Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp nâng cao hứng thú, kết quả học tập và phát triển năng lực cho học sinh trường THCS quảng thành qua dạy bài 19 cuộc khởi nghĩa lam sơn (1418 1427),

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.1 KB, 20 trang )

1
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, vấn đề đổi mới giáo dục đã và đang được Đảng, Nhà
nước và nhân dân hết sức quan tâm. Đặc biệt từ năm 2013, khi Nghị quyết 29NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” được Hội nghị TW8 (khóa XI) thông qua.
Đổi mới được tiến hành toàn diện “từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục
tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực
hiện”[1]. Một trong những giải pháp trọng điểm là “đổi mới mạnh mẽ và đồng
bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển
phẩm chất, năng lực của người học”[1]. Nghĩa là, song song với việc đổi mới
chương trình, các yếu tố nội dung, tài liệu học tập cần được đa dạng hoá,
phương pháp dạy học tiếp tục phải đổi mới theo hướng hiện đại, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học, khắc
phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc, khuyến khích tự học,
hình thức học tập cần đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá... Thêm
vào đó, phải tăng cường các hoạt động trải nghiệm thực tế nhằm giáo dục đạo
đức, lối sống và rèn luyện kỹ năng cho học sinh theo tinh thần Nghị quyết số
44/NQ-CP.
Để đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu đổi mới toàn diện giáo dục theo tinh
thần Nghị quyết số 29 và 44 của Đảng và chính phủ, trong dạy học (nói chung)
dạy học Lịch sử (nói riêng) việc đổi mới phương pháp dạy học, hình thức tổ
chức dạy học được coi là một nhân tố quan trọng hàng đầu góp phần nâng cao
hứng thú, kết quả học tập của học sinh tại các nhà trường. Tôi nhận thấy, việc sử
dụng di sản văn hóa tại địa phương là giải pháp hữu hiệu bởi hệ thống di sản văn
hóa tại địa phương tạo môi trường học tập mang tính thực tế với những hoạt
động trải nghiệm sâu sắc, góp phần khắc phục lối dạy học nặng về truyền thụ lý
thuyết một chiều, mang tính áp đặt và ghi nhớ máy móc, làm phong phú hơn
nguồn tài liệu học tập và phương tiện trực quan trong dạy học, góp phần đa dạng
hoá các hình thức học tập và hoạt động ngoại khoá, tạo hứng thú cho học sinh


trong quá trình học tập, tăng cường cơ hội rèn luyện các kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực của người học. Đồng thời, di sản văn hóa tại địa phương là môi
trường thực tế nhất để giáo dục những giá trị truyền thống, lối sống, đạo đức cho
học sinh.
Tuy nhiên, sử dụng di sản vào dạy học Lịch sử và dạy học tại di sản hiện
nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Đa số các bài học đều được tiến hành
trên lớp tại các nhà trường. Tôi nhận thấy, việc tổ chức bài học Lịch sử tại các di
sản văn hóa là một hình thức dạy học có ý nghĩa lớn trong việc phát triển toàn
diện học sinh và là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đổi mới
phương pháp dạy học ở trường phổ thông. Từ thực tế đó, tôi chọn đề tài “Một số
giải pháp để nâng cao hứng thú, kết quả học tập và phát triển năng lực cho học
sinh trường THCS Quảng Thành qua dạy bài 19- Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn


2
(1418 – 1427), Lịch sử lớp7 tại khu di tích lịch sử Lam Kinh (Thọ Xuân, Thanh
Hóa)” là vấn đề nghiên cứu của bản thân, với hi vọng được chia sẻ cùng đồng
nghiệp một hình thức dạy học hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm:
- Khẳng định di sản văn hóa là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan
quý giá trong dạy học (nói chung) dạy học Lịch sử (nói riêng). Bởi vậy di sản
văn hóa có vai trò to lớn trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử
ở trường phổ thông và phát triển năng lực cho học sinh.
- Khẳng định việc tổ chức dạy học tại di sản văn hóa là một hình thức dạy học
quan trọng bên cạnh việc tiến hành bài học trên lớp và là một trong những giải
pháp quan trọng góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông cần
được chú ý khuyến khích thực hiện.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình sử dụng di sản văn hoá tại

địa phương trong dạy học Lịch sử ở trường THCS Quảng Thành trong hình
thức dạy học tại di sản. Trong đó, tập trung vào quy trình thực hiện và các biện
pháp sử dụng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu lý thuyết: Phân tích tổng hợp các tài liệu về phương pháp dạy học
lịch sử, các tài liệu lịch sử, tài liệu văn hóa liên quan đến đề tài SKKN; Nghiên
cứu chương trình, SGK Lịch sử lớp 7 để xác định nội dung có thể dạy học tại di
sản văn hóa.
- Nghiên cứu thực tiễn: Thông qua phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp, quan sát
dự giờ, kiểm tra đánh giá...để điều tra thực tế làm rõ thực trạng việc tiến hành
dạy học tại di sản ở trường THCS tỉnh Thanh Hoá nói chung, trường THCS
Quảng Thành nói riêng.
- Thực nghiệm sư phạm: Soạn bài để tiến hành thực nghiệm nhằm kiểm chứng
những biện pháp SKKN đề xuất.
- Phương pháp toán học thống kê: để xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm. Việc
so sánh các giá trị thu được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng là cơ sở để
đánh giá hiệu quả của các biện pháp SKKN đề xuất.


3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Các nhà khoa học nghiên cứu về lý luận và phương pháp dạy học lịch sử
nước ta đã bàn nhiều đến ý nghĩa, vai trò, các hình thức, phương pháp sử dụng
phương tiện dạy học, tư liệu và tài liệu lịch sử địa phương (trong đó có di sản
văn hóa) trong dạy học lịch sử, coi đó như một phương tiện trong việc nâng cao
hiệu quả dạy học bộ môn.
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” (Phan Ngọc Liên,

Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, 2002, NXB ĐHSP Hà Nội ) đã khẳng định
giá trị của di sản văn hóa, của phương tiện dạy học nói chung trong dạy học lịch
sử. Trong “Một số vấn đề về đổi mới dạy học lịch sử ở trường phổ thông” tác
giả Phan Ngọc Liên đã nêu rõ những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học trong đó cần “tăng cường tính khoa học, tính cụ thể
của sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử”, “tổ chức cho học sinh tiếp cận nhiều hơn
với các sử liệu”, tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, thực hành bộ
môn với các hoạt động như tham quan bảo tàng lịch sử cách mạng, nhà truyền
thống, chiến trường xưa, dạy học tại thực địa, nghiên cứu, học tập lịch sử địa
phương… Tác giả Phạm Thị Cúc trong bài viết “Mấy suy nghĩ về nguyên nhân
suy giảm chất lượng môn Sử- một vài giải pháp” đã chỉ ra một trong những
nguyên nhân quan trọng là do giờ học lịch sử chưa được đổi mới nhiều, thường
gò bó, khô khan, nặng về thuyết trình, nhồi nhét kiến thức, không gây được
hứng thú cho học sinh…Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số biện pháp như
“thay đổi không gian và hình thức học bằng việc tổ chức nhiều hoạt động ngoại
khóa (dã ngoại, học lịch sử địa phương tại thực địa, học ở Viện bảo tàng, học
bằng cách xem phim tài liệu, học ở phòng bộ môn…”
Ngoài ra, tác giả Hoàng Thanh Hải trong các bài “Di tích lịch sử và việc
giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông” (Tạp chí Xưa và nay 4/1996); “Sử dụng
di tích lịch sử cách mạng trong dạy học lịch sử tại thực đại” (Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục, 2/1997); “Tổ chức hướng dẫn cho HS phổ thông tham gia các lễ
hội xuân tại di tích lịch sử” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, 5/1997); “Giáo dục
ý thức tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cho học sinh qua
môn lịch sử” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Số 308, 2013)...; tác giả Ngô Thị
Lan Hương với bài “Sử dụng di sản văn hóa vật chất nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường THPT các tỉnh miền núi phía Bắc” (Tạp chí giáo dục số
321, 2013).... đều đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc sử dụng di sản
văn hóa trong dạy học lịch sử.
Đặc biệt, trong bài “Dạy học lịch sử thông qua các di sản”của tác giả
Phạm Mai Hùng - Hội khoa học lịch sử Việt Nam - đã khẳng định “Giáo dục

thông qua các di sản (văn hóa) là phương pháp có tính phổ biến ở mọi quốc gia,
không phân biệt chính trị- xã hội, nó được hình thành từ rất sớm và luôn có tính
kế thừa, duy trì, phát triển cho tương thích với điều kiện cụ thể của từng quốc
gia...”. Tác giả trình bày thuyết phục tiềm năng di sản văn hóa Việt Nam, đồng


4
thời nhấn mạnh “Dạy và học lịch sử thông qua các di sản văn hóa là phương
pháp trực quan, sinh động và thực sự có hiệu quả”,“đây là phương pháp tối ưu
không chỉ giúp cho học sinh củng cố, mở rộng các kiến thức đã được truyền thụ
trên lớp mà còn bồi dưỡng trực tiếp cho các em năng lực cảm nhận cái đẹp, cái
hay... Đồng thời, giúp học sinh tích lũy vốn sống, kỹ năng lao động, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng ứng xử, tôn trọng quá khứ để vững bước vào tương lai...”....
Như vậy, những nguồn tài liệu nêu trên đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của di
sản văn hóa trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Đồng thời cũng chỉ rõ
những loại di sản thường sử dụng và ý nghĩa của việc phát huy di sản văn hóa
trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng và nguyên tắc, hình thức tổ
chức, phương pháp tổ chức cho học sinh học tập với các di sản văn hóa…. Trên
cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả cộng với những kinh
nghiệm mà tôi có được từ thực tiễn dạy học ở trường THPT, đề tài “Nâng cao
hứng thú, kết quả học tập và phát triển năng lực cho học sinh trường THCS
Quảng Thành qua dạy bài 19 - Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (Lịch sử lớp7) tại khu
di tích lịch sử Lam Kinh (Thọ Xuân, Thanh Hóa)” tập trung vào việc thiết kế, tổ
chức một giờ học tại di sản văn hóa ở một địa phương cụ thể ( Khu di tích lịch
sử Lam Kinh, Thọ Xuân, Thanh Hóa) cho một đối tượng cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả một giờ học lịch sử cụ thể với mong muốn góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Bài 19 – Cuộc khởi nghiac Lam Sơn (1418 – 1427) là bài đầu tiên trong
chương trình học kì 2 lớp 7. Đây là phần trọng tâm trong chương trình lịch sử

đặc biệt là giai đoạn lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Nội dung chủ
yếu đề cập đến các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta trong
gần 6 thế kỉ đầu thời kì độc lập: Cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê,
cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, các cuộc kháng chiến chống xâm lược
Mông –Nguyên ở các thế kỉ XIII, phong trào đấu tranh chống quân Minh và
khởi nghĩa Lam Sơn. Do dung lượng bài khá dài nhưng thời lượng giảng dạy
trong chương trình hạn chế nên nhìn chung đa số giáo viên gặp khó khăn trong
việc truyền tải kiến thức, hình thành kĩ năng, thái độ và định hướng phát triển
những năng lực cần thiết cho học sinh.
Thực trạng chung khi dạy bài này là giáo viên cố gắng hệ thống, giúp học
sinh hình dung một cách tổng thể bức tranh lớn của lịch sử dân tộc-lịch sử chống
ngoại xâm giữ vững độc lập dân tộc trong giai đoạn đầu của nhà nước phong
kiến độc lập tự chủ. Bài học chủ yếu được tiến hành trên lớp. Do thời lượng ít,
nội dung dài nên giáo viên thường tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để tìm
hiểu những thông tin cơ bản về các cuộc kháng chiến: Tên cuộc kháng chiến,
thời gian diễn ra, vương triều lãnh đạo, chống quân xâm lược nào, người chỉ
huy, những trận quyết chiến chiến lược, kết quả, ý nghĩa.... Kết hợp việc sử dụng
tranh ảnh về chiến trận hay về các anh hùng dân tộc, một số đoạn trích thơ văn,
bản đồ lịch sử Việt Nam nơi có ghi các địa danh diễn ra những trận đánh lớn thế
kỉ X-XV và việc thuyết trình của thầy, cô là phương pháp sư phạm mà giáo viên


5
thường áp dụng để đạt được mục tiêu bài dạy.
Thực trạng trên khiến giờ học Lịch sử trở nên “quá tải”. Bao chiến thắng
huy hoàng của cha ông trong hơn nửa thập kỉ, hàng loạt các nhà chỉ huy quân sự
tài năng, những danh hùng dân tộc, thời gian và các mốc sự kiện....chỉ được gói
gọn trong gần 40 phút thực hành bài giảng là rất khó khăn. Như trên đã nói, học
sinh chỉ nắm được những kiến thức cơ bản, ghi nhớ sự kiện một cách khô khan,
việc hình thành biểu tượng, tạo hứng thú học tập, hình thành những kĩ năng cơ

bản cho học sinh chưa đạt được như mong muốn. Thêm vào đó, việc phải ghi
nhớ nhiều sự kiện dễ tạo cho học sinh tâm lí “sợ” học lịch sử vì lịch sử “nhiều”
và “khó nhớ”.
Tại trường THCS Quảng Thành việc giảng dạy Lịch sử (nói chung), dạy
bài 19 (nói riêng) còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Ngoài những bất cập nêu
trên, ở một trường miền núi, điều kiện tiếp cận với các kênh thông tin hạn chế,
cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, trình độ của học sinh đa số ở mức trung
bình, thậm chí dưới trung bình....Thêm vào đó, phương tiện gần như là duy nhất
cung cấp kiến thức cho học trò là sách giáo khoa. Cho nên người thầy đóng vai
trò quan trọng trong việc cung cấp kiến thức, truyền tải những thông tin hữu ích
đến các em. Việc giảng dạy tại lớp với một khối lượng kiến thức lớn như bài 19
khiến học sinh khó tiếp thu bài học, khó hình thành biểu tượng và những kĩ năng
cần thiết.
Từ thực trạng nêu trên, căn cứ vào nội dung chương trình, dựa vào thực tế
điều kiện của nhà trường, tôi đã đề xuất và được BGH nhà trường đồng ý cho tổ
chức bài học tại di sản văn hóa (khu di tích lịch sử Lam Kinh) để thực hiện bài
học nội khóa trong PPCT- Bài 19: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn(1428 – 1427)
trong 2 năm học 2017-2018, 2018-2019.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
Khi dạy bài 19 - Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn(1428 – 1427) tôi đã tổ chức
tiến hành bài học tại di sản văn hóa (khu di tích Lịch sử Lam Kinh)
2.3.1. Lí do lựa chọn dạy học tại si sản:
- Mục III- Phong trào đấu tranh chống xâm lược Minh và khởi nghĩa Lam Sơn
là nội dung kiến thức trọng tâm của bài 19. Để học sinh nắm được những kiến
thức cơ bản: Nguyên nhân bùng nổ, những nét cơ bản về diễn biến, kết quả, ý
nghĩa....ngoài việc sử dụng các phương pháp dạy học nêu vấn đề, thuyết trình,
sử dụng tranh ảnh, lược đồ... để tổ chức bài học trên lớp như thông thường tôi
nhận thấy nếu tổ chức bài học tại di sản sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc nâng
cao hứng thú, kết quả học tập và hình thành những kĩ năng cần thiết cho học

sinh
- Di sản văn hóa mà tôi lựa chọn để tiến hành bài học Lịch sử là Khu di tích lịch
sử Lam Kinh (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Di sản văn hóa này phù hợp với mục tiêu,
nội dung, thời lượng của bài học (Phong trào đấu tranh chống xâm lược Minh
và khởi nghĩa Lam Sơn). Về điều kiện tiến hành, địa điểm di sản văn hóa gần địa
bàn trường đóng. Địa điểm lựa chọn phù hợp với cơ sở vật chất nhà trường,


6
phương tiện đi lại cho học sinh, thuận lợi cho giáo viên trong quá trình tổ chức
2.3.2.Các biện pháp tổ chức thực hiện:
Tại nơi có di sản, bài học do giáo viên đảm nhiệm có thể tiến hành theo 2
cách: Một là, giáo viên tiến hành dạy học bình thường như ở trên lớp tại 1 phòng
riêng ở nơi có di sản, sau đó hướng dẫn học sinh tham quan những dấu vết,
chứng tích, hiện vật liên quan đến bài học. Hai là, giáo viên tiến hành bài học tại
phòng trưng bày hoặc nơi có những chứng tích, hiện vật của di sản. Khi dạy bài
19 (LS7) tôi lựa chọn cách thứ nhất giúp học sinh cụ thể hóa, củng cố, khắc sâu
kiến thức, nội dung bài học, tạo hứng thú học tập và phát triển năng lực cho các
em.
Kế hoạch tiến hành bài học cụ thể tại Khu di tích lịch sử Lam Kinh:
BÀI 19: CUỘC KHỞI NGHĨA LAM SƠN (1418 – 1427)
I. Địa điểm tổ chức bài học:
Khu di tích lịch sử Lam Kinh( Thọ Xuân, Thanh Hóa)
II. Chuẩn bị:
1. Giáo viên:
- Báo cáo BGH nhà trường, tổ nhóm chuyên môn về kế hoạch thực hiện bài dạy
thực địa, xin ý kiến nhà trường về phương tiện di chuyển, việc cử giáo viên
tham gia cùng (giáo viên cùng nhóm chuyên môn hoặc cán bộ Đoàn), y tế học
đường tham gia hỗ trợ học sinh...
- Khảo sát thực địa, làm việc với ban quản lí khu di tích Lam Kinh để xác định

cụ thể địa điểm tiến hành bài học, thời gian cụ thể, hướng dẫn điểm, những nội
dung cần hỗ trợ...
- Chuẩn bị các nội dung kiến thức trọng tâm của bài học, những kiến thức liên
quan đến di sản văn hóa.
- Chia nhóm: Chia lớp thành 4 nhóm, cử nhóm trưởng, định hướng những nội
dung cơ bản để học sinh chủ động chuẩn bị cho buổi học tập, giao nhiệm vụ cho
nhóm trưởng trong quá trình quản nhóm.
2. Học sinh:
- Chuẩn bị kiến thức về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X-XV?
Những kiến thức về anh hùng dân tộc Lê lợi, khu di tích Lịch sử Lam Kinh, lễ
hội Lam Kinh...
- Chuẩn bị trang phục, giầy dép....phù hợp với buổi học tập tại di sản, báo cáo
với bố mẹ về lịch trình học tập.
III. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức: Sau bài học, HS cần:
- Biết được trong gần 6 thế kỉ đầu thời độc lập phong kiến, nhân dân ta đã liên
tục tổ chức những cuộc kháng chiến lớn chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
- Nhận thức được tinh thần chiến đấu dũng cảm, truyền thống yêu nước của
nhân dân ta
- Trình bày được được những trận quyết chiến chiến lược tiêu biểu và tên tuổi
của các vị anh hùng dân tộc
2. Kỹ năng:


7
- Rèn luyện kỹ năng sử dụng lược đồ, bản đồ, hiện vật lịch sử
- Kĩ năng lập bảng thống kê, trình bày, phân tích sự kiện và rút ra nhận xét, đánh
giá
- Kĩ năng quan sát, thu thập thông tin, kĩ năng làm việc nhóm, thuyết trình,
tương tác....

3. Thái độ:
- Bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc .
- Bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, lòng biết ơn đối với thế hệ cha anh đã quên mình
vì độc lập của tổ quốc.
4. Định hướng phát triển năng lực:
- Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, làm việc
nhóm
- Năng lực riêng: Tái hiện kiến thức, thực hành bộ môn, nhận xét, đánh giá
IV. Tiến trình thực hiện:
1. Chuẩn bị:
a.Giáo viên:
- Chuẩn bị nội dung bài dạy:
Phong trào đấu tranh chống quân Minh và khởi nghĩa Lam Sơn.
Phần kiến thức liên quan đến di sản là phong trào đấu tranh chống quân Minh và
khởi nghĩa Lam Sơn. Vì vậy, để đảm bảo nội dung bài học tôi chọn hình thức
dạy học tại phòng trưng bày của khu di tích Lam kinh
- Chuẩn bị điều kiện để tổ chức bài học tại di sản:
+ Báo cáo với BGH nhà trường, duyệt kế hoạch.
+ Liên hệ với Ban quản lí khu di tích Lịch sử Lam Kinh để được hỗ trợ về lịch
trình, thời gian, hướng dẫn...
+ Thông báo cho PHHS và học sinh về kế hoạch tổ chức bài học
+ Chia nhóm học sinh, phân công tổ chức, giao nhiệm vụ định hướng nội dung
để học sinh chuẩn bị
b. Học sinh:
- Chuẩn bị các kiến thức liên quan đến bài học, di sản văn hóa
- Hình thành nhóm theo sự phân công, giao nhiệm vụ cho các thành viên
2. Tiến trình bài học:
Hoạt động 1: Tổ chức học sinh tìm hiểu về các nhân vật Lê Lợi,
Nguyễn Trãi.
Phần này, tôi thực hiện dạy học bình thường tại Phòng trưng bày của khu di

tích Lam kinh để học sinh nắm được những kiến thức trọng tâm.
- Lê Lợi là người yêu nước, thương dân, có uy tín lớn.
- NguyễnTrãi là người học rộng tài cao, giàu lòng yêu nước. Nguyễn
Trãi (1380 – 1442), hiệu là Ức Trai, là người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa
Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc)
với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở
thành khai quốc công thần. Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể
của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, nhà Trần. Năm 1442, toàn thể gia đình


8
Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê
Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn,
có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.
- Lấy cớ Hồ Quý Ly tước ngôi nhà Trần, cuối thu tháng 9 năm 1406, triều Minh
Trung Quốc đưa 80 vạn quân sang tấn công, xâm lược nước ta. Dưới chế độ tàn
bạo, hà khắc của nhà Minh, nhân dân ta phải sống nô lệ lầm than cùng cực nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Chứng kiến những tội ác tày trời của giặc
Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nổi dậy, tiêu biểu là cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi làm chủ soái đã thu hút được sức mạnh toàn dân tộc
đứng dậy đánh đuổi giặc Minh hết sức quyết liệt và đều khắp trong cả nước.
Trong phong trào đấu tranh vũ trang chống quân Minh giải phóng dân tộc
đầu thế kỷ XV, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi
xướng. Cuộc khởi nghĩa đó đã diễn biến như thế nào, kết quả ra sao ta tìm hiểu
bài 19. ở tiết học này chúng ta sẻ tìm hiểu cuộc khởi nghĩa ở Miền Tây Thanh
Hoá.
- Đầu năm 1416, Lê Lợi + 18 người tổ chức hội thề Lũng Nhai
- Ngày 2.1 Mậu Tuất (7.2.1418) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự
xưng là Bình Định Vương.
* Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn

- Thiếu quân sỹ
- Thiếu lương thực
- Năm 1418 Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 1
- Quân Minh huy động quân bắt Lê Lợi, Lê Lai liều chết cứu chủ tướng
- Năm 1421, quân Minh mở cuộc càn quét buộc ta rút lên núi Chí Linh lần
thứ hai.
- Năm 1423 Llợi quyết định hoà hoãn với quân Minh .
- Năm 1424 quân Minh trở mặt tấn côngrút lên núi Chí Linh lần 3->
k/n Lam Sơn chuyển sang giai đoạn mới.
Với cách làm trên, học sinh vừa nắm được những kiến thức trọng tâm của bài
học, vừa phát huy được kĩ năng giao tiếp, trình bày, kĩ năng hợp tác, làm việc
theo nhóm vốn là hạn chế của học sinh các trường THCS.
Hoạt động 2: Tổ chức học sinh tìm hiểu về Phong trào đấu tranh chống
quân Minh và khởi nghĩa Lam Sơn (30 phút)
Để tổ chức cho học sinh tìm hiểu về Phong trào đấu tranh chống quân
Minh và khởi nghĩa Lam Sơn tôi sử dụng phương pháp dạy học theo dự án, tổ
chức cho học sinh hoạt động nhóm để tìm hiểu kiến thức mới. Việc xác định các
nhiệm vụ của dự án, phân chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm, đề nghị cử
nhóm trưởng, thư kí được tiến hành từ cuối bài học trước để học sinh chủ động
chuẩn bị theo yêu cầu của thầy cô.
+ Nhóm 1: Trình bày bối cảnh nước ta cuối TK XIV- đầu TK XV, từ đó rút ra
nguyên nhân bùng nổ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
+ Nhóm 2: Giới thiệu những nét cơ bản về diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn.


9
+ Nhóm 3: Nêu vai trò của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xác định ý
nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong lịch sử dân tộc.
+ Nhóm 4: Giới thiệu sơ lược về khu di tích Lam Kinh. [5].

Học sinh hình thành nhóm, tham quan khu di tích Lam Kinh, thảo luận tìm
hiểu nội dung được phân công. Ngoài tư liệu học sinh thu thập được qua SGK,
tư liệu qua Internet...học sinh còn được nghe cán bộ khu di tích thuyết minh,
hướng dẫn. Học sinh cũng có thể trực tiếp hỏi cán bộ khu di tích, chia sẻ những
băn khoăn của mình trong quá trình tìm hiểu kiến thức mới. Giáo viên cũng định
hướng cho học sinh để học sinh có thể sử dụng các chứng tích, hiện vật trong
bảo tàng hoặc khu di tích làm đồ dùng trực quan trong bài thuyết trình của
mình.
Hoạt động 3: Tổ chức học sinh báo cáo kết quả sau khi tham quan, làm
việc nhóm (25 phút)
Đây là kết quả làm việc của học sinh và cũng là mục tiêu bài học. Học sinh
trở lại phòng học ban đầu và báo cáo kết quả học tập dưới sự điều hành, hướng
dẫn của thầy cô. Quá trình học sinh hoàn thành nhiệm vụ và trình bày kết quả
trước lớp chính là quá trình các em giải quyết vấn đề một cách chủ động. Học
sinh cử đại diện các nhóm trình bày sản phẩm:
+ Nhóm 1: Trình bày bối cảnh nước ta cuối TK XIV- đầu TK XV, từ đó rút ra
nguyên nhân bùng nổ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
+ Nhóm 2: Giới thiệu những nét cơ bản về diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn.
+ Nhóm 3: Nêu vai trò của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xác định ý
nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong lịch sử dân tộc.
+ Nhóm 4: Giới thiệu sơ lược về khu di tích Lam Kinh.
Giáo viên và cả lớp lắng nghe phần trình bày của đại diện các nhóm. Giáo
viên sử dụng máy chiếu, cung cấp những thông tin phản hồi, giúp học sinh đối
chiếu với sản phẩm của mình để tự nhận xét và đánh giá. Giáo viên nhận xét,
đánh giá kết quả của từng nhóm. Cụ thể:
* Bối cảnh nước ta cuối TK XIV- đầu TK XV, từ đó rút ra nguyên nhân
bùng nổ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
- Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Năm 1400, nhà Hồ thành lập. Cuộc cải
cách của hồ Quý Ly chưa đạt được kết quả mong muốn thì quân Minh xâm lược

nước ta. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại. Năm 1407, nước ta rơi vào ách
đô hộ của nhà Minh. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bùng lên khắp cả nước
nhưng đều bị đàn áp.
- Chính sách đô hộ tàn bạo của nhà Minh: Đẩy mạnh vơ vét của cải, bóc lột nhân
dân ta một cách tham tàn; Đồng hóa dân tộc ta bằng nhiều thủ đoanh hiểm độc
(hủy diệt văn hóa, bắt nhân dân ta thay đổi phong tục tập quán...)... là nguyên
nhân làm bùng nổ các cuộc đấu tranh của nhân dân ta đặc biệt là khởi nghĩa Lam
Sơn
* Giới thiệu những nét cơ bản về diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn.


10
Năm 1416, tại Lũng Nhai, Lê Lợi cùng 18 người bạn chiến đấu kết nghĩa
anh em, nguyện một lòng đánh giặc cứu nước. Đây là cơ sở cho sự hình thành
hạt nhân đầu tiên của bộ tham mưu khởi nghĩa.
- Ngày 7/2/1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự xung là Bình Định
vương, truyền hịch kêu gọi nhân dân nổi dậy cứu nước. Nghĩa quân bước vào
cuộc chiến đấu với quân thù trong tương quan so sánh lực lượng hết sức chênh
lệch. Những tháng năm đầu tiên, nghĩa quân đã 2 lần phải rút lên núi Chí Linh
( 1418, 1419) . Và trong lần thứ 2, Lê Lai đã phải xả thân cứu chúa (học sinh
liên hệ miếu thờ Lê Lai trong khu di tích Lam Kinh, lễ hội Lam Kinh 21, 22/8
âm lịch “21 Lê Lai, 22 Lê Lợi”)
- Đầu năm 1423, quân địch mở cuộc tiến công mới, Lê Lợi buộc phải đưa quân
về núi Chí Linh lần thứ 3 để củng cố lực lượng. Từ 5/1423 đến 10/1424 là thời
kì nghĩa quân Lam sơn tạm thời hòa hoãn với địch , chuẩn bị các điều kiện cho 1
giai đoạn mới.
- Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển hướng vào
Nghệ An vì đó là “nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông, rồi dựa vào đấy rồi quay
ra đánh lấy Đông Đô”. Nghĩa quân đã đánh thắng trận Đa Căng, hạ thành Trà

Lân, Khả Lưu- Bồ Ái... mở rộng vùng giải phóng nối liền từ Thanh Hóa đến đèo
Hải Vân .
=>Như vậy, từ 10/1424 đến 8/1425 nghĩa quân Lam Sơn giành những thắng lợi
có ý nghĩa chiến lược to lớn, làm thay đổi cục diện chiến tranh và so sánh lực
lượng, tạo thế và lực đưa chiến tranh cứu nước lên giai đoạn toàn thắng
- Nhân lúc địch đang ở thế suy, 9/1426 nghĩa quân tiến ra Bắc bằng 3 đạo quân.
Chiến thắng Tốt Động- Chúc Động (11/1426), Chi Lăng- Xương Giang (8/103/11/1427) đã kết thúc toàn thắng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
* Nêu vai trò của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xác định ý
nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong lịch sử dân tộc.
-Vai trò của Lê Lợi: Dấy binh khởi nghĩa, lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh
đuổi giặc Minh xâm lược, giành độc lập cho dân tộc
- Ý nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn:
+ Kết thúc 20 năm đô hộ của nhà Minh, mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân
tộc- thời Lê Sơ
+ Thể hiện tinh thần yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng và quyết tâm chống
xâm lược của nhân dân ta
+ Để lại những bài học quý báu về nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với
ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
* Giới thiệu sơ lược về khu di tích Lam Kinh.
Khu di tích lịch sử Lam kinh cách thành phố Thanh Hóa 50 km về phía
Tây. Nằm trên địa bàn xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa. Đây là quê hương của người anh hùng dân tộc Lê lợi, là nơi phát
tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427).
Về diện mạo, khu di tích gồm :
- Chính điện Lam Kinh: Được xây dựng ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà


11
(1443), gồm 3 tòa điện chính: Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Hiện nay
khu vực này chỉ còn lại dấu tích nền móng với 127 tảng kê chân cột, nền lát, bó

vỉa cùng một số hiện vật khác.
- Thái miếu: Là nơi thờ tổ tiên, các vị vua và hoàng hậu nhà Lê.
- Sân rồng: Là một trong những kiến trúc có diện tích lớn nhất trong khu vực
trung tâm của điện Lam kinh, nằm phía sau Ngọ Môn, chính giữa có 3 lối đi lên
chính điện theo bậc thềm rồng
- Khu mộ Lê Thái Tổ: được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng ở phía Nam
chân núi Dầu. Năm 1995, lăng vua được trùng tu, xây lại bằng gạch, bên ngoài
ốp đá đục nhám.
- Bia Vĩnh Lăng: Được làm bằng đá nguyên khối, cao 2m79, rộng 1m94 đăth
trên lưng rùa đá. Nội dung văn bia ghi lại thân thế, sự nghiệp của vua Lê Thái
Tổ. Đây là 1 công trình điêu khắc có giá trị nghệ thuật cũng là nguồn tư liệu lịch
sử quý giá để nghiên cứu về thời kì Lê sơ
- Ngoài ra, khu di tích còn có đền thờ vua Lê Thái Tổ, lăng mộ vua Lê Túc Tông
và bia Kính Lăng, lăng mộ vua Lê Hiến Tông và bia Dụ Lăng, lăng mộ vua Lê
Thánh Tông và bia Chiêu Lăng, lăng mộ vua Lê Thái Tông và bia Hựu lăng,
lăng mộ hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Giao và bia Khôn Nguyên Chí đức, cầu
Bạch, hồ Như Áng, núi Dầu.... cùng nhiều công trình phụ trợ, nhiều di vật, cổ
vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học.
Tại khu di tích, cứ đến tháng Tám âm lịch hàng năm, vào ngày giỗ Lê lai
(21), Lê Lợi (22), nhân dân trong vùng lại long trọng tổ chức lễ hội để tưởng
nhớ các vị anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện ước vọng cầu cho
mưa thuận gió hòa, đời sống ấm no hạnh phúc.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt của di tích, ngày
27/9/2012, thủ tướng chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích Lịch sử và kiến
trúc nghệ thuật Lam kinh là di tích quốc gia đặc biệt ( Quyết định số 1419/QĐTTg) [14].
Hoạt động 4: Bài tập củng cố (15 phút)
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài tập trắc nghiệm để kiểm tra việc
học tập, tiếp thu bài học của các em. Nội dung đề kiểm tra như sau:
Câu 1. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”

Những câu trên đã nhắc đến:
A. Tội ác của nhà Hán đối với dân ta
B. Tội ác của giặc Tống đối với quân ta
C. Tội ác của giặc Nguyên Mông đối với dân ta
D. Tội ác của giặc Minh đối với dân ta
Câu 2. Mùa xuân năm 1418 đã diễn ra sự kiện nào trong lịch sử chống ngoại
xâm của dân tộc ta?
A. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất bùng nổ
B. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai bùng nổ
C. Cuộc kháng chiến chống Tống bùng nổ


12
D. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược bùng nổ
Câu 3. Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn từ cuối TK XIV- đầu TK XV phản ánh
quy luật nào của lịch sử?
A. Kiên quyết chống giặc ngoại xâm
B. Có áp bức, có đấu tranh
C. Lấy chí nhân để thay cường bạo
D. Vừa kiên quyết, vừa mền dẻo trong đấu tranh
Câu 4. Địa danh quan trọng gắn liền với những hoạt động của nghĩa quân Lam
Sơn trong những năm đầu khởi nghĩa là:
A. Lam Kinh
B. Núi Chí Linh
C. Thành Đa căng
D. Đồng bằng Nghệ An
Câu 5. Vùng đất thiêng “địa linh, nhân kiệt” nằm bên tả ngạn sông Chu, nơi Lê
Lợi dựng cờ khởi nghĩa là:
A. Thọ Xuân
B. Lang Chánh

C. Lam Sơn
D. Lam Kinh
Câu 6. “Mùa đông, năm Bính Thân (1416) vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng thân
cận của nhà vua, liên danh hội thề nguyện sống chết có nhau”.
Ý văn trên đã nhắc đến sự kiện nào?
A. Hội nghị Bình Than
B. Hội nghị Diên Hồng
C. Hội thề Lũng Nhai
D. Hội thề Đông Quan
Câu 7. Di tích lịch sử nằm trên địa phận huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá, thờ
người đã có công “liều mình cứu Chúa” là
A. Đền thờ Nguyễn Chích
B. Đền thờ Nguyễn Mộng Tuân
C. Đền thờ Lê Lai
D. Đền thờ Nguyễn Trãi
Câu 8. Sự kiện nào sau đây tạo bước ngoặt trong quá trình phát triển của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn?
A. Hạ thành Đa căng (1424)
B. Tiến vào Nghệ An (1424)
C. Đánh thành Đông Quan (1426)
D. Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang (1427)
Câu 9. Nhận định sau đây nhắc đến nhân vật lịch sử nào?
“..... thể chất anh vĩ, miệng rộng, trán cao, thân dài 6 thước, dáng đi như
rồng cuộn, bước đi như hổ ngồi, hào quang tỏa khắp người, tiếng nói vang như
chuông…”
A. Lê Thận


13
B. Nguyễn Trãi

C. Lê Lai
D. Lê Lợi
Câu 10. Cổ vật này nằm cách lăng mộ Lê Thái Tổ khoảng 300 m đường chim
bay về phía Tây Nam, nội dung do Nguyễn Trãi soạn lời, ghi về gia tộc, ngày
mất, thân thế, sự nghiệp của Lê Thái Tổ và những diễn biến chính của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Đó là cổ vật nào?
A. Bia ký của Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao
B. Bia Vĩnh Lăng
C. Bia Khôn Nguyên Trí Đức
D. Bia Kính Lăng
Câu 11: Chiến thắng oanh liệt nào kết thúc cuộc khởi nghĩa Lam Sơn buộc nhà
Minh phải từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta?
A. Chiến thắng Tốt Động- Chúc Động
B. Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang
C. Chiến thắng ở thành Đa căng
D. Chiến thắng ở thành Đông Quan
Câu 12: Chiến thắng nào mở đường cho nghĩa quân Lam Sơn tiến vào giải
phóng Nghệ An?
A. Chiến thắng hạ thành Trà Lập
B. Chiến thắng hạ thành Đa căng
C. Chiến thắng hạ thành Trà Lân
D. Chiến thắng ở thành Đông Quan
Câu 13. Chiến thắng nào đã đánh bại hoàn toàn cuộc phản công của ngót 10 vạn
quân do Vương Thông chỉ huy, đẩy quân địch lún sâu vào thế phòng ngự bị
động?
A. Chiến thắng Tốt Động- Chúc Động
B. Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang
C. Chiến thắng ở thành Đa căng
D. Chiến thắng ở thành Đông Quan
Câu 14. “Vua dấy nghĩa binh, chưa từng giết bừa một người nào. Chỉ biết lấy

mềm chống cứng, lấy yếu địch mạnh, lấy ít thắng nhiều, không đánh mà khuất
phục được người, cho nên có thể đổi vận bĩ sang vận thái, chuyển thế nguy
thành thế yên, đổi cuộc loạn thành cuộc trị”( Trích: Đại Việt sử kí toàn thư)
Câu nói trên nhắc đến:
A. Lê Thái Tổ
B. Lê Thái Tông
C. Nguyễn Trãi
D. Lê Lai
Câu 15.
“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị bắt tù, xin thương hại vẫy đuôi cầu sống....
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”


14
Tác giả của những câu thơ trên là ai?
A. Lý Thường Kiệt
B. Lê Thánh Tông
C. Trần Quốc Tuấn
D. Nguyễn Trãi
Ngoài bài tập trắc nghiệm, tôi còn giao bài tập về nhà cho học sinh để
kiểm tra mức độ hiểu bài đồng thời cũng là cơ sở để phát hiện, bồi dưỡng những
học sinh khá, giỏi. Nội dung câu hỏi như sau:
Câu 1: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta từ thế kỉ X-XV?
Câu 2: Phân tích sự kết hợp với đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao để kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn
(thế kỉ XV)?
V. Tổng kết:

- Giáo viên thu bài tập, đánh giá kết quả thông qua quá trình học tập, sản phẩm
nhóm và sản phẩm cá nhân.
- Giáo viên nhận xét về ý thức tham gia, tinh thần học tập của các thành viên
trong lớp, sự tương tác giữa các thành viên trong các nhóm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1.Với hoạt động giáo dục:
Bài học lịch sử là hình thức tổ chức cơ bản của quá trình dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Bài học lịch sử không chỉ được tiến hành trên lớp mà còn
được tiến hành tại nơi có di sản văn hóa. Việc tiến hành bài học lịch sử tại nơi có
di sản văn hóa là vô cùng cần thiết trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay. Kết quả thực tế giảng dạy Bài 19- Lịch sử lớp 7 tại khu di tích lịch sử
Lam Kinh (Thọ Xuân, Thanh Hóa) của bản thân trong 2 năm học 2017-2018 và
2018-2019 tại trường THCS Quảng Thành như sau:
Về kiến thức: Học sinh nắm được các kiến thức trọng tâm của bài học
(những nét chính về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV
đặc biệt là về phong trào đấu tranh chống xâm lược Minh và khởi nghĩa Lam
Sơn). Tiến hành bài học nội khóa tại khu di tích lịch sử Lam Kinh giúp học sinh
phát triển nhận thức sâu sắc bởi di sản chính là những dấu vết, bằng chứng của
quá khứ về các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã diễn ra. Việc quan sát trực tiếp
hiện vật, những bằng chứng, những dấu vết từ quá khứ để lại giúp cho quá trình
hình thành biểu tượng lịch sử của học sinh thực sự dễ dàng hơn, tự nhiên hơn và
dễ gây được hứng thú cho học sinh trong suốt quá trình học tập. Bởi thế, cả 4
lớp được học tập tại di sản đều có kết quả bài kiểm tra tốt hơn. Học sinh vừa hào
hứng chuẩn bị cho bài học, chủ động, tự nguyện chiếm lĩnh kiến thức vừa được
trải nghiệm di sản, hình thành những kĩ năng cần thiết dưới sự định hướng của
thầy cô và sự giúp đỡ của người hướng dẫn. Việc ghi nhớ kiến thức của đa số
học sinh được tiến hành ngay trong quá trình học tập, trao đổi, thảo luận. Giờ
học thực sự không nặng nề, mang tính chất thông báo sự kiện cũng không nhàm



15
chán, tẻ nhạt như nhiều bài học được tiến hành tại lớp học.
Về tư tưởng, tình cảm: Qua bài học giáo dục học sinh lòng yêu nước, lòng
tự hào về những chiến công của cha ông, tình yêu đối với quê hương, đất nước
và trách nhiệm đối với việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa (nói chung) di sản
văn hóa địa phương (nói riêng). Chính bài học tại thực địa là bài học chân thực
nhất bởi “tham quan là hình thức dạy học rất hấp dẫn, tạo được hứng thú đối
với các lứa tuổi học sinh, có ý nghĩa giáo dục rất lớn về thực tế cuộc sống”[11]
Về kĩ năng: Thông qua bài học tại di sản, các kỹ năng bộ môn và kỹ năng
sống nói chung của học sinh được rèn luyện. Đó là kĩ năng tự học, tự tìm hiểu
kiến thức, kĩ năng quan sát, tiếp nhận thông tin, kĩ năng trao đổi, hợp tác làm
việc nhóm, kĩ năng thuyết trình .... Điều quan trọng nhất tôi nhận thấy đối với
học sinh trường THCS Quảng Thành là các em tích cực, chủ động hơn trong quá
trình học tập. Đây là điều còn hạn chế trong nhiều giờ học tại lớp. Từ khâu
chuẩn bị cho buổi học (phân chia nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm, lên
kế hoạch cụ thể...) đến khâu tìm hiểu kiến thức mới (tìm tòi, khám phá, hoàn
thành báo cáo, vận dụng kiến thức, sự hiểu biết của cá nhân, xử lí các tình huống
tại di sản...) đều được học sinh tiến hành một cách chủ động và có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa các thành viên trong nhóm với nhau, với thầy cô, cán bộ di sản
và với di sản. Điều đó giúp học sinh có được thái độ, tình cảm chân thực, đúng
đắn với di sản và qua trải nghiệm di sản giúp các em phát triển tốt hơn các kĩ
năng.
Tóm lại, tổ chức bài học lịch sử tại di sản văn hóa là một hình thức dạy học
có ý nghĩa lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh. Đây cũng là một trong
những giải pháp quan trọng góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở trường
phổ thông cần được chú ý khuyến khích thực hiện. Hiệu quả bài học là kết quả
bài kiểm tra của học sinh, cụ thể như sau:
Lớp dạy


Giỏi
Khá
Trung
Yếu,
Ghi
số
bình
kém
chú
SL %
SL %
SL %
SL %
Năm
4 2 55. 1 33. 5 11. 0 0
Lớp thực nghiệm 7A
học
5 5 6
5 3
1
20174 3 68. 1 27. 2 4.5 0 0
Lớp thực nghiệm 7B
1018
4 0 2
2 3
4 5 12. 1 42. 1 25. 8 20
Lớp đối chứng 7C
0
5
7 5

0 0
4 8 19. 1 29. 1 34. 7 17.
Lớp đối chứng 7D
1
5
2 3
4 1
1
Năm
3 1 48. 1 45. 2 5.4 0 0
Lớp thực nghiệm 7C
học
7 8 6
7 9
20183 2 57. 1 31. 4 11. 0 0
Lớp thực nghiệm 7D
2019
5 0 1
1 4
4
3 7 19. 1 36. 1 27. 6 16.
Lớp đối chứng 7A
6
4
3 1
0 8
7


16

3 5 13. 1 31. 1 31. 9 23.
8
2
2 6
2 6
7
2.4.2.Với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Việc tổ chức thành công bài học tại di sản trong 2 năm học 2017-2018,
2018-2019 đối với 4 lớp học sinh đầu cấp đã khiến bản thân tôi, đồng nghiệp và
lãnh đạo nhà trường có cái nhìn toàn diện hơn về quá trình đổi mới phương pháp
dạy học, các hình thức dạy học và hiệu quả của nó:
- Với bản thân và đồng nghiệp: Sự hứng thú của học sinh và kết quả mà giờ học
thực địa mang lại là động lực để chúng tôi tiếp tục coi đó là một trong những
biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Vì vậy, ngay từ đầu năm học,
bản thân tôi đã cùng các đồng chí trong nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch
dạy học tại di sản. Việc thảo luận các nội dung có thể dạy học tại di sản, lựa
chọn di sản, cách thức tiến hành bài học tại di sản... cũng là một trong những nội
dung của nhóm trong các buổi SHCM. Các đồng chí trong nhóm đều nhận thấy
rằng: bài học tại di sản nâng cao hứng thú, kết quả học tập và phát triển năng lực
cho học sinh và dạy học tại di sản là hình thức dạy học hiệu quả cần được
khuyến khích thực hiện. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau, việc tiến hành bài
học tại di sản trong 2 năm qua của nhóm Sử, trường THCS Quảng Thành cũng
chỉ mới dừng lại ở việc thực nghiệm ở một số lớp.
- Với nhà trường: Các đồng chí trong BGH đã tạo điều kiện cho CBGV thực
hiện bài học tại di sản khi nhận thấy những phản hồi tích cực từ giáo viên và học
sinh. Kết quả giáo dục của các lớp được học tập tại di sản cao hơn hẳn so với
các lớp khác. Không những thế, học sinh rất hứng thú khi được tham gia học tập
tại di sản.Tính chủ động, tự giác và nhiều kĩ năng cần thiết ở học sinh được hình
thành trong quá trình học tập. Mặc dù vậy, kinh phí (đặc biệt đối với những di
sản ở xa trường), việc quản lí học sinh, độ an toàn... là những trở ngại mà BGH

nhà trường lo lắng khiến cho việc dạy học tại di sản đối với môn Sử, Địa... còn
hạn chế (chỉ thực hiện ở 1 số lớp, với 1 số giáo viên)

Lớp đối chứng 7B


17

3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận
Có rất nhiều cách để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Mỗi giáo viên cần tìm hiểu và lựa chọn những phương pháp, cách thức tổ chức
giờ dạy hiệu quả. Tuy nhiên, người giáo viên Lịch sử nhất thiết phải nhận thức
rõ được giá trị và vai trò của di sản văn hóa, coi di sản văn hóa Việt Nam là
nguồn tài nguyên vô tận để dạy và học suốt đời. “Di sản văn hóa dù dưới dạng
vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá trình giáo dục, dạy học
dưới hình thức tạo môi trường, tạo công cụ hoặc là nguồn cung cấp chất liệu để
xây dựng nội dung dạy học, giáo dục. Bộ môn lịch sử có ưu thế trong việc sử
dụng các di sản văn hóa như là nguồn tri thức, là phương tiện để dạy học bộ
môn” [12 ]
Có thể khai thác, sử dụng tư liệu về di sản để tiến hành bài học nội khóa
tại lớp học, tại nơi có di sản; Có thể tổ chức cho học sinh tham quan ngoại khóatrải nghiệm di sản; Cũng có thể sử dụng di sản để tổ chức triển lãm, ra báo học
tập, thi tìm hiểu về di sản, tổ chức cho học sinh chăm sóc bảo vệ di sản.... [2].
Tất cả đều mang lại hiệu quả cao trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, với cương vị
là người trực tiếp đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy tổ chức bài học tại di sản
văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đổi mới phương pháp
dạy học ở trường phổ thông cần được chú ý khuyến khích thực hiện bởi nó
mang lại hiệu quả cao trên cả ba mặt: nhận thức, kỹ năng và thái độ cho học
sinh.
Tuy nhiên, muốn phát huy hiệu quả hình thức tổ chức dạy học này, giáo

viên cần nắm vững những yêu cầu, nguyên tắc tổ chức, chuẩn bị chu đáo các
điều kiện liên quan, đồng thời, kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp dạy học phù
hợp với đặc trưng bộ môn. Tôi đã vận dụng vào giảng dạy bài 19 tại khu di tích
Lịch sử Lam Kinh trong 2 năm học 2017 - 2018 và 2018 - 2019 đạt kết quả tốt,
được đồng nghiệp ghi nhận.
- Kiến nghị
Tổ chức dạy học Lịch sử tại thực địa mang lại kết quả cao trên cả 3
phương diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ. Tuy nhiên, để việc dạy học tại thực
địa được thực hiện một cách thường xuyên, tôi đề nghị:
- BGH các nhà trường cần có sự đầu tư kinh phí, tạo điều kiện về thời
gian, cử lực lượng phối hợp (cán bộ Đoàn TN, nhân viên y tế học đương...) để
các giáo viên Lịch sử có thể xây dựng kế hoạch và tổ chức hiệu quả các bài học
tại thực địa


18
- Cán bộ quản lí các di sản văn hóa và phụ huynh học sinh tạo điều kiện
cho học sinh và giáo viên trong quá trình tìm hiểu cũng như tổ chức học tập.
- Giáo viên Lịch sử ở các nhà trường hãy nhận thức đúng về vai trò của di
sản văn hóa, dạy học tại di sản văn hóa trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
Sự tìm tòi, chuẩn bị kĩ lưỡng của giáo viên cũng là khâu quan trọng để tạo nên
thành công của giờ học. Thêm vào đó, giáo viên cũng chính là lực lượng nghiên
cứu chương trình, lựa chọn những nội dung có thể dạy học với di sản, tìm hiểu
về di sản để thực hiện bài dạy hiệu quả.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

TP Thanh Hóa, ngày 02 tháng 6 năm 2020.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung

của người khác.

Trần Thị Phương


19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 29- NQ/TW
2. Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông - Tài liệu tập huấn, Bộ
GD&ĐT- Bộ VHTT& DL, Hà Nội, 2013.
3. Phương pháp dạy học lịch sử, Phan Ngọc Liên, Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình
Tùng, NXB ĐHSP Hà Nội , 2002.
4. Dạy học lịch sử thông qua các di sản, Phạm Mai Hùng - Hội khoa học lịch sử
Việt Nam
5. Tổ chức bài học Lịch sử tại di sản văn hóa cho học sinh các trường THPT
Tỉnh Thanh Hóa, ThS Nguyễn Thị Vân, Khoa khoa học xã hội- Trường Đại học
Hồng Đức, Thanh Hóa.
6. Di tích lịch sử và việc giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông, PGS.TS Hoàng
Thanh Hải, Tạp chí Xưa và nay 4/1996.
7. Sử dụng di tích lịch sử cách mạng trong dạy học lịch sử tại thực đại” PGS.TS
Hoàng Thanh Hải, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, 2/1997.
8. Tổ chức hướng dẫn cho học sinh phổ thông tham gia các lễ hội xuân tại di tích
lịch sử” PGS.TS Hoàng Thanh Hải, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, 5/1997.
9. Giáo dục ý thức tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cho học
sinh qua môn lịch sử”, PGS.TS Hoàng Thanh Hải, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục,
Số 308, 2013).
10. “Sử dụng di sản văn hóa vật chất nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường
THPT các tỉnh miền núi phía Bắc, Ngô Thị Lan Hương, Tạp chí giáo dục số
321, 2013.

11. Giáo trình Giáo dục học, Phạm Viết Vượng, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội,
2000
12. Dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển
năng lực học sinh môn Lịch sử cấp THCS và THPT, Tài liệu tập huấn, tháng
5/2014, Bộ giáo dục và Đào.
13. SGK Lịch sử Lớp 10 NXB Giáo dục, 2013
14. Nguồn Internet


20

MỤC LỤC

1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
1.5 Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiếm kinh nghiệm
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để
giải quyết vấn đề
2.3.1 Lí do chọn dạy học tại bảo tàng lịch sử
2.3.2 Các biện pháp tổ chức thực hiện
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1 Với hoạt động giáo dục
2.4.2 Với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
3
3
4
5
5
6
14
14
15
17
17
17



×