Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sơ đồ hóa kiến thức nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử lớp 12 ở trường THPT ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.56 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SƠ ĐỒ HÓA KIẾN THỨC NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12
Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ : Giáo Viên
SKKN thuộc môn: Lịch Sử

THANH HOÁ, NĂM 2020


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

Trang 1

1.2.Mục đích nghiên cứu

Trang 2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

Trang 2


1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang 3

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận

Trang 4

2.2.Thực trạng vấn đề

Trang 5

2.3. Giải pháp thực hiện

Trang 6

a. Đối với giáo viên

Trang 6

b. Đối với học sinh

Trang 7

c. Một số giải pháp thực tế trong việc hệ thống kiến thức nhằm nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử lớp 12 ở trường THPT Ba Đình.

Trang 7


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

Trang 14

3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận

Trang 16

3.2. Kiến nghị

Trang 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử là quá khứ, nhưng quá khứ là một phần tất yếu của hiện tại, không
có quá khứ thì cũng không có tương lai. Không biết gì về lịch sử, người ta sẽ
không hình thành được thái độ trân trọng, tình cảm biết ơn và những việc làm tri
ân đối với các bậc “khai quốc công thần”, các vĩ nhân, các anh hùng, liệt sĩ…
Không biết gì về lịch sử, người ta cũng không thể hiểu được, giải thích được bản
chất của các hiện tượng, sự việc đang tồn tại, đang vận động và biến đổi không
ngừng…Vì lẽ đó, môn Lịch sử luôn có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong chương
trình giáo dục phổ thông, góp phần giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ.
Do đó, dạy học Lịch sử trong các trường phổ thông hiện nay đã trở thành
vấn đề đáng quan tâm của xã hội, khiến nhiều lo lắng và trăn trở. Đã đến lúc
không thể thờ ơ đối với những người làm công tác giáo dục. Là một giáo viên
dạy lịch sử 20 năm nay và thường xuyên được giao trách nhiệm dạy các lớp theo

học khối C (Ban KHXH), tôi cũng băn khoăn và trăn trở về vấn đề này. Tại sao
chất lượng bộ môn Lịch sử trong mấy năm trở lại đây lại thấp như vậy. Đó thực
sự là những vấn đề đáng báo động.
Đã có rất nhiều hội thảo, nhiều diễn đàn, nhiều bài viết, nhiều ý kiến đưa ra
về việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, môn Lịch sử nói riêng.
Chương trình giáo dục phổ thông bàn hành kèm theo Quyết định số
16/2006/QQĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã
nêu: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm môn học, đặc điểm đối tượng học
sinh, điều kiện của từng lớp học. Bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học,
khả năng hợp tác, rèn luyện, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh" .
Như vậy, phương pháp giáo dục hiện nay là phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng
say mê học tập và ý chí vươn lên. Trong học tập nhất là môn Lịch sử, học sinh
xem là môn phụ nên học một cách qua loa, học sinh học chỉ là đối phó để có
điểm. Giáo viên giảng, học sinh nghe, giáo viên ghi bảng học sinh chép, giáo
viên hỏi học sinh sử dụng sách giáo khoa trả lời. Khi kiểm tra các em đọc từ chữ
đầu đến chữ cuối mà không hiểu mình đang đọc cái gì.
Một phần không nhỏ dẫn đến học sinh không ham thích học tập bộ môn
Lịch sử là do chúng ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong dạy học lịch sử, chưa
-1 -


gây cho học sinh hứng thú thực sự để nâng cao chất lượng bộ môn, trong khi đó
một số nhà trường hiện nay còn thiếu nhiều phương tiện dạy học. Vì vậy, dạy
học là một hoạt động sáng tạo. Không có phương pháp, mô hình nào là bất biến.
Vấn đề học sinh chán học và “ngại” học bộ môn Sử là do nhiều nguyên nhân, do
từ nhiều phía. Vậy thì giáo viên phải là người biết tìm ra những phương pháp
mới để tạo cho học sinh tính chủ động nắm bắt, khai thác kiến thức, say mê học

tập, biến những số liệu, những Chỉ thị, Nghị quyết thành những nội dung sống
động, lôgic.
Từ yêu cầu và thực tế trên, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy
học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học
sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học.
Vậy làm thế nào để học lĩnh hội được kiến thức trọng tâm và ngày càng yêu
thích và say mê môn học? Có rất nhiều biện pháp như: sử dụng đồ dùng trực
quan, hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, nắm vững và sử dụng sách
giáo khoa, sử dụng hệ thống câu hỏi… Nhưng việc dùng sơ đồ để hệ thống hóa
kiến thức lịch sử là một biện pháp rất quan trọng, giúp học sinh nắm vững hơn
những kiến thức bài học, hiểu sâu hơn các sự kiện lịch sử gây hứng thú học tập
cho học sinh.
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch
sử nói riêng, tôi chọn đề tài “Sơ đồ hóa kiến thức nhằm nâng cao chất lượng
dạy học lịch sử lớp 12 ở trường THPT Ba Đình”. Với việc nghiên cứu đề tài
này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả
tốt hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài
học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp một phần giúp các em học sinh có những kiến thức lịch sử nhất
định để trang bị cho những kỳ thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi tỉnh, khắc phục
tình trạng “ học vẹt” lịch sử. Mục đích chuyển từ quan niệm “giáo viên là trung
tâm” sang quan niệm “lấy học sinh làm trung tâm”. Giúp các em hình thành và
phát huy tư duy tự học, tự tìm hiểu và giải quyết vân đề liên quan đến lịch sử,
nhất là những vấn đề mà giáo viên cũng như học sinh thường sa vào phân tích
chính trị, nặng về giáo điều lý luận.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với “Hệ thống
hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ” Vận dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử. Đối


-2 -


tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là lớp12Q, 12T của trường
THPT Ba Đình.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp điều tra so sánh phân tích tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm sư phạm.
- Phương pháp tổng kết qua kinh nghiệm công tác và giảng dạy.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử.
- Sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên lịch sử lớp 12.
- Sử dụng các câu hỏi điều tra có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của
việc đánh giá khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh trong việc giảng dạy môn
lịch sử lớp12 để khắc phục nhược điểm trong phương pháp kiểm tra đánh giá
cần phối hợp các phương pháp hiện đại, trong đó có phương pháp kiểm tra bằng
câu hỏi trắc nghiệm khách quan.

-3 -


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sơ lí luận
Bất cứ giáo viên bộ môn nào đều phải có tư tưởng, tình cảm đúng đắn
lành mạnh, trong sáng, có lòng nhiệt thành đối với nghề nghiệp, có thế giới
khách quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ để góp phần hình thành thế hệ
trẻ theo mục tiêu đào tạo của Đảng.
Không ngừng nâng cao sự hiểu biết kiến thức bộ môn, có phương pháp
dạy tốt, không ngừng hoàn thiện cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ.
Giảng dạy là đưa đến cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ tiếp nhận những giá trị

quí báu của loài người về phương diện tri thức cũng như về phương diện tình
cảm, tư tưởng góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho thế hệ trẻ.
Giảng lịch sử là giảng về quá khứ của xã hội loài người, quá khứ của dân
tộc, quá khứ của địa phương. Những quá khứ đó lại có quan hệ mật thiết với
hiện tại và tương lai. Trong bài giảng, bài học lịch sử tư duy, tình cảm của giáo
viên và học sinh hướng về những gì rất gần gũi đó là những con người thật
những con người cụ thể chứ không phải là những con người hư cấu. Trong lịch
sử dân tộc địa phương những con người đó là lại càng gần gũi hơn đó là tổ tiên,
ông bà, cha mẹ, anh chị của những người đang giảng dạy và học tập lịch sử.
Lịch sử là một dòng chảy không bao giờ ngưng nghỉ. Học quá khứ để
nhận thức hiện tại và phán đoán tương lai, đó là đặc thù của môn Lịch sử. Muốn
học tốt lịch sử phải tường minh ba vấn đề: Thời gian, không gian và con người.
Đặc trưng nối bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp
những gì thuộc về quá khứ. Lịch sử không phải là một bộ môn chính trị, nhưng
lịch sử gần với chính trị.
Để giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức giáo viên bắt đầu từ việc giúp học
sinh hiểu biết cụ thể, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và
giáo dục, đồng chí Phạm Văn Đồng có viết: “Dạy lịch sử phải dạy như thế nào?
Nhất định phải dạy cho học sinh hiểu biết những sự kiện lịch sử, những qui luật
lịch sử qua các thời đại chứ không thể nói ba hoa về chính trị ở đây. Cả lịch sử
nước ta là một sự cỗ vũ sâu xa vô cùng. Dạy sử tốt nhất định tạo cho người
thanh niên ta say mê với dân tộc, say mê và tự hào về dân tộc một cách đúng
mực, không hề tự kiêu, không hề nảy sinh chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.” Hướng
dẫn học sinh tự học, tự tiếp cận vấn đề là một trong những đặc trưng của phương
pháp dạy học tích cực. Mỗi một tiết dạy, giáo viên có một phương pháp riêng,
tìm ra những con đường để học sinh tiếp nhận nội dung bài học một cách thoải
-4 -


mái, tự giác, tích cực. Trong chương trình lịch sử lớp 12 có rất nhiều bài học

giáo viên có thể vận dụng sơ đồ để dạy học theo phương pháp nhóm.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Học sinh THPT hiện nay tuyệt đại đa số không muốn tiếp xúc với môn
học này. Khi học một giờ lịch sử, nhiều học sinh xem đó là một giờ “tra tấn tinh
thần và thể xác”. Nào là “chủ trương”, nào là “chính sách”, nào là “đường lối”,
nó chẳng khác gì cán bộ đi học Nghị quyết.
Mặc dù đội ngũ giáo viên dạy sử ở các trường phổ thông đang rất cố gắng
đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả của bài học nhưng kết quả không có
mấy chuyển biến. Khi hỏi về một nhân vật lịch sử Việt Nam, một bộ phim lịch
sử Việt Nam học sinh trở nên “mù tịt”, nhưng khi nói về một bộ phim lịch sử
Trung Quốc thì có nhiều học sinh kể vanh vách. Học xong bài học là trả lại cho
thầy cô.Thật là một thực trạng đáng báo động.
Một hiện tượng phổ biến bây giờ của học lịch sử là chủ yếu học thuộc lòng,
ghi nhớ một cách máy móc, đối phó với thi cử: thiếu kỹ năng miêu tả, phân tích,
tổng hợp, đánh giá về một sự kiện lịch sử.
Trong các cuộc thi như “Âm vang xứ Thanh”, “Đường lên đỉnh Ôlympia”,
các chương trình vui chơi giải trí trên truyền hình như: “Đấu trường 100”, “Ai là
triệu phú”...các thí sinh và những người chơi đa số mất điểm ở câu hỏi liên quan
đến lịch sử.
Vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo
điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương
pháp dạy học “thầy nói, trò nghe”, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh
chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn
sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không
trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho
học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh
khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm
cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động điều này làm
cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu
thích môn học.

Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp
thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định
được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các
em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh chưa

-5 -


xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có
tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết.
Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập
bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều
tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra
15 phút, kiểm tra 1 tiết …
Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình
bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời
chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương,
chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này
với sự kiện khác. Cụ thể:
Kết quả thực tế trước khi chưa áp dụng đề tài vào giảng dạy
Lớp

Sĩ số

12Q 35
12T 34

Giỏi
SL %
0

0

Khá
SL %
10
29
9
26

Trung bình
SL
%
20
57
18
53

Yếu
SL %
5
14
7
21

Kém
SL
%
0
0


2.3. Giải pháp thực hiện
a. Đối với giáo viên
Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện
tử), bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ….
Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt
nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề.
Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ
kiến thức cũ.
Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay
các thắc mắc của học sinh.
Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai.
Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao?
Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh
căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên
cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề.
Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học
sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái.
Khi học sinh trả lời giáo viên phải nhận xét câu trả lời của học sinh, nếu
thiếu có thể cho một học sinh khác bổ sung hoặc giáo viên trình bày cụ thể.

-6 -


Nếu dạy những bài có các danh nhân, vị anh hùng dân tộc nên sơ lược
thân thế sự nghiệp, kết hợp giáo dục tư tưởng đạo đức.
Nội dung bài phải thật ngắn gọn,cô đọng nhưng phải đảm bảo nội dung
cơ bản, cần nhấn mạnh ý chính của bài.
b. Đối với học sinh
Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các
câu hỏi trong sách giáo khoa phần sẽ học.

Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây
dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ.
Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ
giáo viên giao cho.
Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh
phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này
với sự kiện khác.
Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo
viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa.
Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc
khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử.
c. Một số giải pháp thực tế trong việc sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến
thức lịch sử trong dạy học lịch sử lớp 12
Chương trình lịch sử lớp 12 gồm 2 phần: Lịch sử thế giới hiện đại (từ năm
1945 – 2000), lịch sử Việt Nam (1919 – 2000). Các phần này kế tiếp chương
trình lớp 11, vì thế khi học tập học sinh không thể nắm những kiến thức từng
giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự
kiện trong sự phát triển chung, thống nhất của lịch sử. Điều này đòi hỏi học sinh
phải biết và hiểu lịch sử trên cơ sở phát huy tính tích cực, trí thông minh và sáng
tạo. Học sinh phải biết sử dụng kiến thức đã học để tiếp nhận kiến thức mới, biết
quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến thức cơ bản,
bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử, không gian, thời gian …
* Sử dụng sơ đồ hóa kiến thức chương IV: MĨ - TÂY ÂU - NHẬT BẢN
(1945-2000)
Chương này có 4 nội dung quan trọng: 1.Kinh tế, 2.nguyên nhân phát triển,
3. Chính sách đối ngoại, 4. Liên minh châu Âu.
- Giáo viên yêu cầu học sinh xác định đúng các giai đoạn phát triển kinh tế
của Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản. Nguyên nhân phát triển nền kinh tế của các nước.

-7 -



- Trước khi khai thác nội dung về kinh tế, giáo viên phát cho mỗi bàn một
sơ đồ để trống, sau đó giáo viên hướng dẫn các em điền các thông tin vào sơ đồ.
Cuối cùng, gọi đại diện các nhóm trả lời và nhận xét. Có thể, giáo viên vẽ
sơ đồ lên bảng, rồi gọi hai hoặc ba học sinh lên điền các thông tin. Giáo viên bổ
sung và nhận xét
KINH TẾ
Kinh
tế

1973-1991

1991-2000

1945 - 1973

Giáo viên kết luận: Như vậy Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản từ năm 1945 – 1973
kinh tế phát triển nhanh và trở thành ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế
giới.
Có được sự phát triển đó là do nguyên nhân nào? Giáo viên đưa ra sơ đồ
sau để học sinh nắm được:
Nguyên nhân phát triển

Giống nhau

- Áp dụng thành
tựu KHKT
-Vai trò điều tiết
của nhà nước

-Các công ty
năng động
- Tận dụng tốt
các yếu tố bên
ngoài.

Khác nhau

Mĩ lãnh thổ
rộng lớn, tài
nguyên phong
phú, nguồn
nhâ công dồi
dào….

Tây Âu
sự hợp tác có
hiệu quả của
các nước.

Nhật Bản
- Con người
là vốn quý
nhất ,là nhân
tố quyết định
nhất.
- chi phí quốc
phòng thấp.
-8 -



Nhìn vào sơ đồ học sinh sẽ rút ra được nguyên nhân quan trọng nhất đối
với sự phát triển kinh tế của Mĩ, Tây Âu là áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật. Còn đối với Nhật Bản lại là yếu tố con người.
*Sử dụng sơ đồ sau để dạy mục 1: Chính sách khai thác thuộc địa lần
thứ hai của thực dân Pháp, và mục 3: Những chuyển biến mới về kinh tế và
giai cấp xã hội ở Việt Nam, (Bài 12, Mục I, trang 76, 77, 78)
Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của Pháp, phần 1. Chính
sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, học sinh phải nắm được
chính sách của Pháp đối với thuộc địa về kinh tế là vơ vét sức người, sức của
nhân dân Đông Dương đến tối đa để bù đắp những thiệt hại do Chiến tranh thế
giới thứ nhất gây ra, nên giáo viên có thể sử dụng sơ đồ sau để học sinh nắm
được các chính sách khai thác về kinh
Chính
Chính sách
sáchkhai
khai
thác
thác
lần lần
thứ thứ
nhất hai
của của
thựcthực
dân Pháp
dân
Pháp

Nông
nghiệp
-Cướp đoạt

ruộng đất

Công nghiệp
- Khai thác mỏ
(than đá,thiếc,
kẽm…)
-Chú trọng công
nghiệp nhẹ phục
vụ đời sống

Thương
nghiệp
- Độc chiếm thị
trường,tăng
thuế

Giao thông vận
tải
- Xây dựng hệ
thống giao thông
phục vụ cuộc
khai thác, vừa
phục vụ mục đích
quân sự

Qua sơ đồ giáo viên có thể trình bày thêm, để thực hiện ý đồ vơ vét của
cải ở thuộc địa, Pháp tăng thuế, tăng cường vơ vét lương thực và kim loại cần
thiết cho việc chế tạo vũ khí; bắt dân chuyển từ trồng lúa sang trồng cây công
nghiệp phục vụ chiến tranh. Đó cũng là những điểm khác trong chính sách về
kinh tế của Pháp so với trước chiến tranh.

Chính sách của thực dân Pháp
Chính sách kinh tế của Pháp trong chiến tranh đã ảnh hưởng rất lớn đến
nền kinh tế Việt Nam. Giáo viên có thể cho học sinh xem sơ đồ và sau đó học
sinh thảo luận tự rút ra kết luận về chuyển biến của kinh tế Việt Nam dưới tác
động của cuộc khai thác thuộc địaKinh
lần thứ
hai của
thực dân Pháp
tế Việt
Nam

Cơ cấu mất cân đối

Lạc hậu, què quặt

Phụ thuộc

-9 -


Những chuyển biến mới về kinh tế ở Việt Nam
Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp kéo theo sự biến đổi về mặt xã hội, đó
là sự phân hóa giai cấp sâu sắc, đồng thời xuất hiện thêm những giai cấp xã hội
mới, phần này yêu cầu học sinh phải nắm rõ các giai cấp trong xã hội.
Nhưng trước khi khai thác nội dung của mục này, giáo viên phát cho mỗi bàn
một sơ đồ để trống. Tiếp theo, gọi một học sinh đọc các nội dung trong SGK,
sau đó giáo viên hướng dẫn các em điền các thông tin vào sơ đồ: Các ô còn để
trống và được mã hóa bằng số (1), (2)...thể hiện thái độ chính trị và khả năng
cách mạng của các giai cấp. Ô có đường kẻ đậm là ô có nội dung quan trọng

nhất.
Cuối cùng, gọi đại diện các nhóm trả lời và nhận xét. Có thể, giáo viên vẽ sơ
đồ lên bảng, rồi gọi hai hoặc ba học sinh lên điền các thông tin. Giáo viên bổ
sung và nhận xét

-10 -


Sự phân hóa xã hội Việt
Nam sau chiến tranh thế
giới thứ nhất
Các giai cấp


Địa chủ
phong
kiến
Đại
địa
chủ

Địa chủ
vừa và
nhỏ

(1)

(2)
.


Nông dân

(3)

Các giai cấp
mới
Tư sản

Công
nhân
(4)

Tiểu tư
sản

Mại
bản

Dân
tộc

(5)

(6)
.

(7)
.

Giáo viên kết luận: dưới tác động của những chuyển biến về kinh tế, giai cấp tư

sản ra đời muộn, số lượng ít, các giai cấp như công nhân, tiểu tư sản phát triển
nhanh, đặc biệt là giai cấp công nhân trở thành lực lượng chính trị độc lập.
* Sử dụng sơ đồ để dạy Mục II: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, (Bài 13,
trang 86, 87, 88).
Giáo viên cũng thực hiện theo tuần tự như ở phần 1. Nhấn mạnh: Dưới tác
động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, phong trào dân tộc dân chủ ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Thực tế này đòi hỏi, Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên phải “lột xác”, tức là phải thành lập một đảng vô sản để lãnh đạo quần
chúng. Nhưng chỉ có một số hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
nhận thức được yêu cầu này. Từ đó làm cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên bị phân liệt.
Ảnh hưởng ngày càng lớn của Hội Việt nam Cách mạng thanh niên làm
cho đảng Tân Việt bị phân hóa.

-11 -


Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ để thể hiện nội dung của mục 1 và
2. Từ đó học sinh sẽ dễ nắm kiến thức về quá trình thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, cũng như nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
SỰ XUẤT HIỆN 3 TỔ CHỨC CỘNG SẢN NĂM 1929 VÀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
Hội VNCMTN
(6/ 1925)

Đông Dương
CS đảng
(6/1929)


TÂN VIỆT CM ĐẢNG

(1925)

An Nam CS
đảng
(8/1929)

Đông Dương CS
liên đoàn
(9/1929)

Đảng Cộng sản Việt
Nam
(3/2/1930)
Cương lĩnh chính trị
tháng 2/1930

Đường lối
chiến lược
CMVN

Nhiệm vụ
chiến lược
CMVN

Lực lượng
chiến
lược
CMVN


Vai trò
lãnh đạo

Vị trí
CMVN

.

-12 -


Qua sơ đồ học sinh sẽ thấy được vai trò lịch sử của Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên và Tân Việt Cách mạng đảng với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
* Sử dụng sơ đồ để dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau
ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”.
Đây là bài có nhiều nội dung, vì vậy việc sử dụng sơ đồ là rất cần thiết.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tập trung vào các phần trọng tâm để phân tích.
Đây là khoảng thời gian nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ gặp vô vàn
khó khăn và thử thách. Nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ
mất còn. Đây cũng là giai đoạn thể hiện bản lĩnh chính trị, tài ngoại giao của
Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thuận lợi
Nhân dân ta được làm chủ, phấn khởi, gắn bó với chế độ mới.
Nước ta có Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành.

Khó khăn


Quân Tưởng,
quân Anh, quân
Pháp …

Chính
quyền non
trẻ

Giặc
đói

Giặc
dốt

Tài chính khó
khăn

Biện pháp của chính quyền cách mạng

Trước
6/3 hòa
quân
Tưởng,
đánh
quân
Pháp.

Sau ngày
6/3, đuổi
quân

Tưởng về
nước và
hòa hoãn
với Pháp.

Tổng
tuyển cử
ngày
6/1/1946
để bầu ra
Quốc hội,
Hội đồng
nhân dân
các cấp.

“Nhường
cơm sẻ
áo”, thực
hiện tiết
kiệm, tăng
gia sản
xuất.

Mở lớp
bình dân
học vụ,
phát
triển hệ
thống
giáo dục

phổ
thông.

Quyên
góp tiền
của từ
nhân
dân, phát
hành tiền
giấy Việt
Nam.
-13 -


* Sơ đồ hóa kiến thức bài 21: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 – 1965).
- Giáo viên yêu cầu học sinh hiểu rõ tình hình nước ta sau Hiệp định Giơ ne vơ,
trên cơ sở đó nhận thức nhiệm vụ quan trọng của cách mạng hai miền.
- Nêu được những thành tựu của miền Bắc trong cải cách ruộng đất.
- Trình bày khái quát được những thắng lợi quan trọng của cách mạng miền
Nam trong giai đoạn 1954 – 1965.

Việt
Nam
Sau
năm
1954
đất
nước
bị chia

cắt

Miền Bắc:
Hoàn thành
giải phóng

Miền Nam
đế quốc Mỹ
xâm lược
trở thành
thuộc địa
kiểu mới

Miền Bắc làm cách
mạng XH CN

Miền Nam làm
cách mạng dân
tộc dân chủ
nhân dân

- Khôi phục kinh tế
- Xây dựng cơ sở vật
chất
- Làm nghĩa vụ hậu
phương

- Đấu tranh hòa bình
đòi thi hành hiệp định
Giơnevơ

- Tiến hành “Đồng
khởi”
- Chiến đấu chống
“Chiến tranh đặc
biệt”

- Như vậy trong bài này có một đơn vị kiến thức rất quan trọng về chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”.
- Giáo viên kết luận: Cách mạng hai miền có mối quan hệ gắn bó với nhau.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Mục đích của đề tài là phát huy tinh thần tự chủ của học
khikhó
họckhăn
Tàisinh
chính
lịch sử. Đề tài nhằm khắc phục tình trạng “thầy giảng, trò nghe”, “thầy đọc, trò
chép”. Kiến thức đã có trong sách giáo khoa. Điều quan trọng đề tài khai thác
một khía cạnh mới, một con đường để đưa các em tiếp cận một cách có hiệu
quả, khắc phục tình trạng chán học, ngại học lịch sử như hiện nay.
Từ cách làm trên tôi thấy rằng mình đã thành công bước đầu, phần nào đã
khắc phục được sự uể oải, nhàm chán trong giờ học Lịch sử đối với học sinh và
ngay cả bản thân giáo viên.

-14 -


a. Đối với bản thân
Khi vận dụng sơ đồ trong một số giờ dạy, bản thân cảm thấy giờ dạy trôi đi
rất thoải mái, rất nhẹ nhàng và thực hiện giờ dạy bảo đảm sư tương tác.
b. Đối với học sinh

Về mặt giáo dưỡng
Phát huy được tính tự chủ trong cách tiệp nhận và khai thác bài học. Tạo sự
lôi cuốn trong học sinh, các em rất hào hứng, tập trung , tinh thần xây dựng bài
cao.
Học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, ghi nhớ sự kiện
một cách nhanh chóng và logic. Qua kiến thức được trình bày, giúp học sinh
hình thành và phát triển tư duy, so sánh, tổng hợp, đánh giá.
Về mặt giáo dục
Học sinh đã tránh được thói ỷ lại và phần nào đã khẳng định được cái tôi
trong quá trình học tập.
Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả
quan, sử dụng sơ đồ phù hợp trong việc củng cố kiến thức trong bài hoặc hệ
thống kiến thức chương hoặc cả thời kì lịch sử. Học sinh nắm vững được kiến
thức cơ bản, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà quan trọng là học sinh
hiểu được lịch sử nắm được bản chất của sự kiện, giúp học sinh tổng hợp, phân
tích, so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện.
Kết quả thực nghiệm sau khi áp dụng đề tài vào giảng dạy
Lớp

Sĩ số

12Q
12T

35
34

Giỏi
SL %
12

34
11
32

Khá
SL %
23
66
23
68

Trung bình
SL
%
0
0

Yếu
SL %
0
0

Kém
SL
%
0
0

-15 -



3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
“Dân ta phải biết sử ta” đây không chỉ là mối quan tâm của Bác Hồ, đó
cũng là nỗi trăn trở của những giáo viên dạy môn Lịch sử, tôi luôn mong muốn
học sinh của mình hiểu được nội dung bài, hiểu được lịch sử của dân tộc từ đó
các em sẽ cảm thấy yêu thương gắn bó với quê hương đất nước mình hơn.
Phương pháp trên đã được áp dụng thực tế ở trường THPT Ba Đình và
cũng đạt được kết quả phát huy được tính tích cực của học sinh, rèn được kĩ
năng tổng hợp, phân tích, so sánh, các em biết sử dụng sách giáo khoa, vận dụng
kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới. Giúp học sinh hiểu bài nhanh, thu hút sự
cảm hứng đối với môn học này và học sinh có thể hiểu và nhớ bài ngay tại lớp,
đồng thời giúp học sinh nhận thức được một cách sâu sắc về vị trí tầm quan
trọng của lịch sử trong xã hội mà bấy lâu nay hầu như các em chưa mấy quan
tâm.
Mỗi người có một suy nghĩ, mỗi giáo viên có một phong cách lên lớp riêng.
Song tôi nghĩ dù là phương pháp nào đi chăng nữa thì mục tiêu cuối cùng là
truyền thụ cho các em học sinh đúng, đủ kiến thức giúp các em hiểu bài khắc
sâu bài giảng và khắc sâu kiến thức một cách nhanh nhất. Với bộ môn Lịch Sử
tôi thiết nghĩ tìm được một phương pháp chung trong dạy học đạt kết quả cao
nhất và tất cả học sinh hứng thú với bộ môn là điều khiến mỗi giáo viên phải tìm
tòi, song không phải dễ dàng đạt được điều đó. Những suy nghĩ trên đây của tôi
chỉ là những kinh nghiệm rút ra từ những gì được tôi tiếp xúc qua nhiều năm
công tác ở các trường, qua các đợt tập huấn hè của ngành giáo dục, kết hợp với
thực tế giảng dạy, và đổi mới cùng với kiến thức đã tích lũy được và khả năng tự
học sáng tạo.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi, phần lớn dựa vào tình hình
học tập của học sinh trường THPT Ba Đình nên khả năng áp dụng thực tiễn
không rộng rãi và chắc chắn có nhiều hạn chế, kính mong quí thầy cô đóng góp
ý kiến thêm. Tôi xin chân thành cảm ơn!

3.2. Kiến nghị
Hiện nay trong nhà trường đã được cấp nhiều thiết bị dạy học tuy vậy đối
với môn Lịch sử thì đồ dùng còn quá ít, vì vậy muốn đạt kết quả cao trong bộ
môn này cần có thêm những yêu cầu sau:
-16 -


- Cần tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học
- Nên có những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử
- Cung cấp nhiều tư liệu để giảng dạy tốt phần lịch sử địa phương.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga sơn, ngày 30 tháng 06 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung
người khác
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Hương

-17 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, bài tập lịch sử– Nhà xuất bản Giáo dục.
- Tài liệu hội thảo tập huấn : Đổi mới nội dung và phương pháp dạy lịch sử
- Hoạt động dạy học ở trường THPT – Nhà xuất bản Giáo dục.
- Phương pháp dạy học lịch sử của - Nhà xuất bản Giáo dục.
- Lý luận dạy học lịch sử (Giáo trình của trường Đại học Cần Thơ)

- Giáo dục học (lý luận dạy học tập II) Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.

-18 -


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGHÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: NGUYỄN THỊ HƯƠNG
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THPT Ba Đình

TT
1
2
3

4

5

Tên đề tài SKKN
Thiết kế bài dạy như thế
nào cho đúng ví dụ minh
họa.
Một số biện pháp giáo dục
học sinh cá biệt.
Hướng dẫn học sinh khai
thác đồ dùng dạy học lịch
sử theo lớp 10, 11…

Sử dụng bảng kiến thức
trong dạy học lịch sử trên
phần mềm Powerpoint và
ví dụ.
Thủ thuật ứng dụng các trò
chơi gây hứng thú học tập
trong dạy học lịch sử thế
giới lớp 10.

Cấp đánh
giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Ngành

C

2003 - 2004

C

2008 - 2009

Ngành

C


2009 - 2010

Ngành

C

2010 - 2011

Ngành

C

2014 - 2015

Ngành

Năm học
đánh giá xếp
loại

-19 -



×