Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Skkn đổi mới phương pháp dạy và bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.06 KB, 26 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SƠN HÀ
TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN CAO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI :

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

Lĩnh vực : Lĩnh vực khác
Tác giả : Nguyễn Dũng
Chức vụ : Giáo viên

Năm học : 2015 - 2016


MỤC LỤC

PHẦN I :
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

PHẦN II :
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1 : Cơ sở lí luận và thực tiễn : ......................................
1/ Cơ sở lí luận : ...........................................................................
2/ Cơ sở thực tiễn : .......................................................................
a/ Thuận lợi : .................................................................................
b/ Khó khăn : .................................................................................
Chương 2 : Thực trạng về dạy học sinh chưa hoàn thành : ....
1/ Thực trạng tình hình : ..............................................................
a/ Về phía học sinh : .....................................................................


b/ Về phía giáo viên : ....................................................................
Chương 3:Những biện pháp thực hiện mang tính khả thi : ....
1/ Những biện pháp chung : ..........................................................
2/ Những biện pháp cụ thể : ........................................................
Chương 4 : Hiệu quả của đề tài ................................................
1/ Chất lượng học tập cuối học kì I môn Toán và tiếng Việt : ......
2/ Chất lượng học tập cuối năm môn Toán và tiếng Việt :.............

PHẦN III :
KẾT LUẬN
1/ Ý nghĩa của đề tài .....................................................................
2/ Khả năng ứng dụng triển khai ..................................................
3/ Bài học kinh nghiệm ..................................................................
4/ Những kiến nghị đề xuất ...........................................................
Tài liệu tham khảo ........................................................................
Duyệt sáng kiến kinh nghiệm của các cấp .....................................
Duyệt sáng kiến kinh nghiệm của các cấp .....................................
Duyệt sáng kiến kinh nghiệm của các cấp .....................................

Trang
Trang
Trang
Trang
Trang

1
1
3
3
3


Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 5
Trang 6
Trang 6
Trang 8
Trang 8
Trang 10
Trang 15
Trang 15
Trang 17
Trang 19
Trang 19
Trang 19
Trang 19
Trang 19
Trang 20
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25


PHẦN I :
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, tiếp thu tri

thức là một vấn đề mà nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích
cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu
cầu tìm tòi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của học sinh. Trước vấn đề
đó, người giáo viên không ngừng tìm tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt
động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với


từng bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ
động, sáng tạo. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối đa
bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh chưa hoàn thành. Ở các em có sự khác
biệt về khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ,… so với những
học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của
các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tốt nhất,
tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn trong học tập. Đó chính là điều mà
bản thân tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp
đỡ các đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Vấn đề học sinh chưa hoàn thành hiện
nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để
đưa nền giáo dục xã nhà nói riêng và toàn xã hội nói chung được phát triển toàn
diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi
phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học
sinh chưa hoàn thành. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn không ít đối với nhiều
giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong
bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp
cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức. Việc vận dụng sự
đổi mới công tác dạy và bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành không chỉ là trách
nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu được thường
xuyên quan tâm đến việc bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành thì sẽ làm cho các
em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm
nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Với những lí

do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản
thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành . Đây sẽ là
nền tảng là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức
và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Từ những suy nghĩ trên,
bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Đổi mới phương pháp dạy và bồi dưỡng
học sinh chưa hoàn thành ở trường tiểu học”.


PHẦN II:
NỘI DUNG NHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 :
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1/ Cơ sở lí luận :
- Việc học sinh học chưa hoàn thành là vấn đề đau đầu từ các cấp lãnh đạo
cho đến giáo viên đang giảng dạy, nhiều giáo viên mất ăn, mất ngủ để tìm được
những giải pháp có thể giúp học sinh chưa hoàn thành tiến bộ. Và cũng không có
gì vui hơn khi nhìn thấy học sinh mình học tập ngày càng tiến bộ.
- Qua nghiên cứu từ thực tiễnvà kinh nghiệm dạy học của giáo viên thời
gian qua. Chúng ta tạm thời định nghĩa học sinh chưa hoàn thành như sau:
* Thế nào là học sinh chưa hoàn thành ? Là những học sinh bằng kiến thức,
kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không


tự giải quyết được những mâu thuẫn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài
học, hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản
vốn có ở học sinh để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá
trình dạy và học
2. Cơ sở thực tiễn :
a . Thuận lợi : Đối với học sinh lớp 5 là lớp mà bản thân mình làm mọi
hành động của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập của các em tương đối cao

Học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó,
bạn học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh chưa hoàn thành
giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập. Đội ngũ giáo viên trong khối nhiệt
tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh
chưa hoàn thành. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà
trường. Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán
nội dung chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân
môn, từng bài học. Vì vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động
hơn.
b. Khó khăn : Như đã nêu, đối tượng học sinh chưa hoàn thành có những
khác biệt và hơn thế nữa, trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác
biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác
nhau. Quy định về đánh giá học sinh tiểu học theo thông tư 30/2014. Học sinh
hoàn thành chương trình lớp học phải đạt các điều kiện :
- Đánh giá thường xuyên đối với tất cả các môn học, hoạt động giáo dục :
Hoàn thành.
- Đánh giá định kì cuối năm các môn học theo quy định : đạt 5 điểm trở
lên.
- Mức độ hoàn thành và phát triển năng lực : Đạt
- Mức độ hoàn thành và phát triển phẩm chất : Đạt
* Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao, đối với đối
tượng học sinh chưa hoàn thành thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về


kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào
dân tộc thiểu số, ít quan tâm đến việc học của con em mình nên luôn ảnh hưởng
đến hiệu quả giáo dục.

CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG VỀ DẠY HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH

1/ Thực trạng tình hình:
Ngay từ đầu năm học, khi bắt đầu nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng học tập của các em, cụ thể như sau :
Kết quả khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học 2014 – 2015 như
sau :

TSHS
19

MÔN
TV
TOÁN

HOÀN THÀNH
SL
TL
16
16

84,2%
84,2%

CHƯA HOÀN THÀNH
SL
TL
3
3

15,8%
15,8%


- Dưới đây là biểu đồ biểu thị kết quả khảo sát chất lượng đầu năm môn Toán và
tiếng Việt năm học 2014 – 2015.


- Căn cứ vào kết quả khảo sát, tôi nhận thấy chất lượng đọc và làm Toán
của lớp còn thấp. Qua tìm hiểu, tôi đã nắm được một số nguyên nhân như sau :
* Nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành :
a/ Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri
thức thì nguyên nhân học sinh chưa hoàn thành có thể là do học sinh lười học.
Qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng các em học sinh chưa hoàn
thành là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc
học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách
đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của
việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe thầy giảng bài rồi ghi vào những
nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt ” mà không hiểu được nội dung
đó nói lên điều gì. Học sinh không có thời gian cho việc tự học. Khi ở nhà các em
phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn trâu, chăn bò. Học sinh bị hổng kiến
thức từ lớp nhỏ. Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập
hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh
giá đúng trình độ của học sinh
b/ Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học chưa hoàn thành không
phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo


viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công
tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học
vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy mới tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa
chọn phương pháp dạy học sao là phù hợp với từng đối tượng học sinh miền núi.

Qua quá trình công tác bản thân tôi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên
chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh chưa hoàn
thành . Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ
động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của
từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học
chưa hoàn thành mà bản thân tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc
phân tích những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục,
bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành. Trong phạm vi của bài viết, bản thân chỉ đề
cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành ở hai môn : Toán và Tiếng
Việt.


CHƯƠNG 3 :
NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN MANG TÍNH KHẢ THI
1/ Những biện pháp chung :
+ Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện. Sự thân thiện của giáo
viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời
nói, ánh mắt, nụ cười,… giáo viên tạo sự gần gũi để các em mới có cảm giác an
toàn bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không trách
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ
giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó,
giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như
giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em
hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các
phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết
giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”
+ Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh. Giáo viên cần xem xét, phân
loại những học sinh chưa hoàn thành đúng với những đặc điểm vốn có của các em
để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em.

Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu
bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát. Trong thực tế người ta nhận thấy có bao


nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong
cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ
chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài
học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học
sinh chưa hoàn thành được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài: Khái
niệm số thập phân (Toán – lớp 5), đối với các em học sinh chưa hoàn thành thì các
em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “ Nhận biết số thập phân ” là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em
được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích
thực của mình trong tập thể. Yêu cầu của một tiết luyện tập là 4 bài tập, các em
này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em. Ngoài ra,
giáo viên có thể tổ chức bồi dưỡng cho những học sinh chưa hoàn thành khi các
biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức bồi dưỡng
từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức bồi dưỡng phải kết hợp
với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề.
+ Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải giáo dục ý thức học
tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học
sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức
vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong
thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc
chiếm lĩnh tri thức. Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh
về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học
tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt
và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc

học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học
sinh. Do hiện nay, ở vùng miền núi cũng có một số phụ huynh luôn gò ép việc học
của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân
giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức.


Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí
phấn đấu vươn lên.
+ Kèm cặp học sinh chưa hoàn thành ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo
sát chất lượng để biết số lượng học sinh chưa hoàn thành là bao nhiêu để có kế
hoạch bồi dưỡng. Như học sinh lớp 5 mà bản thân chủ nhiệm trong năm học 2014
- 2015, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 03 học sinh chưa hoàn
thành cả về Toán và Tiếng Việt và bản thân đã lên kế hoạch bồi dưỡng cho các
em. Lập danh sách học sinh chưa hoàn thành (theo mẫu dưới đây) và chú ý quan
tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy thường xuyên gọi các em
đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em khi các em trả lời đúng,…
TT

Họ và tên

Năm

HS

sinh

Môn
TV Toán

Biểu hiện


Con

CHT

ông(bà)

Nơi ở

Ghi chú

+ GV chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với
phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.
2/ Những biện pháp cụ thể:
* Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện
pháp khắc phục:
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong lớp còn một số em đọc rất
chậm. Như em Đinh Văn Hà, Đinh Văn Thành, Đinh Văn Soan. Nguyên nhân đọc
chậm ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được
các dấu câu (em Đinh Văn Soan), chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5,
với những cụm từ khó thì phải đánh vần, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi
đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và một văn bản còn hạn chế.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc
chậm thường cũng viết chậm. Nguyên nhân các em viết chậm là do chưa hiểu và
nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc
lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến viết chậm.


+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết
câu.

+ Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt
bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm cho hạn chế khả năng
hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng vốn hiểu biết
về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề,
tìm ý, quan sát, viết đoạn
* Biện pháp :
+ Tập đọc: Đối với những học sinh đọc chậm thì giáo viên cần: Tạo điều
kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc và các môn học khác như:
thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các
em và cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không
đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào giờ giải lao 5
hoặc 10 phút. Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn
bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải
kiểm tra và nhận xét việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp
thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp
phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào, nếu thấy cần
thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ. Giáo viên tạo góc thư viện cho học
sinh đọc truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên
dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp
cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần.
Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều là động lực thúc
đẩy các em say mê luyện đọc. Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho
các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong
nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và
nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung
bài đọc.


+ Chính tả: Đối với những học sinh viết chậm thì giáo viên cần: Tổ chức
cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết

khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ, câu. Sau đó, giáo viên đọc cho
học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có
thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng
để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét kịp thời. Nếu có
điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến
bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết
đúng chính tả và nhanh hơn. Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài
chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết
từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. Đối
với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp
nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.
+ Luyện từ và câu: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng
ngày. Hướng dẫn các em tra từ cách đặt câu, tạo cơ hội cho các em được nêu lên
những câu văn đúng giúp các em tạo sự ham thích tìm hiểu.
+ Tập làm văn: Nhận dạng thể loại, xác định nội dung, viết đoạn. Giáo viên
chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại. Cần tạo điều kiện
để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các
em trình bày bài viết trước lớp. Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay
đổi những đề bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em
một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ
của mình hơn. Ví dụ: Với đề bài : Tả về người thân trong gia đình em.

( Sách

Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 ) Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trong gia
đình em ai cũng yêu mến và chăm sóc em, em hãy tả về người mà em quý mến
nhất. Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng
thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.
* Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp
khắc phục Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Đinh Thị Loan thì hầu như là tính



toán rất chậm khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu
một số nguyên nhân tiêu biểu: Em chưa nắm vững được các phép tính nhân, chia (
nhân với số có 2 chữ số, chia cho số có một chữ số ). Các em không nắm được lí
thuyết bài ( quy tắt). Chưa nắm vững được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách
tính)… Từ chỗ chưa nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em chưa thực hiện
nhanh được phép tính nhân, chia. Mà đối với học sinh lớp 5 là các em phải làm rất
nhiều bài tập về cộng trừ, nhân, chia các số tự nhiên và phân số, số thập phân,…
Vậy, đối với những học sinh chưa biết tính hoặc tính chậm thì giáo viên cần
hướng dẫn để các em hiểu về cách nhân, chia. Khi thực hiện các phép tính nhân,
chia, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ
vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết
cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên
kiểm tra thường xuyên vào giờ ra chơi hoặc sinh hoạt cuối tuần, giáo viên có thể
lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình huống liên quan đến
các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện. Ôn lại các hàng, lớp và cách tính
số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp. Ví dụ: 125  21; 230 : 5. Nguyên nhân các em tính chậm có thể là do:
Khả năng tính nhẩm lâu do nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính
toán chậm, thiếu chính xác. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười
tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặc khác, các
em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì
ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và tính toán thiếu chính xác. Vậy đối với những
học sinh tính toán chậm thì giáo viên cần: Chú trọng vào việc giúp các em thành
thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. Khi giải toán, giáo viên
có thể yêu cầu các bạn học sinh năng khiếu phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày
bài giải. Sau đó, ra một bài
tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em tính toán
chậm làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc vào buổi chiều. Khi các em

làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin,
hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. Động viên, giúp đỡ các em hoàn


thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng
từng em. Trên lớp, các em học tập giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những
khó khăn thường gặp, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ
khi cần. Khuyến khích các em tự làm bài vào vở bài tập đối với các dạng bài
thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc học, làm bài tập
để có hướng khắc phục và động viên kịp thời.

CHƯƠNG 4:
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo
điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề
ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối
tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc
phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng
đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp
trên có thể áp dụng vào việc đổi mới dạy và bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành


các khối 4, 5 đạt hiệu quả. Theo dõi bảng số liệu cuối học kì I, năm học 2014 2015 của học sinh lớp 5B, ta sẽ thấy sự tiến bộ vượt bậc của các em.

1/ Chất lượng học tập cuối học kì I môn Toán và tiếng Việt :
Kết quả học tập của học sinh cuối học kì I 2014 – 2015 như sau :

TSHS
19


MÔN
TV
TOÁN

HOÀN THÀNH
SL
TL
19
18

100%
94,7%

CHƯA HOÀN THÀNH
SL
TL
0
1

0%
5,3%

- Dưới đây là biểu đồ biểu thị kết quả học tập cuối học kì I môn tiếng Việt và
môn Toán của học sinh trong năm học 2014 – 2015.


2/ Chất lượng học tập cuối năm môn Toán và tiếng Việt :
Kết quả học tập của học sinh cuối năm học 2014 – 2015 như sau :

TSHS

19

MÔN
TV
TOÁN

HOÀN THÀNH
SL
TL
19
19

100%
100%

CHƯA HOÀN THÀNH
SL
TL
0
0

0%
0%

- Dưới đây là biểu đồ biểu thị kết quả học tập cuối năm học môn tiếng Việt và
môn Toán của học sinh trong năm học 2014 – 2015.


* Tóm lại:
- Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh chưa

hoàn thành, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông
qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập
thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học
sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân
luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để
hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích
cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích
hợp trong công tác bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành. Đây là yếu tố cần thiết,
giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao.


PHẦN III :
KẾT LUẬN
1/ Ý nghĩa của đề tài :
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy học sinh
chưa hoàn thành. Giúp giáo viên từng lúc cân bằng trình độ học sinh trong lớp học;
giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm
vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn.

2/ Khả năng ứng dụng triển khai :
Đề tài đang trong bước đầu thực hiện có hiệu quả, khả quan. Vì vậy đề tài có
khả năng ứng dụng và triển khai cho tất cả giáo viên trong đơn vị cùng thực hiện và
bổ sung để việc dạy học sinh chưa hoàn thành đạt hiệu quả cao hơn.
3/ Bài học kinh nghiệm:
- Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ
đối tượng học sinh chưa hoàn thành, giáo viên chủ nhiệm cần phải nhiệt tình,
năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng



dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình
học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi
trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của
học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học.
Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh,
không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem
học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em
để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh lớp 5 rất thích được động viên
khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ
sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập.
* Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò,
giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng
trong học tập thì chắc chắn rằng các em học sinh chưa hoàn thành sẽ mạnh dạn và
tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt
thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân của các em thì
chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng,
vai trò của chúng ta: “ Người Thầy của mọi Thầy” đã hoàn thành. Một số kinh
nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các
quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm
thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành là nghĩa vụ, trách
nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và
hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu
nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với
kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn
hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Đây là một trong
những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực
hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.

4/ Những kiến nghị, đề xuất :



- Phòng giáo dục và đào tạo huyện Sơn Hà, cụm chuyên môn Cao, Linh,
Giang, Ban Giám hiệu trường tiểu học Sơn Cao thường xuyên tổ chức các chuyên
đề bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành để cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh
nghiệm lẫn nhau.
- Để hoàn thành sáng kiếm kinh nghiệm này, tôi xin chân thành cảm ơn :
Phòng giáo dục và Đào tạo huyện Sơn Hà, Ban giám hiệu Trường tiểu học Sơn
Cao, đã phát động thi đua viết sáng kiến kinh nghiệm, nhằm khuyến khích chúng
tôi những người thầy giáo, cô giáo, nghiên cứu chuyên môn tích lũy kinh nghiệm,
làm giàu vốn kinh nghiệm cho bản thân.
Trong quá trình nghiên cứu chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thiếu sót, rất
mong sự góp ý của đồng nghiệp, của các cấp lãnh đạo để đề tài được hoàn thiện
hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn !
Sơn Cao, ngày 12 tháng 11 năm 2015
Người viết

Nguyễn Dũng


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Công văn 245/GD& ĐT Sơn Hà, ngày 18 tháng 11 năm 2011 về việc hướng
dẫn thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến kinh nghiệm.
2/ Số liệu, chất lượng học tập của học sinh lớp 5 ở đầu năm học 2014 – 2015;
cuối học kì I và cuối năm học 2015 – 2016;
3/ Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 5 của Bộ giáo dục và đào tạo ( Nguyễn Minh
Thuyết chủ biên )
3/ Sách giáo khoa Toán lớp 5 của Bộ giáo dục và đào tạo ( Đỗ Đình Hoan chủ
biên )
4/ Kế hoạch bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành của chuyên môn trường.
5/ Kế hoạch bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành của tổ 5.

6/ Thông tư 30/2014/ TT-BGDĐT, ngày 28 tháng 8 năm 2014.
7/ Sổ giáo viên chủ nhiệm tiểu học.


Duyệt của các cấp lãnh đạo
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


×