mình.
- Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy
“khăn trải bàn’’ lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Cũng có thể dùng máy chiếu
phóng lớn để biết được mức độ hoàn thành phần việc và độ chính xác của đáp án
lựa chọn. Có thể yêu cầu giải thích vì sao các em lựa chọn đáp án đó, tránh tình
trạng chọn “chùa”.
- Có thể thay số bằng tên học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được
khả năng nhận thức của từng học sinh về phần nhiệm vụ được giao.
2.3.2.2. Sử dụng kỹ thuật “Khăn trải bàn" để ôn luyện hệ thống các câu
hỏi trắc nghiệm:
- Yêu cầu:
+ Giáo viên phải lựa chọn những đề từ các nguồn đáng tin cậy nhất, như:
đề minh họa của Bộ GD, đề của các Sở GD các tỉnh, hoặc đề của các trường
chuyên trong nước, đề trong ngân hàng đề của trường, và đề của các trường
bạn...
+ Lựa chọn số lượng câu hỏi hoặc luyện trọn vẹn một đề phải có thời gian
phù hợp, đảm bảo cho học sinh có thời gian thảo luận mới khắc sâu được kiến
thức, nhớ được các dạng câu hỏi.
- Ôn theo từng bài hoặc chuyên đề :
+ Giáo viên lựa chọn khoảng 20 câu hỏi trắc nghiệm thuộc về từng bài,
hoặc chuyên đề (ở những tài liệu tin cậy đã được Bộ GD cho phép xuất bản),
gồm cả câu hỏi về átlat và biểu đồ có liên quan đến nội dung của bài đó. (Cũng
có thể thực hiện riêng hai kỹ năng này).
Quá trình thực hiện: ( Thời gian là 1 tiết học, vì cần phải sơ lược lại nội
dung của bài trước khi làm câu hỏi trắc nghiệm)
Ví dụ bài ‘Vấn đề khai thác lãnh thổ theo chiều sâu ở ĐNB’

- Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm được phân công
làm việc với 5 câu hỏi trắc nghiệm trong số 20 câu hỏi đã chuẩn bị. (20 câu hỏi
này tôi in cho tất cả các em, tiện cho các em làm việc và nhận xét cho các nhóm
khác).
- Bước 2: Các em làm việc cá nhân, nghiên cứu các câu hỏi, sử dụng kiến
thức đã học, SGK, lược đồ tư duy và átlat để tìm đáp án. Ghi đáp án vào giấy
13


nhớ, yêu cầu ghi rõ nguồn đáp án hoặc giải thích được khi giáo viên hỏi, tránh
copy của bạn.

- Bước 3: Ở mỗi nhóm các thành viên dán kết quả làm việc của mình vào
phần kết quả làm việc cá nhân, sau khi thống nhất ý kiến viết kết quả vào phần ô
làm việc chung của cả nhóm.
- Bước 4: Đại diện các nhóm trình bày kết quả, các nhóm khác nhận xét, bổ
sung.

14


- Bước 5: Giáo viên đánh giá, nhận xét, giải đáp những thắc mắc về những
câu hỏi khó ...chấm điểm cho mỗi nhóm.

Lưu ý: qua mỗi bài ôn khác nhau, thì trong nhóm làm việc các học sinh sẽ
thay phiên nhau lên trình bày kết quả, điều này tránh được tình trạng trốn việc,
hoặc làm việc riêng...
- Ôn một đề hoàn chỉnh: Sau một thời gian nhất định đã trải qua ôn luyện
theo từng bài học và chuyên đề (1 tháng, 2 tháng..), giáo viên có thể cho các em
luyện đề hoàn chỉnh theo cấu trúc của Bộ GD, xen kẽ với luyện đề theo từng bài.

Các bước sử dụng kỹ thuật “Khăn trải bàn” để hướng dẫn học sinh làm một
đề hoàn chỉnh, cũng tương tự với việc hướng dẫn ôn luyện theo bài, khác là cần
nhiều thời gian hơn cho các em trình bày kết quả, nhận xét, giải thích.
Có rất nhiều cách để luyện đề, nhưng tôi thấy rằng, sử dụng kỹ thuật “Khăn
trải bàn” có rất nhiều ưu điểm: đó là học sinh qua việc rèn luyện các câu hỏi trắc
nghiệm sẽ giúp các em làm quen, nhớ lâu hơn các dạng câu hỏi trắc nghiệm,
cũng khắc sâu những phần nội dung kiến thức có liên quan. Đồng thời vừa rèn
luyện cho các em tính độc lập, biết học hỏi, biết trình bày ý kiến cá nhân, tự tin
hơn...
15


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong năm học 2018-2019 tôi áp dụng giải pháp thử nghiệm ở một lớp và
chọn một lớp đối chứng, cả hai lớp này đều thi môn địa để xét tốt nghiệp trong
tổ hợp KHXH, kết quả như sau:

LỚP

SĨ SỐ

12 H

35

Điểm giỏi
0

Lớp đối chứng
Điểm khá Điểm TB

17,1 %

42,8%

Điểm yếu kém
40,1%

Lớp thực nghiệm
LỚP

SĨ SỐ

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu kém

12 D

42

11,9 %

35,7 %

42,8%


11,9 %

Trong năm học 2019-2020 tôi cũng tiến hành thử nghiệm ở hai lớp cũng
đều chỉ xét tốt nghiệp, kết quả đạt được qua các kỳ thi khảo sát đầu tháng 6/2020
như sau:
Lớp đối chứng
LỚP

SĨ SỐ

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu kém

12 H

44

0

37,1 %

47,7 %

16,1%


Lớp thực nghiệm
LỚP

SĨ SỐ

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu kém

12 D

44

11,4 %

43,2 %

36,4%

9%

Qua kết quả áp dụng thử nghiệm trên tôi nhận thấy rằng sáng kiến của tôi
đã đem lại hiệu quả tương đối tốt cho việc ôn thi tốt nghiệp THPT cho học sinh,
điểm giỏi tăng đáng kể, điểm yếu giảm đi nhiều. Điều quan trọng là sau quá
trình ứng dụng các kỹ thuật, khả năng làm bài của các em tiến bộ rõ rệt, điều này
làm các em có hứng thú với việc học tập, ôn luyện hơn; tình trạng rã đám, chán

nản hay lo lắng đã giảm bớt.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận:
16


Từ kết quả đạt được tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm sau
- Để có thể nâng cao hiệu quả dạy học nói chung, ôn thi tốt nghiệp THPT
nói riêng, người giáo viên phải chịu khó học hỏi, tìm tòi, thử nghiệm để có được
những giải pháp phù hợp với từng giai đoạn, hoàn cảnh và đối tượng học sinh.
- Việc ôn tập kiến thức cho học sinh cúng là một quá trình liên tục, theo sát
quá trình học kiến thức mới, như thế mới giúp học sinh nhớ lâu, khắc sâu kiến
thức.
- Trong quá trình làm việc sẽ phải đầu tư nhiều thời gian và công sức (Ví
dụ: chấm và sửa sơ đồ tư duy cho học sinh, khi vẽ được một sơ đồ tư duy hoàn
chỉnh trên phần mềm cần nhiều thời gian, hoặc khi xây dựng và tìm kiếm hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm có chất lượng cũng cần nhiều tâm huyết…). Quá trình
ấy cũng là để rèn giũa bản thân người giáo viên, giúp nâng cao năng lực về
chuyên môn, biết ứng dụng công nghệ thông tin mà còn nâng cao tinh thần trách
nhiệm, tâm huyết với học sinh của mình.
- Khi tiến hành các kỹ thuật trên, giáo viên tiếp cận được gần với học sinh
hơn, khi các em gặp câu hỏi khó sẽ không dấu dốt mà có thể trao đổi, thảo luận
trực tiếp với giáo viên...làm cho mối quan hệ thầy trò thân thiện hơn. Giáo viên
nắm bắt khó khăn cũng như thế mạnh của các em tốt hơn, từ đó có biện pháp
giúp các học sinh khá vượt lên, giúp các học sinh yếu kém tiến bộ.
- Vậy nên tôi thấy rằng những phương pháp trên không mới lạ nhưng là
những phương pháp cần thiết, quan trọng và hữu ích.
3.2. Kiến nghị.
- Giáo viên phải nắm vững phương pháp dạy học tích cực, nắm vững đặc
trưng môn học, tâm lý người học để lựa chọn phương pháp thích hợp.

- Giáo viên cần đầu tư nhiều thời gian, công sức vào việc ôn luyện, phải ôn
luyện có hệ thống, không dồn kiến thức về cuối năm.
- Giáo viên cần phải năng động, nhạy bén, có óc quan sát và quan tâm phù
hợp với các đối tượng học sinh, các lớp học khác nhau.
- Phối hợp với các giáo viên khác trong tổ chuyên môn để cùng trao đổi,
thảo luận, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Dù trong học tập hay ôn thi thì chất lượng của việc dạy và học được thể
hiện qua quá trình trao đổi cởi mở giữa thầy và trò, giúp cho học trò tìm thấy sự
17


hứng thú trong học tập và tìm tòi sáng tạo, đấy mới chính là thước đo chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 2 tháng 7 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết sáng kiến

Mai Thị Nữ

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

18


1. Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc (2004), Lí luận dạy học Địa lí, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Đặng Văn Đức, Nguyễn Thu Hằng (2003), Phương pháp dạy học Địa lí
theo hướng tích cực, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Những vấn đề chung về đổi mới giáo
dục Trung học phổ thông môn Địa lí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Lăng Bình (Chủ Biên) - Đỗ Hương Trà, Dạy và học tích cực
một số phương pháp và kĩ thuật dạy học, Nxb Đại học sư phạm
5. Lê Thông - Nguyễn Minh Tuệ (Đồng chủ biên)..., Ôn luyện trắc nghiệm
thi THPT Quốc gia năm 2018.
6. Nguyễn Đức Vũ (2015), Câu hỏi và bài tập kĩ năng địa lí 12, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Vũ (2016), Trắc nghiệm địa lí 12, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
8. Sách giáo khoa địa lí 12 cơ bản và nâng cao - NXB giáo dục.
9. Sách giáo viên địa lí 12 cơ bản và nâng cao - NXB giáo dục.
10. Internet

19


Phụ lục 1: Sơ đồ “Vấn đề sử dụng hợp lý và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng Sông Cửu Long”


Phụ lục 2: Sơ đồ khái quát bài “Vấn đề sử dụng hợp lý và cải tạo tự nhiên ở Đồng bằng Sông Cửu Long”


Phụ lục 3: Sơ đồ chi tiết của bài ‘Vấn đề khai thác lãnh thổ theo chiều sâu ở Đông Nam Bộ’:




×