Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nhân vật bình phàm trong truyền kì mạn lục của nguyễn dữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.3 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THỊ THÚY

NHÂN VẬT BÌNH PHÀM
TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
CỦA NGUYỄN DỮ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THỊ THÚY

NHÂN VẬT BÌNH PHÀM
TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
CỦA NGUYỄN DỮ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ TÍNH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn
Thị Tính, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
giúp đỡ, hướng dẫn tận tình để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ văn, đặc biệt là các
thầy, cô giáo trong Tổ Văn học Việt Nam đã cung cấp kiến thức khoa học và
tạo điều kiện để tôi có thể thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thúy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các luận điểm và kết quả nghiên cứu được nêu trong khóa luận chưa từng được
công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào. Nếu sai, tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thúy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................... 5
6. Đóng góp của đề tài.............................................................................................................. 5
7. Bố cục của khóa luận ........................................................................................................... 5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 6
1.1. Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục................................................................................... 6
1.1.1. Tác giả Nguyễn Dữ ................................................................................. 6
1.1.2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” ............................................................... 6
1.2. Khái niệm nhân vật bình phàm ....................................................................................... 8
1.2.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................. 8
1.2.2. Khái niệm nhân vật bình phàm ............................................................. 10
Chương 2. NHẬN DIỆN NHÂN VẬT BÌNH PHÀM TRONG TRUYỀN KÌ
MẠN LỤC ....................................................................................................... 12
2.1. Thống kê nhân vật bình phàm ....................................................................................... 12
2.2. Phân loại nhân vật bình phàm........................................................................................ 14
2.3. Các đặc điểm của nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục.............................. 15
2.3.1. Địa vị xã hội của nhân vật bình phàm................................................... 15
2.3.2. Tư tưởng, lối sống của nhân vật bình phàm.......................................... 16
2.3.3. Số phận của nhân vật bình phàm .......................................................... 25


Chương 3. PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT
BÌNH PHÀM TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC ........................................ 31
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................. 31
3.2. Các motip phổ biến .................................................................................. 34
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật thể hiện nhân vật bình phàm .......... 40
KẾT LUẬN .................................................................................................... 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Dữ chỉ để lại một tác phẩm duy nhất là Truyền kì mạn lục. Chỉ
với tác phẩm này, Nguyễn Dữ đã đưa thể loại truyền kì lên một tầm cao mới.
Tác phẩm đã chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc, hình thức thể hiện độc đáo,
có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Nguyễn Dữ chính là “cha đẻ
của loại hình truyền kì Việt Nam” [12, 213]. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu
“Nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” nhằm mục đích
đánh giá một cách đúng đắn vị trí của tác giả và tác phẩm trong nền văn học
trung đại Việt Nam.
Một số tác phẩm trong Truyền kì mạn lục được đưa vào sách giáo khoa,
giảng dạy trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông cho thấy vị trí của
Nguyễn Dữ đối với văn học dân tộc. Đó là Chuyện người con gái Nam Xương
trong chương trình Ngữ văn lớp 9 và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong
chương trình Ngữ văn lớp 10. Hơn nữa, nhân vật bình phàm là cầu nối giữa
văn học trung đại và văn học hiện đại. Sau khi học xong phần văn học trung
đại, học sinh được tiếp xúc với các tác phẩm văn học hiện đại có các nhân vật
bình phàm. Việc tìm hiểu “Nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ” sẽ giúp học sinh thấy được mối liên hệ giữa nhân vật bình phàm
trong văn học trung đại và văn học hiện đại, đồng thời tìm ra điểm khác biệt,
nét riêng của từng bộ phận văn học trong dòng chảy chung của văn học nước
nhà.
Nhân vật bình phàm là một trong những phương tiện quan trọng tạo nên
sức hấp dẫn, thành công của tác phẩm Truyền kì mạn lục. Tuy nhiên, giới
nghiên cứu lại chưa quan tâm tới vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc. Vì
vậy, với việc tiếp thu, kế thừa các công trình nghiên cứu và thành tựu đi trước,


1


tôi sẽ cố gắng trình bày những suy nghĩ, ý kiến của mình một cách hệ thống,
cụ thể hơn về nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
2. Lịch sử vấn đề
Truyền kì mạn lục là tác phẩm đỉnh cao trong văn học truyền kì trung
đại Việt Nam. Từ khi ra đời cho đến nay, tác phẩm đã làm hao tổn biết bao tâm
trí, giấy mực của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Đó là các tác giả: Lê
Qúy Đôn, Phan Huy Chú, Vũ Khâm Lân, Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia Khánh,
Bùi Duy Tân, Phạm Hùng…
Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam tập II, Bùi Văn Nguyên đã có
những nhận xét tổng quát về nội dung, nghệ thuật của Truyền kì mạn lục
“Truyền kì mạn lục là một tập văn hay, cái hay ở đây không riêng về nội dung
phong phú, chi tiết sinh động, nhưng cái hay ở đây còn ở nghệ thuật xây dựng
nhân vật, phân tích tâm lí, phô diễn ngôn ngữ” [13, 131].
Trong Tạp chí khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tác giả Đỗ
Thị Mỹ Dung có bài viết “Cái chết oan và bi kịch của người phụ nữ trong
“Truyền kỳ mạn lục”. Tác giả cho rằng: “Trong văn học trung đại Việt Nam,
có thể nói Nguyễn Dữ là người đầu tiên đề cập đến cái chết mang màu sắc oan
khuất của người phụ nữ. Và cũng có thể nói, ông là người đầu tiên quan tâm
đến vấn đề thân phận người phụ nữ - những khao khát bị chà đạp, những nỗi
đau khổ, bất hạnh, những bế tắc, mở đầu cho trào lưu văn học viết về người
phụ nữ giai đoạn thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX” [3, 49].
Các nhà nghiên cứu Việt Nam còn có những bài viết nói về mối quan hệ
ảnh hưởng giữa Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ) với Tiễn đăng tân thoại (Cù
Hựu). Trong “So sánh văn học và văn hóa - Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung
Quốc qua truyện Từ Thức lấy vợ tiên”, Trần Đình Sử có viết: “Truyện Từ Thức
chịu ảnh hưởng của Cù Hựu chỉ một phần nhỏ, phần lớn chịu ảnh hưởng của
tiên thoại, truyền kì Trung Quốc và chịu tác động của thực tại Việt Nam. Chỉ


2


khi nào so sánh văn học cổ Việt Nam trong bối cảnh văn hóa, văn học rộng lớn
thì mới nhìn rõ mối quan hệ ảnh hưởng và sáng tạo của nó. Nhà văn cổ điển
Việt Nam, dù vay mượn của ai, cái gì, thì trên thực tế họ chịu ảnh hưởng của
cả nền văn học, văn hóa Trung Quốc” [19, 26].
Nhân vật trong tác phẩm Truyền kì mạn lục cũng được các tác giả nghiên
cứu và tìm hiểu. Tuy nhiên, giới nghiên cứu tập trung chủ yếu vào kiểu nhân
vật kì ảo, nhân vật đạo sĩ và dật sĩ. Trong Tạp chí khoa học, Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, tập 14, số 8/2017, tác giả Lê Văn Tấn và
Kim Ki Hyun đã có bài viết “Kiểu nhân vật đạo sĩ và dật sĩ trong Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ”. Tác giả cho rằng: “Bằng việc khảo sát, phân tích và luận
giải, có thể khẳng định sự thành công của Nguyễn Dữ trên phương diện xây
dựng các loại hình nhân vật nói chung, loại hình nhân vật đạo sĩ và dật sĩ nói
riêng trong tập truyện. Từ tư thế của một nhà nho ẩn dật, với lợi thế thể loại,
Nguyễn Dữ đã khá tự do, phóng túng trong việc tạo cho hai kiểu nhân vật này
những màu sắc kì ảo song vẫn có những hạt nhân gắn bó chặt chẽ với hiện
thực” [20, 36].
Giáo sư Nguyễn Đăng Na cho rằng: “Với “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn
Dữ đã vượt khỏi những công thức ước lệ về hình tượng người phụ nữ trong thể
truyền kì. Vũ Nương không phải là hình tượng một trang liệt nữ, nàng chỉ là
một người đàn bà bình thường như bao người vợ, người mẹ trong đời thực…”
[11, 32].
Tác giả Trần Thị Thu Hiền trong Tạp chí Khoa học, số 5, 2010, Đại học
Sư phạm Hà Nội có nghiên cứu “Oan và giải oan trong Truyện nghiệp oan của
Đào thị”: “Có thể nói, với truyện Nghiệp oan của Đào thị, Nguyễn Dữ đã tái
hiện bức tranh toàn cảnh về xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ. Thần
quyền không còn là nơi trông cậy, ngược lại là nơi gieo tai họa cho con người.

Cường quyền và dư luận có thể vùi dập, dồn đuổi con người đến đường cùng.

3


Sống giữa xã hội ấy, số phận con người nói chung và người phụ nữ nói riêng
đều hết sức bấp bênh, bất hạnh. Đào Thị tài hoa và nhan sắc nhưng lại khổ vì
chính tài hoa và nhan sắc đó. Cả cuộc đời Đào Thị là sự bị truy đuổi, tiêu diệt
và trừng trị” [6, 76].
Đặc biệt, tác giả Trần Nho Thìn đã có một bài viết quan trọng mang tính
định hướng cho việc tìm hiểu nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục. Đó
là bài viết “Thi pháp truyện ngắn văn học trung đại Việt Nam”. Tác giả đã phân
tích “thi pháp của loại truyện về các thánh nhân quân tử” và “thi pháp của
loại truyện về các nhân vật bình phàm”: “Các danh nhân thực ra là thể hiện
mẫu hình nhân vật lí tưởng, mẫu người thánh nhân còn các nhân vật trần thế
là thể hiện mẫu người tự nhiên, người bình phàm. Ứng xử của các hình mẫu
này đối với xã hội, tự nhiên và bản thân là khác nhau và các yếu tố thi pháp
miêu tả chúng cũng khác nhau” [22].
Tóm lại, tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau: nội dung,
quan điểm nghệ thuật về con người, nhân vật, khuynh hướng sáng tác… Tuy
nhiên, một số bài viết còn bỏ ngỏ cho nhiều hướng nghiên cứu tiếp theo.
Dựa vào các nguồn tài liệu tham khảo được nêu ở trên, tôi xin đi sâu vào
tìm hiểu nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và
phương thức nghệ thuật thể hiện nhân vật bình phàm trong tác phẩm. Qua đó,
tác giả khóa luận muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc khẳng định sự thành
công của Nguyễn Dữ trong xây dựng hình tượng nhân vật.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ” nhằm mục đích thống kê, phân tích kiểu nhân vật chính trong

Truyền kì mạn lục. Từ đó, thấy được nội dung, tư tưởng của tác phẩm và sự
đóng góp to lớn của Nguyễn Dữ vào sự phát triển của văn học dân tộc.

4


Đồng thời, bản thân tác giả muốn trau dồi kiến thức phục vụ cho việc
giảng dạy và nghiên cứu sau này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- 20 truyện trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được in trong cuốn
Cù Hựu, Tiễn đăng tân thoại; Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, Nhà xuất bản
Văn học, năm 1999.
- Khi triển khai đề tài, tác giả luận văn có so sánh, đối chiếu với một số
tác phẩm truyền kì trước và sau Truyền kì mạn lục.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào mục đích và yêu cầu của đề tài này, tôi xin sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tổng hợp
6. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu một cách tập trung về nhân vật bình phàm
trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Qua đó, ta thấy được những
đóng góp to lớn của Nguyễn Dữ đối với sự phát triển của văn học Việt Nam.
7. Bố cục của khóa luận
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nhận diện nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục

Chương 3. Phương thức nghệ thuật thể hiện nhân vật bình phàm trong Truyền
kì mạn lục

5


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục
1.1.1. Tác giả Nguyễn Dữ
Những tài liệu ghi chép về tác giả Nguyễn Dữ hiện còn rất sơ lược.
Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh, năm mất. Ông quê ở xã Đường Lâm, huyện
Gia Phúc, thuộc Hồng Châu xưa (nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).
Nguyễn Dữ là con trai cả của Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn,
niên hiêu Hồng Đức năm thứ 27 (1486), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi
mất được tặng phong Thượng thư. Từ đó có thể suy đoán, Nguyễn Dữ có khả
năng sống vào cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI.
Từ nhỏ, Nguyễn Dữ đã chăm học, đọc rộng nhớ nhiều, từng ôm ấp lí
tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Có thể Nguyễn Dữ đã từng theo học
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Bởi theo Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề),
Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau khi đỗ hương tiến, Nguyễn
Dữ thi Hội nhiều lần và từng giữ chức tri huyện Thanh Tuyền. Nguyễn Dữ ra
làm quan được một năm thì cáo quan, lấy lí do phụng dưỡng mẹ già cho tròn
đạo hiếu, từ đó ông không bước đến thị thành.
Dù về ẩn dật nhưng Nguyễn Dữ không từ bỏ hoài bão giúp đời. Nguyễn
Dữ đã viết Truyền kì mạn lục để kí thác những tâm sự của mình, bày tỏ thái độ
trước hiện thực xã hội đương thời. Qua tác phẩm Truyền kì mạn lục, cho thấy
ông là một người ưu thời mẫn thế, có tinh thần dân tộc và tư tưởng thân dân
sâu sắc.
1.1.2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”

Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện chia thành 4 tập, mỗi tập 5 truyện.
Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục bằng văn xuôi và xen lẫn một số văn biền

6


ngẫu, thơ ca. Nguyễn Dữ và những người có cùng chí hướng với ông đã viết
những lời bình luận ở cuối các truyện. Ngoài truyện số 19 (Cuộc nói chuyện
thơ ở Kim Thoa), các truyện khác đều có lời bình. Những lời bình trong Truyền
kì mạn lục không bàn về hình thức nghệ thuật mà chủ yếu là bàn về giá trị nội
dung, ý nghĩa của truyện.
Khi đặt tên nhan đề tác phẩm Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ mong muốn
biểu lộ thái độ khiêm tốn và nghiêm túc của người cầm bút. Song, cũng bởi
nhan đề Truyền kì mạn lục mà đã gây ra khá nhiều tranh cãi về tên tác phẩm
này.
“Mạn lục” là một thể loại sáng tác văn học xuất hiện ở Trung Quốc khá
sớm [14, 210]. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam, hai chữ “mạn lục” đã bị hiểu
lạc đi so với nghĩa gốc của nó. Điều đó dẫn đến cách giải thích sai “sao chép
tản mạn các truyện lạ” [21, 202], về sau mới được giải thích lại là “ghi chép
tản mạn các truyện truyền kì” [15, 1124]. Trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời
trung đại, Nguyễn Đăng Na đã nêu ra: “Các cách giải thích chữ “mạn lục” là
ghi chép “tản mạn” có hai điều bất ổn. Thứ nhất, “Truyền kì mạn lục” là tác
phẩm văn học thuộc loại hình truyện ngắn trung đại. Do đó, không thể coi tác
phẩm là “ghi chép”. Thứ hai, tác phẩm của Nguyễn Dữ không hề tản mạn, dù
hai chữ “tản mạn” được dùng theo kiểu tu từ nói khiêm. Thực ra, “mạn” là tùy
ý, không câu thúc. Bởi vậy, trong Hán ngữ có hàng loạt từ chỉ thể loại tác phẩm
có thành tố “mạn” như: mạn họa, mạn thư, mạn bút, mạn tả…và tất cả chúng
đều dùng để chỉ loại tác phẩm” [11, 212].
Xét về chữ “truyền kì”, bản thân nó là một thể tài của truyện ngắn trung
đại, tức là trong truyện ngắn đó có các yếu tố: nhân vật, tình tiết, kết cấu…là

những yếu tố lạ kì. Trong cụm từ “Truyền kì mạn lục”, từ “truyền kì” giữ vai
trò làm định ngữ, nó “chỉ tính chất của thể “mạn lục”, đó là một thể tự sự viết
tự do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của tác giả, không bị câu thúc bởi bất cứ lí
do gì cả” [11, 212].

7


Nhan đề Truyền kì mạn lục đã nêu ra được mục đích sáng tác của Nguyễn
Dữ. Ông muốn phân bua với độc giả rằng: trước tác của mình không phải là cuốn
sách có tính chất trang nghiêm như liệt truyện, và cho đây là thứ “ngoại thư” bao
gồm những truyện lạ “truyền kì” vẫn được lưu truyền. Công việc của Nguyễn Dữ
là ghi chép lại một cách rộng rãi “mạn lục” những sự việc ấy.
Để phục vụ mục đích sáng tác của mình, Nguyễn Dữ sử dụng yếu tố “lạ
- kì ảo”. Ông đã mượn chuyện ma quái để nói việc thực, dựa vào tích cũ để viết
nên những truyện mới. Tác phẩm tuy có vẻ “truyền kì” xảy ra từ nhiều năm về
trước, nhưng thực chất tác giả muốn phản ánh những hiện thực của xã hội
đương thời. Nguyễn Dữ đã lấy chuyện xưa để nói về chuyện ngày nay. Qua tác
phẩm văn học của mình, nhà văn bộc lộ quan điểm về những vấn đề lớn của
con người, xã hội. Tác phẩm đã tái hiện bức tranh cuộc sống con người với
những số phận riêng ở thế giới trần gian, tiên cảnh và âm phủ. Bên cạnh đó,
Truyền kì mạn lục còn thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi của những kiếp
người bé nhỏ trong xã hội. Nguyễn Dữ đã lên án mạnh mẽ tầng lớp vua quan
nhũng nhiễu nhân dân, làm cho nhân dân cơ cực.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Dữ đã kết hợp thành công giữa hai
yếu tố “thực” và “kì”. Nhà văn sử dụng yếu tố “thực” như một chất liệu nghệ
thuật, giúp tác giả phản ánh hiện thực sâu sắc và toàn diện hơn. Bên cạnh đó,
Nguyễn Dữ thành công trong việc xây dựng nhân vật với hình tượng nhân vật có
tính cách, khí phách và tính luận thuyết, làm cho các câu chuyện giàu tính triết lí
và quan điểm của tác giả được thể hiện sáng rõ. Tài năng của ông đã được bộc lộ

khi ông khéo léo kết hợp sáng tạo ba lối văn: tản văn, biền văn, vận văn.
1.2. Khái niệm nhân vật bình phàm
1.2.1. Khái niệm nhân vật
Trong các tác phẩm thuộc thể loại tự sự, nhân vật có vai trò quan trọng
và không thể vắng mặt. Nhân vật chính là một mắt xích quan trọng để nhà văn

8


xâu chuỗi các biến cố, sự kiện, giúp nhà văn bày tỏ quan điểm, tư tưởng của
mình. Do đó, xây dựng hình tượng nhân vật trở thành một công việc quan trọng
hàng đầu của người nghệ sĩ.
Đã có nhiều khái niệm khác nhau về nhân vật văn học. Trong cuốn 150
thuật ngữ văn học có nêu khái niệm về nhân vật: “Nhân vật văn học là hình
tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn
vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn
học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn
cho những đặc điểm giống con người” [1, 241].
Trong Từ điển thuật ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) định nghĩa nhân vật văn học là “con người cụ
thể được miêu tả trong tác phẩm văn học” [5, 235].
Tác giả Hà Minh Đức trong cuốn Lí luận văn học cho rằng “Nhân vật
trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là
sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện
con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…Và
cần chú ý thêm một điều: thực ra, khái niệm nhân vật thường được quan niệm
với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người
có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua
trong tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang
bóng dáng, tính cách của con người, được dùng như những phương thức khác

nhau để biểu hiện con người” [4, 126].
Dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về nhân vật, nhưng các định nghĩa
đều có một thống nhất chung: nhân vật là đối tượng mà văn học đề cập và miêu
tả. Nhân vật có thể có tên riêng: Chí Phèo (Chí Phèo- Nam Cao); Chiến, Việt
(Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi)…Nhân vật cũng có thể không
có tên riêng: “viên quản ngục” (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân), “thị” (Vợ

9


nhặt - Kim Lân)…Nhân vật có thể là các sự vật, loài vật ít nhiều mang bóng
dáng, tính cách của con người: Dế Mèn (Dế Mèn phiêu lưu kì - Tô Hoài)... Khái
niệm nhân vật văn học nhiều khi được sử dụng như một ẩn dụ. Nhân vật đôi
khi không phải là con người, sự vật cụ thể, mà là một hiện tượng về con người
hoặc có liên quan đến con người, được tác giả thể hiện nổi bật trong tác phẩm.
Đó là “nhân dân” trong Chiến tranh và hòa bình, “đồng tiền” trong
ƠgiêriGrăngđe của Banzac…
Hình tượng nhân vật được nhà văn sáng tạo đã thể hiện những nhận thức
của tác giả về một cá nhân, một loại người hay một vấn đề nào đó của xã hội.
Chính vì vậy,“nhân vật là yếu tố quan trọng nhất trong tác phẩm văn học, tiêu
điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng của chủ đề và đến lượt mình, nó lại được các
yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó
là nơi tập trung giá trị tư tưởng, nghệ thuật tác phẩm văn học” [2, 186].
Nhân vật văn học được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới mỗi
góc độ, nó được chia thành nhiều loại nhân vật.
Xem xét dưới góc độ nội dung tư tưởng có nhân vật chính diện và nhân
vật phản diện. Ở góc độ kết cấu và cốt truyện: nhân vật chính, nhân vật phụ và
nhân vật trung tâm.
Như vậy, khi nghiên cứu và tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của tác
phẩm nào đó, ta không thể bỏ qua yếu tố nhân vật. Nhân vật là một công cụ đắc

lực giúp tác giả tái hiện hiện thực đời sống, thể hiện quan điểm, chính kiến của
mình về vấn đề được nêu ra. Đồng thời, nhân vật văn học làm rút ngắn khoảng
cách giữa độc giả với tác giả.
1.2.2. Khái niệm nhân vật bình phàm
Theo Từ điển Hán Việt:
“Bình: ngay thẳng, bằng phẳng không chênh lệch, bằng đều nhau” [10, 56].
“Phàm: tầm thường, cõi phàm, cõi tục” [10, 544].

10


Bình phàm có nghĩa là bình thường, tầm thường, tầm phào. Nhân vật
bình phàm là những con người tự nhiên, không bị tác giả lí tưởng hóa như nhân
vật kiểu thánh nhân quân tử. Ở họ có những nét tính cách và phẩm chất giống
với con người bình thường trần tục. Nhân vật bình phàm thường là những kẻ sĩ
trong thiên hạ, những tay thương gia buôn bán, những người nông dân…Bên
cạnh đó, còn có khá nhiều các nhân vật lịch sử có thực ngoài đời, họ có công
lớn với đất nước và được lập đền thờ để thờ cúng. Tuy nhiên, những nhân vật
này được đặt trong mối tương quan với đời sống hàng ngày, được nhà văn miêu
tả bằng những yếu tố thi pháp riêng khác xa so với các nhân vật thánh nhân
quân tử.

11


Chương 2. NHẬN DIỆN NHÂN VẬT BÌNH PHÀM
TRONG TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
2.1. Thống kê nhân vật bình phàm
Chúng tôi thống kê các nhân vật chính là nhân vật bình phàm. Kết quả
thống kê như sau:

Phân loại nhân vật
bình phàm

STT

Truyện

Nhân

Nhân vật đấng bậc bị

Tên nhân vật bình

vật là

bình phàm hóa

phàm

dân
thường
trong xã
hội

Chuyện người
1

Trọng Qùy

*


Khoái Châu

Nhị Khanh

*

Chuyện cây gạo

Trình Trung Ngộ

*

Nhân vật
vua,
quan, kẻ


nghĩa phụ ở

2

3

Chuyện kì ngộ ở
trại Tây

Hà Nhân

*


Quan thái thú họ
4

Chuyện đối tụng
ở Long cung

*

Trịnh
Dương thị

12

*

Nhân vật
thần,
tiên, Phật


Thần Thuồng

*

Luồng
5

6


7

Chuyện nghiệp

Đào Hàn Than

*

oan của Đào thị

Vô Kỉ

*

Chuyện Từ Thức

Từ Thức

lấy vợ tiên

Giáng Hương

Chuyện yêu quái

Thị Nghi

ở Xương Giang

Quan họ Hoàng


*
*
*
*

Chuyện cái chùa
8

hoang ở huyện

Ba tên Hộ Pháp

*

Đông Triều
9

Chuyện nàng

Dư Nhuận Chi

Thúy Tiêu

Thúy Tiêu

Chuyện người
10

con gái Nam
Xương


11

Chuyện Lý tướng
quân
Chuyện Lệ

12

Trương Sinh, Vũ
Thị Thiết

*
*

*

Lý Hữu Chi
Lệ Nương

*
*

Nương
Phật Sinh

*

Qua khảo sát ta thấy 12/20 truyện có nhân vật chính là nhân vật bình
phàm (60%). Điều này cho thấy:

- Nhân vật bình phàm chiếm số lượng lớn, chủ yếu trong tác phẩm.
Truyền kì mạn lục chỉ có một số rất ít là nhân vật thánh nhân, quân tử, kẻ sĩ
thuần túy đức cao vọng trọng, không có những khía cạnh trần tục, đời thường.
13


- Nguyễn Dữ đã đưa thể loại truyền kì gần hơn với cuộc sống và những
con người bình thường dung dị. Con người trong Truyền kì mạn lục được nhà
văn khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống, với những khát khao
rất đỗi bình thường mang tính con người. Họ hiện lên với cái nhìn tổng thể, có
trách nhiệm với đời, có những khát vọng được yêu thương và mong muốn được
thỏa mãn những nhu cầu bản năng của.
2.2. Phân loại nhân vật bình phàm
Có nhiều cách để phân loại nhân vật bình phàm, trong khuôn khổ của
khóa luận, tác giả khóa luận đưa ra cách phân loại nhân vật bình phàm trong
Truyền kì mạn lục dựa vào tính chất của nhân vật bình phàm. Ta có thể chia
nhân vật bình phàm thành hai loại:
Nhân vật là dân thường trong xã hội, tức là những nhân vật này là con người
của cuộc sống đời thường, mang những tư tưởng, lối sống, khát vọng trần tục. Đó
là những người nông dân, lái buôn, ả ca kĩ, phụ nữ...Ví dụ: trong Chuyện cây gạo
nhân vật Trình Trung Ngộ là một “lái buôn, biết ít chữ nghĩa”.
Nhân vật đấng bậc bị bình phàm hóa, được tác giả lí tưởng hóa nhưng ít
nhiều mang những nét phàm tục. Loại nhân vật này được chia thành hai loại nhỏ:
Thứ nhất là nhân vật là vua, quan, kẻ sĩ bị bình phàm hóa. Ví dụ: Chuyện
kì ngộ ở trại Tây có nhân vật Hà Nhân là kẻ sĩ nhưng “bút nghiên chí nản, son
phấn tình nồng”.
Thứ hai là nhân vật là thần, tiên, Phật bị bình phàm hóa. Chỉ có ba truyện
trong Truyền kì mạn lục xuất hiện kiểu nhân vật này. Đó là truyện Chuyện cái
chùa hoang ở huyện Đông Triều, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên và Chuyện đối
tụng ở Long cung.

Qua việc phân loại trên, ta đưa ra được nhân xét chung: nhân vật bình
phàm trong Truyền kì mạn lục đa dạng, phong phú. Họ có địa vị xã hội, môi
trường sống khác nhau. Nguyễn Dữ đã miêu tả nhân vật bình phàm ở cả ba
giới: trần gian, tiên giới và long cung.

14


2.3. Các đặc điểm của nhân vật bình phàm trong Truyền kì mạn lục
2.3.1. Địa vị xã hội của nhân vật bình phàm
Địa vị xã hội là vị trí và thứ bậc của một người nào đó trong xã hội. Địa
vị xã hội có thể do sự cố gắng của bản thân mà đạt được, cũng có thể nó được
gán cho dựa vào giới tính, tuổi tác, chủng tộc…
Mỗi truyện trong Truyền kì mạn lục lại đề cập tới các nhân vật bình phàm
có địa vị xã hội khác nhau.
Nhân vật bình phàm là quan lại, họ có quyền thế trong xã hội. Đó là các
truyện:
- Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
- Chuyện yêu quái ở Xương Giang
- Chuyện Lý tướng quân
Có 3/12 truyện nhân vật bình phàm là tầng lớp quan lại trong xã hội. Điều
đó cho thấy, giai cấp quan lại được Nguyễn Dữ quan tâm và miêu tả với những
nét đời thường. Tác giả không để nhân vật trong tác phẩm lí tưởng theo hình
mẫu của Nho giáo, mà họ hiện lên với những nét trần tục nhất: ăn uống, khát
vọng nhục dục…
Tầng lớp trí thức, nho sĩ xuất hiện khá khiêm tốn trong tác phẩm:
- Chuyện kì ngộ ở trại Tây
- Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào
- Chuyện nàng Thúy Tiêu
Trong Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, Phạm Tử Hư là một học

trò của xử sĩ Dương Trạm. Chàng là một người học trò biết lễ nghĩa, khi thầy
Dương Trạm mất “đã làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về”.
Chàng miệt mài với đèn sách, tới năm 40 tuổi vẫn đi thi, cuối cùng cũng đỗ
được tiến sĩ. Trong Chuyện nàng Thúy Tiêu, nhà văn Nguyễn Dữ cũng miêu tả
nhân vật nho sinh Dư Nhuận Chi. Nhờ vào những bài thơ và những bài hát hay

15


mà tiếng tăm của chàng nức danh cả kinh kì. Trải qua bao sóng gió, Dư Nhuận
Chi cũng đã về Kinh và thi đỗ tiến sĩ.
Bên cạnh tầng lớp quan lại, nho sinh, Nguyễn Dữ còn đề cập tới tầng lớp
dưới của xã hội. Đó là người lái buôn Trình Trung Ngộ trong Chuyện cây gạo,
ả ca kĩ Đào Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị.
Nhận xét: Truyền kì mạn lục là tác phẩm chủ yếu đề cập tới các nhân vật
có địa vị xã hội thấp, ông đã dành sự quan tâm không nhỏ tới những con người
thấp bé trong xã hội đương thời.
2.3.2. Tư tưởng, lối sống của nhân vật bình phàm
Tư tưởng là tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, định hướng, phân tích,
đánh giá, kết luận…thành ý trong đầu chúng ta.
Lối sống là những nét điển hình mà con người thường xuyên lặp lại.
Sự lặp lại này định hình thành những phong cách và thói quen của cá nhân, xã
hội hay dân tộc nào đó. Lối sống được cấu thành bởi các yếu tố: phong tục tập
quán, ứng xử xã hội, cách thức sinh hoạt…
Thời trung đại, quan điểm của lễ giáo phong kiến chi phối tới tư tưởng
và lối sống của con người. Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật bình
phàm trong Truyền kì mạn lục có tư tưởng, lối sống theo hai hướng: tuân thủ lễ
giáo phong kiến và vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến.
2.3.2.1. Tư tưởng, lối sống theo quan điểm của lễ giáo phong kiến
Lễ giáo phong kiến có những yêu cầu hà khắc đối với phụ nữ. Người phụ

nữ phải “tam tòng”, “tứ đức”. “Tam tòng” bao gồm “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”. “Tứ đức” là bốn đức tính tốt của người phụ nữ: Công
- Dung - Ngôn - Hạnh. Nguyễn Dữ đã thể hiện trong Truyền kì mạn lục những
người phụ nữ bình phàm có tư tưởng, lối sống tuân thủ lễ giáo phong kiến.
Nhị Khanh là nhân vật phụ nữ “quốc sắc thiên hương” trong truyện
Người nghĩa phụ ở Khoái Châu. Nàng hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của

16


người phụ nữ, đặc biệt là tấm lòng thủy chung chờ chồng. Nhị Khanh đã chờ
chồng sáu năm trời, mà trong sáu năm ấy, nàng đã phải trải qua biết bao khó
khăn, vất vả. Khi Lưu thị - bà cô của Nhị Khanh ép nàng lấy tướng quân họ
Bạch, nàng đã bộc bạch rằng “Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ phu lang
hãy còn; nếu chàng không còn thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm
của chồng để đi làm đẹp cho người khác”. Điều đó cho thấy Nhị Khanh là
người phụ nữ có lòng thủy chung son sắt với chồng.
Ta bắt gặp nhân vật Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam, một
người có tình cảm chân thành, tha thiết với chồng con. Khi chồng đi lính, nàng
đã ở nhà thay chồng chăm sóc mẹ già và con nhỏ. Khi mẹ chồng qua đời, Vũ
Thị Thiết đã lo tang ma đầy đủ, làm trọn bổn phận của người dâu con. Hình ảnh
“chiếc bóng” xuất hiện trong Chuyện người con gái Nam Xương nói lên những
tình cảm chân thành mà nàng dành cho Trương Sinh. Vì nhớ chồng và thương con
mà nàng chỉ chiếc bóng in trên tường và nói rằng đó là “cha Đản”.
Nhà văn Nguyễn Dữ đã rất tài tình khi viết về các nhân vật phụ nữ. Ông
luôn đặt họ vào những hoàn cảnh, tình huống éo le để từ đó họ bộc lộ những
phẩm chất đáng quý. Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương là một nhân vật như
thế. Vì những xung đột nội chiến và nạn ngoại xâm mà nàng phải chịu cảnh vợ
chồng chia li. Lệ Nương bị triều đình bắt giam, sau đó lại bị rơi vào tay giặc
ngoại bang, nhưng nàng vẫn giữ trọn phẩm tiết của mình. Lệ Nương từng nói

rằng:
“Thủy bất năng toàn tiết dĩ tòng phu,
Chung hựu nhẫn cam tâm nhi hàng lỗ”.
Dịch:
“Trước đã không vẹn tiết để theo chồng,
Sau lại nỡ cam tâm mà hàng giặc”.

17


Để bảo toàn danh tiết với chồng, Lệ Nương đã chọn giải pháp “thà chết
rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê hương còn hơn là sang làm những cái cô hồn bên
xứ Bắc” [8, 412].
Có thể thấy, những nhận vật trên biểu hiện những lối sống cao đẹp qua
cái khuôn trung, hiếu, tiết, nghĩa. Qua đó, Nguyễn Dữ muốn thể hiện những đòi
hỏi của nhân dân về đạo lí làm người, truyền thống tốt đẹp của dân tộc bao đời
nay và mối quan hệ cần thiết phải xây dựng trong gia đình, xã hội.
2.3.2.2. Tư tưởng, lối sống phi lễ giáo phong kiến
Tác phẩm Truyền kì mạn lục còn nêu ra những tư tưởng, lối sống phi lễ
giáo phong kiến của một số nhân vật bình phàm. Đó là những tư tưởng, lối sống
đi ngược lại với đạo lí, luân lí xã hội.
Nếu lễ giáo phong kiến đề cao “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” của bậc quân
tử thì nhân vật Lý Hữu Chi trong Chuyện Lí tướng quân lại được Nguyễn Dữ
xây dựng với sự đối lập với quan điểm ấy. Nhà văn đã nói về sự cơ hội của
nhân vật Lí Hữu Chi:
“Người huyện Đông Thành là Lý Hữu Chi cũng do chân một người làm
ruộng nổi lên, tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận. Quốc công
Đặng Tất tiến cử cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương
binh đi đánh trận” [8, 392].
Có thể thấy, thực chất Lý Hữu Chi không có tài cán gì, chỉ nhờ vào sức

khỏe, giỏi đánh trận mà được trọng dụng làm chức tướng quân. Với quyền lực
trong tay, Lý Hữu Chi giết hại người khác, bóc lột tiền của của nhân dân
“Quyền đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng
ruột, coi người nho sĩ như cừu thú, thích sắc đẹp ham tiền tài, tham lam không
chán, lại tậu ruộng vương, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao,
dồn đuổi xóm giềng cho ruộng đất, đi kiếm những hoa đá lạ từ bên huyện khác
đem về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về

18


thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách rất là khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên
không chút động tâm” [8, 392]. Lối sống của hắn không xứng đáng làm một vị
quan cầm cân nảy mực của xã hội. Khi xuống âm phủ, tội ác của Lí Hữu Chi
đã được vạch rõ: “ghẹo vợ người, dâm con người”, “chiếm ruộng đất của
người, phá sản của người”, “phá mồ mả của người đời xưa, hủy đạo thường
với người ruột thịt”.
Bên cạnh nhân vật quan lại, Nguyễn Dữ còn cho thấy những lối sống
đáng phê phán của nhân vật lái buôn. Đó là nhân vật Trọng Qùy trong truyện
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu. Trọng Qùy là người ham mê cờ bạc,
thâu đêm suốt sáng trong những canh bạc cùng Đỗ Tam - một lái buôn nhiều
tiền. Đỗ Tam vì thấy Nhị Khanh xinh đẹp nên muốn chiếm đoạt. Bản chất xấu
xa của Đỗ Tam bộc lộ khi hắn chơi bạc cùng Trọng Qùy với âm mưu cướp vợ
bạn. Hắn đã lợi dụng điểm yếu của Trọng Qùy: “một hôm sinh cùng bạn bè
họp nhau đánh bạc tứ sắc, Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng để đánh và đòi sinh đánh
bằng Nhị Khanh. Trọng Qùy phen mùi vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền
đánh bằng Nhị Khanh”. Đạo đức làm người của Đỗ Tam là không thể chấp
nhận được, khiến người đọc không khỏi phẫn nộ.
Nhà văn Nguyễn Dữ đã đưa ngòi bút của mình tới bọn tu hành giả dối,
núp dưới bóng chùa mà làm những điều xằng bậy. Đó là tên sư Vô Kỷ trong

Chuyện nghiệp oan của Đào thị, hắn là kẻ thiếu trung thực, làm chuyện dâm ô
nơi nhà chùa. Người đọc hẳn chưa quên hình ảnh hai tên Hộ pháp trong Chuyện
cái chùa hoang ở huyện Đông Triều với những hành động bì ổi “vào bếp để
khoắng hũ rượu của người ta, vào buồng để ghẹo vợ con người ta”.
Thông thường, khi nói đến thánh, thần là nói đến các bậc tối cao, thiêng
liêng và quyền năng. Thánh, thần không bao giờ làm những điều trái với phép
tắc, nhất mực giữ mình thanh cao. Nhưng khi đọc truyện Chuyện đối tụng ở
Long cung, ta lại thấy tác giả miêu tả nhân vật thần Thuồng Luồng với những

19


×