Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học chương chất khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC
VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM ĐƠN
GIẢN SAU KHI HỌC CHƯƠNG “CHẤT KHÍ”
(SGK VẬT LÍ 10 THPT)

Người thực hiện: Phạm Văn Hoan
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Vật lí

THANH HOÁ NĂM 2020

1


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3
MỤC LỤC

Trang

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC


VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM ĐƠN
GIẢN SAU KHI HỌC BÀI “CHUYỂN ĐỘNG THẲNG ĐỀU”
(SGK VẬT LÍ 10 THPT)

Người thực hiện: Phạm Văn Hoan
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Vật lí

THANH HOÁ NĂM 2018

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài…………............…...…….………………….......
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………...................……………….
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………
1.4. Phương pháp nghiên cứu…………….….......…………………….
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm...
2.1.1. Vị trí, tác dụng và đặc điểm của hoạt động ngoài giờ.........................

3
3
4
4
4
5
5

5

2.1.2. Chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy
5
học Vật lí ở trường phổ thông…………………………………………..
2.1.3. Tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh trong học tập...
2.2. Thực trạng vấn đề………………………………………………..
2.2.1. Tình hình giảng dạy của giáo viên………………………………
2.2.2. Tình hình học tập của học sinh………………………………….
2.2.3. Tình hình thiết bị thí nghiệm của nhà trường…………………...
2.2.4. Nguyên nhân về thực trạng học tập của học sinh ………………….
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề...........................
2.3.1. Quy trình thực hiện.......................................................................
2.3.2. Các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực hiện
2.3.3. Sản phẩm của học sinh
2.3.4. Dự kiến những khó khăn mà học sinh gặp phải................................
2.3.5. Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm
với thiết bị đã chế tạo…………………………………………………
2.4. Tính khả thi của giải pháp....................................................................
2.5. Hiệu quả của giải pháp……………………………………………
2.5.1. Đối với học sinh............................................................................
2.5.2. Đối với bản thân giáo viên............................................................
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận...........................................................................................
3.2. Kiến nghị.........................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO

7
9
9

9
9
10
10
10
11
12
17
17
17
17
17
18
18
19
19
20

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

1


Những năm gần đây Việt Nam chúng ta đang đổi mới một cách căn bản,
toàn diện nền giáo dục để nền giáo dục nước nhà phát triển hòa nhập với quốc
tế, theo kịp với sự phát triển như vũ bão của khoa học - kĩ thuật - công nghệ và
tri thức của loài người đang gia tăng nhanh chóng. Đổi mới giáo dục toàn diện là
một lộ trình đã và đang được thực hiện, một trong những bước đi đầu tiên của
quá trình đổi mới ấy là đổi mới phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra

đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Trong các nghị quyết đại hội của Đảng, quốc hội và nhiều văn kiện khác
của Bộ Giáo dục & Đào tạo đều nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học
là một nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cấp học và bậc học ở nước ta nhằm
đào tạo những con người sáng tạo, tích cực, tự giác năng động, có năng lực giải
quyết vấn đề, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng
giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực
và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng những
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo
điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu, tự thưc nghiệm của học sinh...
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, vì vậy một trong những khâu
quan trọng của quá trình đổi mới phương pháp dạy học Vật lí là phải tăng cường
các hoạt động thực nghiệm của học sinh trong quá trình học tập. Học sinh không
những được làm quen và tiến hành thí nghiệm trong giờ học chính khóa mà còn
ở các giờ học tự chọn, không những trên lớp học mà còn ở ngoài lớp, ở nhà.
Việc đưa thí nghiệm vào dạy học làm cho học sinh tiếp cận với con đường
nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học và tiếp thu các kiến thức một cách dễ
dàng và sâu sắc hơn. Thông qua hoạt động thực nghiệm vật lí, học sinh sẽ được
củng cố, mở rộng kiến thức, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo; giáo dục tổng hợp và tinh thần làm việc tập thể;
kích thích sự hứng thú, phát huy cao độ tính tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo.

Việc tố chức cho học sinh tự thiết kế, chế tạo dụng cụ và tiến hành các thí
nghiệm đơn giản sẽ đem lại hiệu quả dạy học rất cao vì nó phù hợp với đặc thù
bộ môn, đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay là lấy người học làm
trung tâm. Lúc này học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí trong điều kiện không
có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên vì vậy đòi hỏi cao độ tính tự giác,
tự lực, tích cực của học sinh trong học tập. Cũng khác với các loại thí nghiệm
khác, thí nghiệm Vật lí ở nhà chỉ đòi hỏi học sinh sử dụng các dụng cụ thông
dụng trong đời sống, những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ thí
nghiệm đơn giản được học sinh chế tạo từ những vật liệu này. Chính đặc điểm
1


này tạo nhiều cơ hội phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong việc thiết
kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Quá trình dạy học chương “Chất khí” (SGK Vật lí 10 THPT), tôi nhận thấy
kiến thức chương này có sự liên hệ thực tiễn rất phong phú, rất gần gũi và có
nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Có thể sử dụng rất nhiều dụng cụ và
thí nghiệm đơn giản, dễ kiếm từ cuộc sống để minh họa cho bài học. Chính vì
vậy tôi đã giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh tự thiết kế, chế tạo và tiến hành
một số thí nghiệm đơn giản liên quan đến nội dung bài học của chương và nhận
thấy hiệu quả rất tốt của hoạt động này. Vì vậy tôi xin trao đổi kinh nghiệm với
các bạn đồng nghiệp qua đề tài SKKN năm 2020 của tôi là: “PHÁT HUY TÍNH
CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA
VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM ĐƠN GIẢN
SAU KHI HỌC CHƯƠNG “CHẤT KHÍ” (SGK VẬT LÍ 10 THPT).
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thông qua
việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học chương
“Chất khí” (SGK Vật lí 10 THPT).
1.3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động của học sinh lớp 10B1, 10B2 của trường
THPT Yên Định 3, trong hoạt động thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm
đơn giản liên quan đến nội dung chương “Chất khí” (SGK Vật lí 10 THPT).
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nghiên cứu tài liệu
Việc nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học Vật lí, thí nghiệm vật lí
phổ thông, bàn về việc tổ chức hoạt động ngoại giờ lên lớp nói chung và hoạt
động ngoài giờ của môn Vật lí nói riêng, giúp tôi có cơ sở xác định quy trình của
hoạt động thiết kế một số thí nghiệm vật lí lớp 10 nhằm phát huy tính tích cực và
bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
1.4.2. Điều tra khảo sát thực tế dạy học Vật lí lớp 10
Bản thân tôi thông qua dự giờ, phỏng vấn, phiếu điều tra học tập, tìm hiểu
trang thiết bị thí nghiệm để từ đó xây dựng qui trình hoạt động ngoài giờ cho phù
hợp.
1.4.3. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Hoạt động nghiên cứu, làm thử trước tất cả các thí nghiệm dự kiến giao cho
học sinh giúp cho tôi lường trước được những khó khăn trong quá trình làm thí
nghiệm để từ đó có phương pháp tổ chức và hướng dẫn học sinh phù hợp
1.4.4. Thực nghiệm sư phạm
Tổ chức và thực hiện kế hoạch của hoạt động ngoài giờ nhằm đối chiếu kết
quả đạt được với các nhiệm vụ đã đề ra và đánh giá mức độ hoàn thành so với mục
đích nghiên cứu của đề tài.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm
1


2.1.1. Vị trí, tác dụng và đặc điểm của hoạt động ngoài giờ
2.1.1.1. Vị trí

Trường trung học phổ thông có ba hình thức tổ chức đào tạo là: Dạy học
trên lớp, giáo dục hướng nghiệp dạy nghề, công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp.
2.1.1.2. Tác dụng
Hoạt động ngoài giờ lên lớp có mục đích bao trùm là hỗ trợ cho dạy học trên
lớp thể hiện ở các mặt sau:
- Tạo điều kiện gắn lí thuyết với thực tiễn, nội dung mềm dẻo và phương pháp sinh
động hơn, thời gian đỡ gò bó hơn.
- Tạo hứng thú học tập, bồi dưỡng tính ham hiểu biết
- Rèn cách thức hoạt động nhóm, tập thể, các phẩm chất, nhân cách học sinh
- Phát hiện và bồi dưỡng phẩm chất, năng lực lao động tập thể cho học sinh.
- Phát huy tính chủ động, tích cực, phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh.
2.1.1.3. Các đặc điểm của hoạt động ngoài giờ
- Số lượng học sinh tham gia là không hạn chế, không phân biệt học sinh giỏi, kém.
- Việc đánh giá kết quả các hoạt động ngoài giờ của học sinh thông qua: Sản
phẩm, tính tích cực, sáng tạo của học sinh, không cho điểm nhưng động viên
khích lệ học sinh kịp thời.
- Tổ chức các hoạt động ngoài giờ thường được lập kế hoạch ngay từ đầu năm
học.
- Hình thức tổ chức phong phú đa dạng.
2.1.2. Chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy học
Vật lí ở trường phổ thông
2.1.2.1. Các yêu cầu đối với việc chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản
- Dễ chế tạo dụng cụ thí nghiệm từ việc gia công các vật liệu bằng các công cụ
thông thường như kìm, tuavit, kéo, cưa, giũa. Chính nhờ đặc điểm này của các
dụng cụ thí nghiệm đơn giản, trong một số trường hợp, ta có thể làm được một
số thí nghiệm mà không thể tiến hành được với các dụng cụ có sẵn trong phòng
thí nghiệm.
- Dễ lắp ráp, tháo rời các bộ phận của dụng cụ thí nghiệm. Vì vậy, với cùng một
dụng cụ thí nghiệm, trong nhiều trường hợp ta chỉ cần thay thế các chi tiết phụ
trợ là có thể làm được thí nghiệm khác.

- Dễ bảo quản, vận chuyển và an toàn trong chế tạo cũng như trong quá trình bố
trí, tiến hành thí nghiệm.
- Việc bố trí và tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ thí nghiệm cũng đơn
giản, không tốn nhiều thời gian.
- Hiện tượng Vật lí diễn ra trong thí nghiệm với dụng cụ thí nghiệm đơn giản
phải rõ ràng, dễ quan sát.
- Việc chế tạo dụng cụ thí nghiệm đòi hỏi ít vật liệu. Các vật liệu này đơn giản,
rẻ tiền, dễ kiếm.
2.1.2.2. Sự cần thiết của việc sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong
dạy học Vật lí
- Lịch sử phát triển của Vật lí cho thấy: Những phát minh cơ bản thường gắn với
các dụng cụ thí nghiệm đơn giản để nghiên cứu nguyên tắc của những thí
1


nghiệm do các nhà bác học đã tiến hành (thí nghiệm của Ga-li-lê về chuyển
động nhanh dần đều trên máng nghiêng, thí nghiệm con lắc Huy-gen xác định
gia tốc trọng trường, thí nghiệm của Tô-ri-xe-li xác định áp suất khí quyển, các
thí nghiệm lịch sử về các định luật chất khí, các thí nghiệm của Fa-ra-đây về
cảm ứng điện từ...) góp phần chỉ ra cho học sinh thấy con đường hình thành và
phát triển các kiến thức Vật lí, bồi dưỡng cho học sinh các phương pháp nhận
thức Vật lí, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm.
- Học sinh được giao nhiệm vụ thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí
nghiệm đơn giản để tiến hành các thí nghiệm Vật lí có tác dụng trên nhiều mặt
góp phần nâng cao chất lượng kiến thức, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ thực tiễn độc lập và sáng tạo của học sinh.
- Học sinh được tự tay chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tiến hành
các thí nghiệm, học sinh nắm vững kiến thức hơn, chính xác và bền vững hơn.
Nhiều trường hợp, việc tiến hành thí nghiệm, giải thích hoặc tiên đoán kết quả
thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học ở nhiều phần
khác nhau của Vật lí. Thông qua đó, các kiến thức mà học sinh lĩnh hội được

củng cố, đào sâu, mở rộng và hệ thống hóa.
- Sử dụng các thí nghiệm đơn giản trong dạy học Vật lí ở trường phổ thông còn
cần thiết, bởi vì với các thiết bị có sẵn trong phòng thí nghiệm, trong nhiều
trường hợp, “cái hiện đại” của các thiết bị này che lấp mất bản chất Vật lí của
hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm mà học sinh cần nhận thức rõ.
- Dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm còn có ưu điểm là phục vụ rất kịp thời và
đắc lực cho việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả
dạy học, thậm chí của từng giờ học.
- Thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và tiến hành các thí nghiệm
là nhiệm vụ giúp học sinh làm tăng hứng thú học tập, tạo niềm vui vủa sự thành
công trong học tập, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của
học sinh.
2.1.2.3. Thí nghiệm Vật lí ở nhà là một loại bài tập mà giáo viên giao cho
từng học sinh hoặc nhóm học sinh thực hiện ở nhà
- Học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí trong điều kiện không có sự giúp đỡ, kiểm
tra trực tiếp của giáo viên.Vì vậy, loại thí nghiệm này đòi hỏi cao độ tự giác, tự
lực của học sinh trong học tập.
- Thí nghiệm Vật lí ở nhà chỉ đòi hỏi học sinh sử dụng các dung cụ thông dụng
trong đời sống, những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ thí nghiệm đơn
giản được học sinh chế tạo từ những vật liệu này. Chính đặc điểm này tạo nhiều
cơ hội phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong việc thiết kế, chế tạo và sử
dụng các dụng cụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Không những thế loại
thí nghiệm này khác với các loại bài làm khác của học sinh ở nhà ở chỗ: Nó đòi
hỏi sự kết hợp giữa hoạt động trí óc và hoạt động chân tay của học sinh. Vì vậy
thí nghiệm Vật lí ở nhà có tác dụng trên nhiều mặt đối với việc phát triển nhân
cách của học sinh: Quá trình tự lực thiết kế phương án thí nghiệm, lập kế hoạch
thí nghiệm, chế tạo hoặc lựa chọn dụng cụ, bố trí tiến hành thí nghiệm, xử lí kết
quả thí nghiệm thu thập được góp phần vào việc phát triển năng lực hoạt động
trí tuệ - thực tiễn của học sinh. Việc thực hiện và hoàn thành các công việc trên
1



sẽ làm tăng rõ rệt hứng thú học tập, tạo niềm vui của sự thành công trong học
tập của học sinh. Việc thiết kế phương án thí nghiệm, tiên đoán hoặc giải thích
các kết quả thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học, mà
nhiều khi ở các phần khác nhau của Vật lí. Nhờ vậy, chất lượng kiến thức của
học sinh được nâng cao. Thí nghiệm Vật lí ở nhà có tác dụng làm phát triển
những kĩ năng, kĩ xảo thí nghiệm, các thói quen của người làm thực nghiệm mà
học sinh đã thu được trong các loại thí nghiệm khác.
- Thí nghiệm cũng tạo điều kiện cho giáo viên cá thể hóa quá trình học tập của
học sinh bằng cách giao cho các đối tượng học sinh khác nhau nhiệm vụ chế tạo
dụng cụ thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm với mức độ khó dễ khác nhau, nông
sâu khác nhau và mức độ hướng dẫn khác nhau về cách chế tạo, lựa chọn dụng
cụ, tiến hành thí nghiệm... được thể hiện trong đề bài.
- Sử dụng loại thí nghiệm này trong dạy học Vật lí, giáo viên cần bố trí thời gian
để học sinh báo cáo trước toàn lớp các kết quả đã đạt được, giới thiệu những sản
phẩm của mình, nhận được sự đánh giá của giáo viên và tập thể cũng như động
viên và khen thưởng kịp thời.
- Làm thí nghiệm Vật lí ở nhà không những nhằm đào sâu, mở rộng các kiến
thức đã học mà trong nhiều trường hợp các kết quả mà học sinh thu được sẽ là
cứ liệu thực nghiệm cho việc nghiên cứu kiến thức mới ở các bài học sau trên
lớp. Nội dung của các thí nghiệm Vật lí ở nhà không phải là sự lặp lại nguyên xi
các thí nghiệm đã làm ở trên lớp mà phải có nét mới, không đơn thuần chỉ là sự
tiến hành thí nghiệm với những hướng dẫn chi tiết.
- Các loại bài làm ở nhà này rất phong phú, có thể ra nhiều dạng khác nhau: Mô
tả phương án thí nghiệm, yêu cầu học sinh tiến hành thí nghiệm, tiên đoán hoặc
giải thích kết quả thí nghiệm; cho trước các dụng cụ, yêu cầu học sinh thiết kế
phương án thí nghiệm để đạt được một mục đích nhất định (quan sát thấy một
hiện tượng, xác định được một đại lượng Vật lí); yêu cầu học sinh chế tạo một
dụng cụ thí nghiệm đơn giản từ các vật liệu cần thiết cho trước, rồi tiến hành thí

nghiệm với những dụng cụ này nhằm đạt được một mục đích nào đó...
2.1.3. Tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh trong học tập
2.1.3.1. Tính chủ động trong học tập của học sinh
a) Khái niệm tính chủ động trong học tập
Tính chủ động trong học tập là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở việc
làm chủ được hành động của bản thân, không bị ai chi phối về nhiều mặt trong
học tập. Vì vậy, nói tới chủ động học tập thực chất là nói đến chủ động nhận
thức và hoạt động theo định hướng của thầy cô.
b) Các biểu hiện của tính chủ động trong học tập
Tính chủ động của học sinh trong học tập biểu hiện qua các hành động cụ
thể như: chủ động tham gia vào các hoạt động học tập; chủ động đón nhận các
nhiệm vụ; chủ động thực hiện các nhiệm vụ; chủ động đóng góp ý kiến với giáo
viên, với bạn bè; chủ động hoàn thành công việc bằng mọi cách; học sinh chủ
động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận ra vấn đề mới...
2.1.3.2. Tính tích cực trong học tập của học sinh
a) Khái niệm tính tích cực trong học tập

1


Tính tích cực trong học tập là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự cố
gắng cao về nhiều mặt trong học tập. Học tập là một trường hợp riêng của nhận
thức “một sự nhận thức làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ đạo
của giáo viên” (P.N.Erddơniev, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học tập thực chất
là nói đến tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
nhận thức của học sinh, đặc trưng ở khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị
lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.
b) Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập
- Học sinh khao khát tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung
câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra.

- Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình
bày chưa đủ rõ.
- Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận
ra vấn đề mới.
- Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, những thông tin mới lấy từ những
nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài bài học, môn học.
c) Các cấp độ của tính tích cực học tập
Có thể phân biệt ở 3 cấp độ khác nhau từ thấp đến cao: Cấp độ 1- bắt chước
Cấp độ 2 - Tìm tòi ; Cấp độ 3 - Sáng tạo
2.1.3.3. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập
a) Khái niệm năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật
chất hoặc tinh thần, tìm ra các mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành
công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới.
b) Các biểu hiện của sự sáng tạo trong học tập và nghiên cứu vật lí
- Từ những kinh nghiệm thực tế, từ kiến thức đã có, học sinh nêu được giả
thuyết. Trong chế tạo dụng cụ thí nghiệm thì học sinh đưa ra được các phương
án thiết kế, chế tạo dụng cụ và cùng một thí nghiệm đưa ra được nhiều cách chế
tạo khác nhau. Đề xuất được những sáng kiến kỹ thuật để thí nghiệm chính xác
hơn, dụng cụ bền đẹp hơn…
- Học sinh đưa ra được dự đoán hệ quả của giả thuyết. Cụ thể là học sinh đưa ra dự
đoán kết quả các thí nghiệm, dự đoán được phương án nào chính xác nhất, phương
án nào mắc sai số, vì sao?.
- Đề xuất được phương án dùng những dụng cụ thí nghiệm đã chế tạo để làm thí
nghiệm kiểm tra các dự đoán trên và kiểm nghiệm lại kiến thức lý thuyết đã học.
- Vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tế một cách linh hoạt như giải thích một số
hiện tượng vật lí và một số ứng dụng kỹ thuật có liên quan.
- Những hành động của học sinh trong học tập có mang tính sáng tạo như: đưa
ra được các phương án thiết kế, chế tạo dụng cụ; đề xuất được những sáng kiến
kĩ thuật để thí nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn; đưa ra dự đoán kết

quả các thí nghiệm; so sánh được các phương án thí nghiệm; vận dụng kiến thức
để giải thích hiện tượng vật lí, kết quả thí nghiệm hoặc các ứng dụng trong kĩ
thuật;...
2.2. Thực trạng vấn đề

1


Trên cơ sở thực tế dạy học bộ môn Vật lí ở trường THPT Yên Định 3,
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, tôi nhận thấy một số thực trạng sau:
2.2.1. Tình hình giảng dạy của giáo viên
Việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học vật lí gặp rất nhiều khó
khăn: Dụng cụ thí nghiệm, các trang thiết bị và cơ sở vật chất cần thiết phục vụ
cho việc đổi mới còn thiếu, đội ngũ giáo viên mặc dù cũng đã có rất nhiều cố
gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học v.v... nhưng vẫn chưa phát huy
hết được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Ở nhiều bài học, giáo viên vẫn mang nặng phương pháp truyền thụ, thuyết
trình, thông báo.
- Giáo viên gần như chỉ tiến hành thí nghiệm biểu diễn trong các bài có yêu cầu
sử dụng thí nghiệm tối thiểu; ít chế tạo thêm các dụng cụ thí nghiệm;
- Các giáo viên rất ít tổ chức hướng dẫn cho học sinh tự thiết kế, chế tạo và tiến
hành các thí nghiệm vật lí.
- Việc tổ chức giờ học tự chọn cho học sinh chưa đạt hiệu quả. Hầu hết các giờ học
tự chọn môn Vật lí, giáo viên tổ chức cho học sinh giải bài tập nên nếu không tổ
chức tốt thì dễ gây nhàm chán, thậm chí lại trở nên nặng nề hơn cho học sinh.
2.2.2. Tình hình học tập của học sinh
- Học sinh ít được tham gia hoạt động ngoại khoá về Vật lí đặc biệt là hoạt động
ngoại khoá thiết kế, chế tạo dụng cụ thí nghiệm. Vì vậy phần lớn học sinh còn
thụ động, thiếu tự tin trong học tập, chưa chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội
kiến thức nên kiến thức thu được không bền vững đặc biệt còn yếu trong việc

thiết kế các phương án thí nghiệm.
- Kết quả học tập của rất nhiều học sinh chỉ ở mức độ nhớ các khái niệm, hiện
tượng, công thức và vận dụng được các công thức để giải các bài tập.
- Học sinh chưa vận dụng được kiến thức để giải thích các hiện tượng vật lí
trong thực tế, không biết về các ứng dụng của kiến thức vật lí trong đời sống và
kĩ thuật.
- Học sinh chưa hứng thú, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập.
- Các kĩ năng thực nghiệm còn rất yếu.
- Khả năng diễn đạt, thuyết trình của học sinh về một vấn đề còn rất kém,
thường lúng túng khi diễn đạt ý tưởng của mình hoặc điều muốn hỏi.
2.2.3. Tình hình thiết bị thí nghiệm của nhà trường
Trước đây trong khi giảng dạy giáo viên chỉ chú trọng đến khối lượng kiến
thức cần truyền đạt mà coi nhẹ phương pháp học tập và nghiên cứu mang tính
đặc thù của bộ môn. Vật lí là môn khoa học thực nghiệm thế nhưng tình trạng
phổ biến hiện nay vẫn là :
- Dụng cụ thí nghiệm thiếu, một phần bị hư hỏng không chính xác, có năm được
bổ sung thêm thì không đồng bộ với dụng cụ cũ. Nhìn chung chưa có đầy đủ
dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho các giờ học .
- Số lượng các bộ thí nghiệm quá ít nên số lượng học sinh trong một nhóm quá
đông, một bộ phận học sinh yếu và trung bình ít có cơ hội làm việc trong nhóm .
- Kỹ năng làm thí nghiệm của học sinh vẫn còn hạn chế .

1


- Một số bài thực hành thí nghiệm không thành công vì thế không thể đánh giá
kỹ năng thực hành của học sinh, làm giảm tính thuyết phục của nội dung bài
học.
- Đặc biệt bộ thí nghiệm chất khí của nhà trường số lượng rất ít, không chính
xác, chỉ làm được với định luật Bôi-lơ-Ma-ri-ốt, còn các định luật Sác-lơ,

Gayluy-xác, phương trình trạng thái không làm được
- Nhà trường chỉ có một cán bộ phụ trách phòng thí nghiệm cho tất cả các môn
học, được đào tạo chưa sâu cho từng bộ môn nên rất khó khăn trong việc giúp
giáo viên chuẩn bị và hướng dẫn học sinh thực hành.
Về cơ bản việc sử dụng thí nghiệm vật lí ở trường THPT vẫn còn hạn chế,
chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động và độc lập sáng tạo của học sinh.
Trong khi đó lượng kiến thức trong sách giáo khoa luôn luôn được bổ sung
chỉnh lý cho kịp với sự phát triển của thời đại. Từ thực trạng trên dẫn đến chất
lượng của môn học chưa tốt do đó cần đổi mới trong việc tự làm và sử dụng thí
nghiệm dạy học một cách có hiệu quả.
2.2.4. Nguyên nhân về thực trạng học tập của học sinh
Việc dạy và học theo chương trình nội khoá vẫn còn rất nặng nề do điều
kiện thời gian hạn hẹp, trang thiết bị thí nghiệm chưa đầy đủ để tất cả các học
sinh đều được tham gia tiến hành thí nghiệm, việc dạy học trên lớp chưa tăng
cường hoạt động, phát huy tính chủ động, tích cực và phát triển năng lực sáng
tạo của học sinh; các em ít được trực tiếp tiến hành các thí nghiệm và ít có điều
kiện để vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nhiều em còn cảm thấy chưa yêu thích
môn học và không tích cực trong học tập.
Trong dạy học nội khóa đã được trang bị một số thiết bị thí nghiệm tối
thiểu tuy nhiên những thiết bị chế tạo sẵn đó đôi khi không gần gũi và quen
thuộc với thực tiễn nên các em khó liên hệ và vận dụng vào cuộc sống. Đa số
các dụng cụ thí nghiệm được cấp đều là thí nghiệm định lượng phục vụ mục
đích nghiên cứu khảo sát các định luật vật lí, ít thí nghiệm định tính về các hiện
tượng vật lí.
Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thay đổi phương pháp dạy học
nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả đối với mọi đối tượng học sinh và tất cả các
nội dung kiến thức.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong quá trình dạy học tôi thấy một trong những giải pháp để khắc phục
thực trạng nêu trên là đối với những bài học, những chương trong SGK có nội

dung phù hợp, giáo viên có thể tổ chức hoạt động cho học sinh tự thiết kế, chế
tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và sử dụng các dụng cụ đó để tiến hành các
thí nghiệm để học sinh được vận dụng kiến thức bài học giải thích các hiện
tượng Vật lí có liên quan nhằm củng cố, mở rộng các kiến thức trong chương
trình nội khóa; rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức để giải thích các hiện
tượng Vật lí trong thực tiễn; rèn luyện kĩ năng thực hành; kích thích sự hứng
thú, tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
Chương “Chất khí” (SGK Vật lí 10 THPT) là chương phù hợp để áp dụng
hình thức tổ chức trên, kiến thức bài học có sự liên hệ thực tiễn rất phong phú,
rất gần gũi và có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Có thể sử dụng rất
1


nhiều dụng cụ và thí nghiệm đơn giản, dễ kiếm từ cuộc sống để minh họa cho
bài học.
2.3.1. Quy trình thực hiện
- Giáo viên lập kế hoạch hoạt động: Xây dựng mục tiêu, nội dung hoạt động,
nghiên cứu các thí nghiệm mẫu, dự kiến phương pháp và hình thức tổ chức hoạt
động.
- Giáo viên chia tổ nhóm:
Trước đây việc thực hiện các thí nghiệm trong các tiết học là do giáo viên
làm dụng cụ và biểu diễn hoàn toàn nên các em tiếp thu kiến thức một cách thụ
động, kỹ năng thực hành của học sinh rất yếu các em nắm không sâu được kiến
thức và nội dung bài học. Các em rất lúng túng khi tự tay thực hiện các bài thực
hành, tư duy không phát triển. Vì vậy cần đổi mới phương pháp dạy học tích
cực, các em chủ động làm thiết bị và thực hành trong bài học.
Ngay từ giờ học đầu tiên của năm học giáo viên cần cho học sinh nắm
được đặc thù của bộ môn là môn khoa học thực nghiệm, giáo viên chia học sinh
của lớp thành các nhóm học tập, mỗi nhóm gồm cả các đối tượng khá, giỏi,
trung bình và yếu khoảng 8-9 em. Cử nhóm trưởng, nhóm phó, thư ký của

nhóm.
Nhóm trưởng chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của nhóm theo sự
hương dẫn của giáo viên sao cho mọi thành viên trong nhóm đều được tham gia
các công việc của nhóm, những thành viên yếu thường được giao công việc dễ
hơn như tìm những vật liệu dễ tìm, làm những công việc đơn giản như quan sát
ghi số liệu. Tạo điều kiện cho các em chủ động tích cực sáng tạo hứng thú trong
quá trình làm thiết bị, thực hành trong và ngoài giờ học.
- Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh. Giáo viên định hướng và giúp
đỡ trong quá trình học sinh tham gia thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm và
tiến hành các thí nghiệm của chương “Chất khí” (SGK Vật lí 10 THPT)”.
- Tổ chức cho học sinh một tiết để các nhóm ra mắt sản phẩm, trình bày và
thuyết trình về các thí nghiệm mà nhóm mình đã chế tạo.
- Tổng kết và rút kinh nghiệm: Thực nghiệm sư phạm.
2.3.2. Nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực hiện
2.3.2.1. Chuẩn bị thiết kế thí nghiệm
Giáo viên phải giao cho học sinh chuẩn bị những thí nghiệm phải kích
thích được hứng thú óc sáng tạo của học sinh. Muốn đạt được điều đó trước tiên
giáo viên phải tìm hiểu thật kỹ nội dung bài dạy, xác định rõ nội dung kiến thức
mục đích thí nghiệm. Yêu cầu học sinh lựa chọn các vật liệu sẵn có, dễ tìm để
thiết kế dụng cụ thí nghiệm cần thiết cho phù hợp. Các dụng cụ thí nghiệm phải
đơn giản dễ làm và chất lượng tốt đảm bảo độ chính xác cao. Không độc hại
nguy hiểm (Có thể giáo viên phải tự tạo ra các dụng cụ thí nghiệm tương tự
trước và giớ thiệu hướng dẫn cho các em nhóm trưởng và phó trước mấy ngày
ngày).
Điều không thể thiếu được là giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi
hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm vận dụng
các kiến thức có liên quan để đi đến tri thức mới một cách logic.

1



2.3.2.2. Tiến hành thiết kế thí nghiệm.
*Bước 1: thiết kế dụng cụ thí nghiệm
Giáo viên nghiên cứu bài dạy, hướng dẫn học sinh nghiên cứu bài học và
đưa ra ý tưởng thiết kế dụng cụ thí nghiệm
Tập cho học sinh lập kế hoạch khám phá thiết kế thí nghiệm, lựa chọn
phương án thí nghiệm, chỉ ra đại lượng cần đo, những điều cần xác định trong
thí nghiệm, chỉ ra những yếu tố cần giữ nguyên, không thay đổi khi làm thí
nghiệm. (Giáo viên hướng học sinh lựa chọn phương án mà giáo viên đã lựa
chọn, đã thiết kế)
*Bước 2: Tiến hành làm dụng cụ thí nghiệm
Tìm và lựa chọn các vật liệu phù hợp an toàn dễ kiếm trong đời sống hàng
ngày. Hướng dẫn học sinh thiết kế bố trí lắp đặt dụng cụ thiết bị thí nghiệm; theo
nội dung “các định luật chất khí” thực hiện thí nghiệm theo phương án đề ra, cần
làm thử trước ở nhà cần thiết thay đổi phương án thí nghiệm nếu kết quả không
phù hợp với vấn đề đặt ra.
*Bước 3: Tiến hành làm thí nghiệm
Trong giờ học các nhóm sử dung thiết bị của nhóm mình làm hoặc của tổ
chuyên môn trưc tiếp làm thí nghiệm
Đọc số chỉ của các dụng cụ thí nghiệm ở mức độ cẩn thận và chính xác
cần thiết, lập bảng kết quả, biểu diễn kết quả bằng đồ thị, sơ đồ ......
*Bước 4: Kết luận rút ra nội dung biểu thức định luật
Cho đại diện nhóm mô tả lại những thí nghiệm đã làm, trình bày, giải
thích những việc đã làm bằng lời, bằng hình vẽ hoặc bằng đồ thị...nêu kết luận
đã tìm thấy được.
Từ báo cáo của từng nhóm giáo viên cho lớp thảo luận để đi đến kết luận
chung, tổng quát cho vấn đề đang nghiên cứu.
2.3.3. Sản phẩm của học sinh
- Tên sản phẩm: “Bộ thí nghiệm chất khí bằng những vật liệu sẵn có trong đời
sống ”

- Sử dụng cho môn: Vật lí
- Chủng loại: Sáng tạo mới
2.3.3.1. Lý do và ý tưởng của đồ dùng:
- Các bài dạy học về chương chất khí cần phải có thí nghiệm để xây dựng các
định luật
- Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của nhà trường rất ít đã cũ, kết quả
không chính xác, không thuyết phục học sinh với khoa học
- Thay thế cho thí nghiệm các bài học: Định luật Bôi-lơ-Ma-ri-ốt, Định luật Sáclơ, phương trình trạng thái, định luật Gayluy-xác
- Thiết bị dễ làm, thí nghiệm đơn giản chính xác cao, tạo lòng tin với học sinh,
giáo dục kỹ năng thiết kế làm đồ dùng và sử dụng thí nghiệm thực hành, giáo
dục quan điểm về môi trường
2.3.3.2. Vật liệu
+ 1 đế gỗ làm chân giá đỡ
+ 1 thanh sắt hoặc gỗ làm cọc giá đỡ

1


+ 1 bình thủy tinh hoặc kim loại (100ml- 200ml) có nắp làm kín bình chứa
không khí với bên ngoài
+ 2 Van xe đạp còn sử dụng tốt
+ 80cm ống dây nhựa (ống chuyền dịch)
+ 1 xilanh tiêm 5ml trở lên
+ 1 nhiệt kế đo nhiệt độ
+ 1 áp kế ( dụng cụ đo áp huyết hoăc đồng hồ đo áp suất hơi )
+ 1 Sấy tóc
+ Một số đinh 2 hoặc vít xoắn
2.3.3.3. Cấu tạo, và lắp đặt

T


A

V
A

G
XILANH
ỐNG DÂY

T

V

- Dùng gỗ và đinh lắp giá đỡ
- Nắp bình chứa không khí có khoan 3 lỗ nhỏ để lắp áp kế, nhiệt kế, van
nối, tuyệt đối kín không để không khí lọt ra ngoài ống
- Vặn nắp bình chứa với bình chứa (đảm bảo kín)
2.3.3.4. Cách sử dụng vào từng bài học
*Bài 1: Định luật Bôilơ –Mariốt quá trình đẳng nhiệt T không đổi

1


Thí nghiệm được lắp đặt như hình vẽ

ÁP KẾ

XILANH


Cho pit tông nằm yên tại một vị trí bất kỳ
Nối ống dây từ áp kế với đầu xilanh đảm bảo không khí không thông với
bên ngoài
Đọc các giá trị áp suất trên áp kế , đọc thể tích chất khí bằng tổng thể tích
của thể tích không khí chứa trong xilanh V XLvà thể tích không khí trong ống nối
VÔ= Sl
Thay đổi thể tích xilanh và đọc lại các kết quả như trên và ghi vào bảng
(chú ý khi làm thay đổi thể tích khí trong xilanh cần chậm để nhiệt độ khôngđổi)
Lần TN Thể tích V= VÔ+ VXL
Áp suất P
Tích P*V
Lần 1
Lần 2
Lần 3
Từ kết quả thí nghiệm rút ra kết quả và đưa ra nội dung, biểu thức định
luật
* Bài 2: Định luật Sác-lơ quá trình đẳng tích V không đổi
Thí nghiệm được lắp đặt như hình vẽ

Khóa van thể tích và lượng không khí trong bình là không đổi .Dùng sấy tóc
sấy bình dựng khí. Đọc các giá trị Áp suất trên áp kế , nhiệt độ trên nhiệt kế tại
các thời điểm và ghi vào bảng
1


to 0
t1
t2
t3


∆to

po1
P1
P2
P3

∆p/∆to

∆p= pn- po

To=to+273
T1=t1+273
T2=t2+273
T3=t3+273

p/T

T
A

V

G

Từ kết quả thí nghiệm rút ra kết quả ∆p/∆to = hằng số hay p/T= hằng số
và đưa ra nội dung, biểu thức định luật
*Bài 3: Định luật Gayluy-xác quá trình đẳng áp
Thí nghiệm được lắp đặt như hình vẽ
T

A

V

G

Mở van nối ống dây từ van với một ống nhỏ trong ống có giọt nước màu ngăn
không khí trong ống với không khí bên ngoài ,đặt trên bàn nằm ngang
Dùng sấy tóc sấy bình dựng khí
Đọc các giá trị nhiệt độ trên nhiệt kế tại các thời điểm , độ dịch chuyển của giọt
nước và ghi vào bảng ( chú ý khi làm thay nhiệt độ cần chậm để áp suất trên áp
kế không đổi)
to0 ∆to
∆V= S(hn- ho)
∆V/∆to
To=to+273
V/T
t1
T1=t1+273
t2
T2=t2+273
t3
T3=t3+273
Từ kết quả thí nghiệm rút ra kết quả ∆V/∆to = hằng số hay V/T= hằng số
và đưa ra nội dung, biểu thức định luật
1


*Bài 3: Phương trình trạng thái của khí lý tưởng


ỐNG DÂY

T
A

XILANH
V

G

Thí nghiệm được lắp đặt như hình vẽ
Cho pit tông nằm yên tại một vị trí bất kỳ
Mở van Nối ống dây từ van với đầu xilanh đảm bảo không khí không thông
với bên ngoài
Dùng sấy tóc sấy bình dựng khí
Thả cho cho pit tông tự do. Đọc các giá trị nhiệt độ trên nhiệt kế tại các thời
điểm , các giá trị áp suất trên áp kế ,đọc thể tích chất khí bằng tổng thể tích của
bình chứa đã đo và ghi trên ngoài bình và thể tích không khí chứa trong xilanh
và thể tích không khí trong ống nối
T = to0+273=
V= VB+VÔ+ VXL
po1
p.V/T
T1= t1+273=
V1
P1
T2= t2+273=
V2
P2
T3= t3+273=

V3
P3
Từ kết quả thí nghiệm rút ra kết quả và đưa ra nội dung, biểu thức
2.3.4. Dự kiến những khó khăn mà học sinh gặp phải
- Một số thiết bị có thể phải đi mượn hoặc mua: Như áp kế, nhiệt kế, máy sấy tóc.
- Khí trong bình vẫn có thể thoát ra ngoài
1


- Mới đầu khi tiến hành các thao tác có thể chưa quen sẽ dẫn đến lóng ngóng
- Quan sát các chỉ số và tính toán số liệu có thể sai lệch nhiều. Do đó có thể phải
làm đi, làm lại nhiều lần mới được kết quả mong muốn.
2.3.5. Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với
thiết bị đã chế tạo
Thời gian: có thể sử dụng tiết học tự chọn hoặc tổ chức một buổi ngoại
khóa.Các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với thiết bị đã chế tạo
và trả lời các chất vấn và thắc mắc của giáo viên và các bạn học sinh khác.
Khi báo cáo kết quả trước các thầy cô giáo một số em đại diện cho các
nhóm lúc đầu còn tỏ ra chưa tự tin về khả năng thuyết trình của mình trước đông
người, nhưng sau đó các em đã tỏ ra rất tự tin và báo cáo rất lưu loát kết quả mà
nhóm của mình đã làm được.
2.4. Tính khả thi của giải pháp
- Nội dung của hoạt động ngoài giờ nhìn chung là phù hợp với kiến thức mà các
em được học trong giờ nội khoá, đáp ứng được mục tiêu mà đề tài đã đặt ra là
phát huy tính chủ động, tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
- Học sinh hồ hởi tham gia.
+ Tất cả các nhóm đều có sản phẩm báo cáo. Các em tích cực và háo hức chuẩn
bị cho buổi báo cáo như cơ sở vật chất, phần thưởng...
+ Buổi báo cáo không vắng em nào thậm chí còn có rất nhiều em ở các lớp khác
cũng tham dự. Tất cả học sinh đều mong muốn được tham gia vào các hoạt động

ngoại khoá bổ ích như vậy trong năm học tới.
- Phương pháp hướng dẫn cho học sinh nhìn chung là hợp lý.
- Hình thức tổ chức hoạt động theo nhóm tương đối phù hợp. Việc giao nhiệm
vụ cho các trưởng nhóm báo cáo thường xuyên kết quả hoạt động của nhóm cho
giáo viên là rất hiệu quả.
2.5. Hiệu quả của giải pháp
2.5.1. Đối với học sinh
2.5.1.1. Những biểu hiện của tính chủ động, tích cực trong hoạt động của
học sinh
- Khi có vấn đề chưa hiểu hoặc khó khăn không giải quyết được thì các em đã
mạnh dạn, chủ động nhờ giáo viên giúp đỡ.
- Khi giáo viên hướng dẫn, các em rất chăm chú lắng nghe và suy nghĩ rất tích
cực theo hướng giáo viên gợi mở. Sau đó, đa số các nhóm đều có thể chủ động,
tự tìm ra cách giải quyết cho mình.
- Các em đều rất hứng thú, tự nguyện tham gia vào các hoạt động ngoại khóa một
cách tích cực, thoải mái, nhiệt tình. Các thành viên của mỗi nhóm đều chủ động
thực hiện nghiêm túc và hiệu quả nhiệm vụ của nhóm mình.
- Học sinh đều tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Có nhiều em nghĩ ra phương án thí nghiệm để giải quyết nhiệm vụ được giao
thì các em đã chủ động, mạnh dạn trình bày ý tưởng với giáo viên và các bạn
cùng nhóm.
- Có nhiều thí nghiệm khó thành công nhưng các em cũng không nản chí. Các
em biểu diễn thí nghiệm nhiều lần và chủ động tìm hiểu nguyên nhân cũng như
tìm cách để thí nghiệm thành công hơn.
1


- Tất cả các nhóm đều cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, các
em còn cố gắng để có sản phẩm đẹp, bền và có thể sử dụng trong giờ học của
các em khóa sau.

- Các em đều rất háo hức mong đợi đến buổi tổng kết để được ra mắt các sản
phẩm mà các em đã chế tạo được và giao lưu với nhóm khác.
2.5.1.2. Một số biểu hiện của tính sáng tạo của học sinh
- Hầu hết các nhóm đều đưa ra được cách chế tạo dụng cụ thí nghiệm.
- Trong khi chế tạo dụng cụ thí nghiệm các nhóm đều đề xuất được sáng kiến để
dụng cụ bền, đẹp hơn.
- Trong thí nghiệm có nhiều phương án, học sinh có thể so sánh được các
phương án.
- Học sinh có thể vận dụng kiến thức thu được một cách linh hoạt trong việc giải
thích các hiện tượng thực tế. Các câu hỏi trong phần thi đố vui được dùng để
kiểm nghiệm điều này.
- Kết quả trong các bài kiểm tra, bài thi các em đã làm tốt các câu liên quan góp
phần không nhỏ vào kết quả chung của cả bài thi.
Sau đây là kết quả khảo sát thực tiễn chất lượng bài kiểm tra của học sinh
ở 2 lớp 10B1, 10B2 năm học 2019 - 2020
Chất lượng
Lớp(Sĩ số)
10 B1 ( 36)
10B3 (37)

Khi chưa áp dụng đề tài
G
3
(8,3%)
4
(10,8%)

K

TB


Sau khi áp dụng đề tài
Y

14
10
9
(38.9%) (27.8%) (25,0%)
11
15
7
(29.7%) (40,5%) (19,0%)

G
10
(27,8%)
9
(24,3%)

K

TB

18
8
(50,0%) (22,2%)
21
7
(56,7%) (19,0%)


Y
0
0

2.5.2. Đối với bản thân giáo viên
Quy trình đã lập có nội dung và phương pháp phù hợp đối với học sinh,
có tính khả thi và đạt được hiệu quả, mục đích dạy học. Đây là một bài học kinh
nghiệm và nguồn tham khảo để bản thân và các đồng nghiệp áp dụng vào giảng
dạy cũng như tiếp tục nghiên cứu, phát triển về nội dung và phương pháp hơn
nữa.
Tổ chức thành công hoạt động này là một luồng gió mới về đổi mới
phương pháp dạy học, góp phần thúc đẩy bản thân tôi và các đồng nghiệp tích
cực trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tiếp tục hăng say đổi mới
phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả hơn nữa, đồng thời bồi đắp lòng yêu
nghề và sự tận tâm với học sinh.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua kết quả của việc tổ chức hoạt động giao các nhiệm vụ tự thiết kế, chế
tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản và tiến hành thí nghiệm với các dụng cụ đó
cho học sinh lớp 10 ở trường THPT Yên Định 3 theo nội dung, phương pháp và
hình thức đã xây dựng, tôi thấy hoạt động này đã đạt được một số kết quả sau
đây:
+ Khắc phục được những điểm còn hạn chế của dạy học nội khóa, đó là học sinh
đã được làm thí nghiệm và vận dụng kiến thức vào thực tiễn nhiều hơn. Nhờ đó,
1


các em củng cố, mở rộng, đào sâu thêm các kiến thức, rèn luyện được kĩ năng,
hình thành tình cảm thái độ đúng đắn. Hình thức mới mẻ và nội dung hấp dẫn,
phù hợp của hoạt động đã thu hút học sinh tham gia một cách tích cực. Học tập

một cách thoải mái, không gò bó tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh tri thức
một cách tự nhiên, kích thích sự ham hiểu biết, tìm tòi và sáng tạo, rèn luyện cho
học sinh thói quen học đi đôi với hành, gắn liền kiến thức lý thuyết với thực tiễn,
+ Tôi đã xây dựng được quy trình chung của hoạt động ngoài giờ thiết kế thí
nghiệm phù hợp với đối tượng học sinh lớp 10, kích thích hứng thú học tập, đem
lại hiệu quả rất rõ rệt trong việc phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của
học sinh.
+ Xây dựng thành công một số thí nghiệm vật lí lớp 10 từ những vật liệu đơn
giản, rẻ tiền, dễ kiếm nhằm phục vụ cho quá trình dạy học và có thể dùng làm
thí nghiệm thực hành của học sinh trong giờ học nội khoá.
+ Thực tiễn áp dụng cho thấy đề tài có tính khả thi và đạt được những mục tiêu đưa
ra, có thể áp dụng để giảng dạy vật lí lớp 10 cho những năm học tiếp theo.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Với Trường THPT Yên Định 3:
+ Tổ chức một số buổi thảo luận và hội thi thiết bị thí nghiệm, thi sáng tạo đồ
dùng phục vụ hoạt động dạy học môn vật lí cho học sinh khối 10 và khối 11.
+ Thường xuyên rà soát và trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị thí nghiệm
môn vật lí.
+ Nhà trường và giáo viên cần có sự đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả
các thí nghiệm vật lí đã có hơn nữa; nên bổ sung thêm các dụng cụ thí nghiệm
cần thiết, có thể bằng cách tự chế tạo.
+ Giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức dạy học, đổi mới phương pháp một
cách hiệu quả, đặc biệt chú trọng vai trò trung tâm của học sinh trong qua trình
hình thành kiến thức và kĩ năng.
+ Nên tận dụng các giờ học tự chọn để tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho
học sinh.
+ Giáo viên cần áp dụng hình thức tổ chức hoạt động tự làm thí nghiệm ở nhà
cho học sinh vào nhiều bài học và nội dung kiến thức khác nữa.
3.2.2. Với Sở GD&ĐT Thanh Hoá:
Sở GD&ĐT Thanh Hoá cần tăng cường việc kiểm tra, rà soát, bổ sung

thêm những trang thiết bị dạy học hiện đại, đồng bộ, chất lượng cao về các
trường THPT để nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên, học sinh.
Xác nhận của BGH
Cam kết: đề tài SKKN do tôi tự viết,
không coppy của người khác, nếu sai
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Ngày 06/7/2020
Tác giả
Phạm Văn Hoan

1


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Duyên Bình, Nguyễn Xuân Chi (đồng Chủ biên), Tô Giang, Vũ Giang,
Bùi Gia Thịnh, Sách giáo viên Vật lí 10, NXB Giáo dục, Hà Nội
2. Lương Duyên Bình, Nguyễn Xuân Chi (đồng Chủ biên), Tô Giang, Vũ Giang,
Bùi Gia Thịnh, Sách giáo khoa Vật lí 10, NXB Giáo dục, Hà Nội
3. Nguyễn Ngọc Hưng, Thiết kế, chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn
giản trong dạy học vật lí ở trường phổ thông, Đại học sư phạm – Đại học Quốc
gia Hà Nội.
4. Nguyễn Ngọc Hưng, Thí nghiệm Vật lí ở nhà của học sinh, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
5. Nguyễn Đức Thâm (chủ biên), Nguyễn Ngọc Hưng, Phạm Xuân Quế (2002),
Phương pháp dạy học Vật lí ở trường phổ thông, NXB Đại học sư phạm, Hà
Nội.
6. Phạm Hữu Tòng (2004), Bồi dưỡng kỹ năng thiết kế phương án dạy học theo
hướng phát triển hoạt động tích cực, tự chủ, sáng tạo và tư duy khoa học, Tài
liệu bồi dưỡng giáo viên.
DANH MỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Văn Hoan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Vật lí, trường THPT Yên Định 3
Kết quả
Năm
Cấp đánh giá xếp loại đánh giá
học
TT
Tên đề tài SKKN
(Ngành GD cấp
xếp loại
đánh
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
(A, B,
giá xếp
hoặc C)
loại
1. Phương pháp giải bài Sở GD&ĐT
toán về sự thay đổi vị trí tỉnh Thanh Hóa
của vật và ảnh đối với Quyết định số: 462/QĐC
2007thấu kính.
SGD&ĐT,ngày
2008
15/01/2008
2. Phát huy tính chủ động, Sở GD&ĐT
tích cực và sáng tạo của tỉnh Thanh Hóa
học sinh thông qua việc Quyết
định

số:
2017tổ chức hoạt động tự 1455/QĐ2018
C
làm một số thí nghiệm SGD&ĐT,ngày
đơn giản sau khi học bài 26/11/2018
“chuyển động thẳng
đều” (sgk vật lí 10 thpt)

1



×