Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Cơ sở tính thời gian, các loại lịch và một số bài tập liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.72 KB, 44 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA VẬT LÝ

PHẠM THỊ NGỌC ÁNH

CƠ SỞ TÍNH THỜI GIAN, CÁC LOẠI LỊCH
VÀ MỘT SỐ BÀI TẬP LIÊN QUAN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Vật lý đại cƣơng

HÀ NỘI, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA VẬT LÝ

PHẠM THỊ NGỌC ÁNH

CƠ SỞ TÍNH THỜI GIAN, CÁC LOẠI LỊCH
VÀ MỘT SỐ BÀI TẬP LIÊN QUAN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Vật lý đại cƣơng

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Hữu Tình

HÀ NỘI, 2018



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Hữu
Tình, người đã giúp đỡ định hướng nghiên cứu, cung cấp cho em những tài
liệu quý báu, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, tạo điều kiện tốt nhất trong quá
trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tiếp theo, em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, các cô Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, cung cấp cho em những nền tảng kiến thức
và tạp điều kiện thuận lợi cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi những lời tốt đẹp nhất đến gia đình, bạn bè đã
giúp đỡ, động viên em trong suốt quá trình thực hiện để em hoàn thành khóa
luận một cách tốt đẹp.
Là một sinh viên lần đầu tiên nghiên cứu khoa học nên khóa luận của
em không tránh khỏi sự thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của
của thầy cô để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Phạm Thị Ngọc Ánh


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Những
số liệu, kết quả nghiên cứu trong khóa luận hoàn toàn là trung thực và chưa
từng được sử dụng bảo vệ trong bất kỳ một luận văn nào, mọi nguồn tài liệu
đều được trích dẫn một cách rõ ràng.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Phạm Thị Ngọc Ánh



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Giờ UTC của một số nơi trên Trái Đất….......................................16


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1.1. Cách xác định giờ sao… ................................................................... 6
Hình 1.2. Các múi giờ .................................................................................... 13


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 2
NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ TÍNH THỜI GIAN ................................................. 3
1.1.

Ngày sao ............................................................................................ 3

1.2.

Ngày Mặt Trời thực .......................................................................... 5

1.3.

Ngày Mặt Trời trung bình................................................................. 6


1.4.

Các hệ tính thời gian.......................................................................... 7

1.4.1. Giờ địa phương và kinh độ địa lý............................................... 7
1.4.2. Giờ múi và giờ quốc tế (UT) ....................................................... 8
1.4.3. Giờ phối hợp quốc tế ................................................................... 9
1.4.4. Đường đổi ngày ........................................................................ 13
CHƢƠNG 2: CÁC LOẠI LỊCH .............................................................. 15
2.1. Ba loại lịch thường gặp ................................................................... 15
2.1.1. Dương lịch ................................................................................ 15
2.1.2. Âm lịch ...................................................................................... 17
2.1.3. Âm dương lịch ........................................................................... 17
2.2. Lịch cổ các nước.............................................................................. 18
2.2.1. Lịch Ai Cập ............................................................................... 18
2.2.2. Lịch Babylone............................................................................ 19
2.2.3. Lịch Hy - Lạp ............................................................................. 19
2.2.4. Lịch Maya.................................................................................. 20


2.2.5. Lịch La Mã ................................................................................ 21
2.2.6. Lịch Trung Quốc ....................................................................... 21
2.2.7. Lịch Cộng hòa Pháp ................................................................. 22
2.3. Lịch tôn giáo .................................................................................... 23
2.4. Lịch hiện đại .................................................................................... 24
2.5. Các loại lịch khác và cơ sở lịch pháp của chúng ............................. 24
2.5.1. Lịch vật hậu ............................................................................... 24
2.5.2. Lịch vận khí ............................................................................... 25
2.5.3. Lịch can chi ............................................................................... 26

2.5.4. Lịch 24 tiết ................................................................................. 27
2.6. Những đề án cải tiến lịch ................................................................. 28
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BÀI TẬP LIÊN QUAN ..................................... 30
KẾT LUẬN ................................................................................................. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 36


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trái Đất tự quay từ Tây sang Đông nên các buổi sáng, trưa, chiều, tối lần

lượt xuất hiện ở các địa điểm khác nhau trên thế giới một cách tuần hoàn. Ta
không thể biết một ngày mới trên Trái Đất chính xác bắt đầu từ đâu và kết
thúc ở đâu, vì ở cùng một thời điểm, mỗi nơi trên Trái Đất lại có một trạng
thái ngày khác nhau. Điều này có nghĩa rằng mỗi vùng trên Trái Đất có một
cách tính thời gian trong một ngày khác nhau. Trong lịch sử, người ta dùng
Mặt Trời để xác định thời gian trong ngày (gọi là giờ Mặt Trời), và các thành
phố nằm ở các kinh tuyến khác nhau có thời gian trên đồng hồ khác nhau. Sau
này, khi ngành đường sắt và viễn thông phát triển, sự biến đổi liên tục về giờ
giấc giữa các vùng gây trở ngại đáng kể cho đời sống sinh hoạt cho nên các
cơ sở tính thời gian được đưa ra để giải quyết phần nào vấn đề này. Do đó
việc tìm hiểu về cơ sở tính thời gian và cách xác định thời gian là vô cùng cần
thiết.
Cùng với thang đo thời gian giờ, phút, giây, lịch là một hệ thống tính
những khoảng thời gian dài. Nó có tác dụng là thước đo thời gian, các tiết khí
phục vụ hoạt động của con người, giúp cho sinh hoạt của con người trên Trái
Đất phù hợp với quy luật tự nhiên. Hơn thế nữa, nước ta là một nước có nền
kinh tế phụ thuộc vào thiên nhiên, để định ra thời vụ gieo trồng hợp lý, chắc

chắn lịch giúp ích được nhiều cho nền nông nghiệp cũng như các ngành khác.
Lịch làm ra để thuận ứng với thiên nhiên: Mỗi năm có 4 mùa, mỗi mùa
có một loại khí hậu riêng và ứng với các công việc khác nhau cũng như
phương thức sinh hoạt đặc thù của người dân. Làm ra lịch để hướng dẫn hoạt
động của con người theo hướng có lợi nhất. Hoạt động thời tiết có tính tuần
hoàn, nếu biết trước có thể tránh hậu quả, hệ thống ghi ngày tháng của một

1


năm giúp ta điều đó. Lịch có tác dụng đối phó với thiên nhiên để tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho con người.
Lịch có ý nghĩa văn hóa: Dưới góc độ thiên văn học các lịch khác nhau
ở cách chọn đơn vị chuẩn. Thế nhưng về mặt văn hóa thì mỗi lịch lại có biểu
hiện đặc trưng phản ánh ý thức của con người thể hiện trong công việc làm
lịch. Trong lịch sử, văn hóa lịch phương Đông hết sức phong phú và đa dạng,
khá phù hợp với thời tiết và với cả việc phòng chống bệnh tật. Tuy nhiên theo
thời gian, sinh thái trên Trái đất cũng biến đổi nhiều, một số quy luật trong
các lịch thời xưa có thể không còn khả năng phản ánh đúng hiện trạng của
thời tiết. Lịch phương Đông nói riêng cũng như lịch xưa nói chung là di sản
văn hóa đáng trân trọng và có rất nhiều mặt cần được nghiên cứu và phát
triển.
Lịch còn có vai trò rất lớn trong việc đề ra kế hoạch sản xuất công nghiệp,
kinh tế, giao thông,… Nó được hoạch định theo kế hoạch của từng quý, từng
tháng để đạt được mục tiêu đặt ra.
Vì những lý do trên mà em chọn đề tài: “Cơ sở tính thời gian, các loại
lịch và một số bài tập liên quan.”
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về cơ sở tính thời gian, đặc điểm của các loại lịch và các bài tập.
3. Đối tƣợng nghiên cứu

Cơ sở tính thời gian và hệ thống các loại lịch trên Trái Đất.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về cơ sở tính thời gian, các loại lịch và tiến hành giải các bài
tập liên quan đến đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tìm hiểu, tra cứu tài liệu, giải bài tập.
2


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ TÍNH THỜI GIAN
Trong sinh hoạt đời sống, sản xuất từ xa xưa, con người đã tìm cách ghi
nhận các sự kiện diễn ra theo thời gian. Họ sớm nhận thấy quy luật diễn biến
tuần tự, lặp lại một cách chính xác của ngày đêm - mùa màng và dựa vào đó
làm cơ sở để tính thời gian. Trong lịch sử, mỗi một dân tộc có thể có những
cách tính thời gian khác nhau, nhưng tất cả đều dựa vào các quy luật chuyển
động của sao, Mặt Trời, Mặt Trăng là những cái chuẩn, ít thay đổi. Ở chương
này ta sẽ xét các đơn vị thời gian liên quan tới Mặt Trời và sao.
Khi xác định khoảng thời gian dài, người ta thường lấy đơn vị năm bốn
mùa (hay năm xuân phân), tức thời gian giữa hai lần liên tiếp Mặt Trời qua
điểm xuân phân γ. Đơn vị năm dựa vào quy luật chuyển động của Trái Đất
quanh Mặt Trời.
Với khoảng thời gian nhỏ hơn, người ta dựa vào sự nhật động của bầu
trời, hay dựa vào quy luật tự quay của Trái Đất và lấy đơn vị ngày, giờ,
phút,…
Trong thiên văn, để phục vụ cho những yêu cầu quan trắc khác nhau
người ta quy ước sử dụng 3 loại ngày khác nhau:
Ngày sao: Dựa vào nhật động của sao.
Ngày Mặt Trời thực: Dựa vào sự nhật động của Mặt Trời.
Ngày Mặt Trời trung bình: Tính đến cả sự chuyển động của Trái Đất

quanh Mặt Trời.
1.1. Ngày sao
Ngày sao là chu kì quay của Trái Đất đối với các sao, đúng bằng chu kì
nhật động của các sao. Ngày sao có độ dài bằng khoảng thời gian giữa 2 lần
liên tiếp xuân phân γ qua kinh tuyến trên tại nơi quan sát (có kinh độ xác định
λ).
3


Ta quy ước: Ngày sao bắt đầu lúc 0h sao, lúc điểm xuân phân γ qua
kinh tuyến trên tại nơi quan sát. Do nhật động, góc giờ t của điểm γ tăng dần,
đạt một vòng 3600 (trở lại kinh tuyến trên) thì một ngày sao (24h) đã trôi qua.
Giờ sao của một nơi có giá trị bằng góc giờ của điểm xuân phân tại nơi
đó.
1 ngày sao = 24 giờ sao = 24x 60 phút sao
= 24 x 60 x 60 giây sao
(chú ý : có thể viết giờ là h, giây là s)
Vì γ là điểm tưởng tượng nên không quan sát trực tiếp được trên thiên
cầu nên trong thực tế ta xác định giờ sao gián tiếp qua một ngôi sao S nào đó.

Hình 1.1. Cách xác định giờ sao
Từ hình vẽ ta có :
Giờ sao s của một nơi có giá trị bằng cung γQ’.
Mà : γQ’ = γS=SQ’
s = αs + ts
trong đó αs, ts là xích kinh và góc giờ của ngôi sao S.
Khi sao S qua kinh tuyến trên thì s = αs (ts = 0)
4



Vậy giờ sao ở một nơi tại một thời điểm nào đó có giá trị bằng xích
kinh của ngôi sao đi qua kinh tuyến trên tại nơi đó vào đúng thời điểm ấy.
Khái niệm ngày sao, giờ sao được sử dụng trong quan trắc thiên văn
(trên thế giới có nhiều đài thiên văn có những kính thiên văn kinh tuyến dùng
để đo giờ sao).
1.2. Ngày Mặt Trời thực
Ngày Mặt Trời thực có độ dài bằng khoảng 2 lần liên tiếp Mặt Trời đi
qua kinh tuyến trên tại nơi quan sát.
Người ta quy ước: Ngày Mặt Trời thực tại một nơi bắt đầu (0h) lúc Mặt
Trời qua kinh tuyến dưới tại nơi đó (nửa đêm thực).
Do nhật động, góc giờ t của Mặt Trời biến thiên. Giờ Mặt Trời thực xác
định qua góc giờ to của Mặt Trời. Vì góc giờ tính theo kinh tuyến trên nên giờ
Mặt Trời thực sẽ là :
To = to + 12h
Góc giờ của kinh tuyến dưới
Khi Mặt Trời qua kinh tuyến trên thì: To = 0 + 12h = 12h (giữa trưa).
Khi Mặt Trời qua kinh tuyến dưới thì: To = 12h + 12h = 24h (nửa
đêm).
(Hay 1 ngày Mặt Trời hoàn tất, bắt đầu 0h Mặt Trời của ngày hôm sau).
Ngày Mặt Trời thực dài hơn ngày sao. Do khi Trái Đất quay trọn một
vòng quanh trục của nó thì cùng lúc đã di chuyển trên quỹ đạo được một góc
nhỏ tương ứng với vị trí biểu kiến của Mặt Trời đã thay đổi trên nền sao. Như
vậy khoảng thời gian dài thêm của ngày Mặt Trời chính là khoảng thời gian
cần để Trái Đất tự quay quanh trục một góc bằng góc (so với nền sao) mà nó
đã di chuyển được trên quỹ đạo trong một ngày.
Quỹ đạo của hành tinh quanh Mặt Trời không thực sự là đường tròn mà
là đường elip và hành tinh không thực sự chuyển động tròn đều trên quỹ đạo
5



nên hàng ngày ta thấy Mặt Trời dịch chuyển trên hoàng đạo những cung
không hoàn toàn bằng nhau. Ngoài ra, vì hoàng đạo nghiêng với xích đạo một
góc 23o27’ nên một cung dịch chuyển của Mặt Trời trên hoàng đạo có vết
chiếu của nó lên xích đạo là không như nhau. Do đó ngày Mặt Trời thực là
một khoảng thời gian không cố định.
1.3. Ngày Mặt Trời trung bình
Trên thực tế, do không thể chế tạo ra đồng hồ chạy theo giờ Mặt Trời
thực nên trong thực tế người ta không sử dụng ngày Mặt Trời thực mà sử
dụng ngày Mặt Trời trung bình. Ngày Mặt Trời trung bình được tính bằng
trung bình cộng của tất cả những ngày Mặt Trời thực trong năm.
Hiệu số giữa giờ Mặt Trời trung bình Tm và giờ ngày Mặt Trời thực To
tại một thời điểm nào đó gọi là phương trình thời gian (hay thời sai):
Tm - To = η
Giá trị của phương trình thời gian η hàng ngày được in trong các lịch
thiên văn hàng năm. Như vậy, ta biết được giờ Mặt Trời thực bằng việc quan
sát Mặt Trời, hiệu chỉnh giá trị của η tại thời điểm quan sát, sẽ tìm được giờ
Mặt Trời trung bình.
Qua nhiều năm quan sát, người ta tính được mỗi năm xuân phân có
365,2422 ngày Mặt Trời trung bình. Vì mỗi ngày Mặt Trời hơn ngày sao ≈1 0
nên số ngày sao trong một năm xuân phân phải nhiều hơn 1 ngày, tức
366,2422 ngày sao.
Như vậy, độ dài của ngày, giờ, phút, giây Mặt Trời trung bình dài hơn
của ngày, giờ, phút, giây thời gian Mặt Trời. Cụ thể là:
Một ngày Mặt Trời trung bình dài hơn một ngày sao là 3ph56s555.
Một giờ Mặt Trời trung bình dài hơn một giờ sao là 9s856.

6


1.4. Các hệ tính thời gian

1.4.1. Giờ địa phương và kinh độ địa lý
Ta thấy việc xác định giờ tại một nơi trên Trái Đất liên quan đến
kinh tuyến trời tại nơi đó. Kinh tuyến trời lại song song với kinh tuyến
Trái Đất. Do đó, việc xác định giờ liên quan tới kinh độ địa lý của nơi quan
sát.
Giờ được xác định cho một nơi có độ kinh xác định được gọi là giờ địa
phương tại nơi đó. Đối với các nơi nằm trên cùng một kinh tuyến (có cùng độ
kinh λ) thì góc giờ của Mặt Trời (hay góc giờ của điểm xuân phân γ) có giá trị
như nhau ở cùng một thời điểm. Như vậy các nơi nằm trên cùng một kinh
tuyến sẽ có cùng giờ địa phương như nhau.
Hai nơi có độ kinh khác nhau thì góc giờ cũng khác nhau cho cùng một
thời điểm. Người ta thấy, tại một thời điểm vật lý, hiệu số giờ địa phương
của 2 nơi bằng hiệu độ kinh của 2 nơi đó (tính theo đơn vị thời gian).
S1 - S2 = λ1 - λ2
T01 – T02 = λ1 - λ2
Tm1 - Tm2 = λ1 - λ2
Trong đó: S1 - S2 là hiệu giờ sao địa phương.
T01 – T02 là hiệu giờ Mặt Trời thực địa phương.
Tm1 - Tm2 là hiệu giờ Mặt Trời trung bình địa phương.
Chú ý: Độ kinh tính theo đơn vị góc khi đổi ra thời gian thì: 360 0 = 24 giờ
Vậy: 1 giờ = 150

Đổi ngược lại: 10 = 4 phút

1 phút = 15’

1’ = 4 giây

1 giây = 15”


1'' = 1/15giây

Giờ địa phương chỉ có ý nghĩa trong quan trắc thiên văn (chẳng hạn
như để xác định kinh độ địa lý) chứ không sử dụng trong đời sống bình
thường.
7


1.4.2. Giờ múi và giờ quốc tế (UT)
Bề mặt Trái Đất được chia thành 24 múi, giới hạn bởi 24 kinh tuyến cách
nhau 15o (hay một giờ). Các địa phương nằm trong một múi giờ thì chung
một giờ. Giờ múi là giờ trung bình địa phương của kinh tuyến chính giữa múi
đó. Các múi được đánh số từ 1 đến 23, múi số 0 có kinh tuyến gốc, đi qua đài
thiên văn Greenwich.
Năm 1884, Hội đo lường Quốc tế đã lấy giờ múi số 0 làm giờ chung và
gọi là giờ quốc tế T0, hay giờ GMT (Greenwich Mean Time). Các số tiếp theo
được đánh theo chiều tự quay của Trái Đất.
Như vậy, giờ múi là: TM = T0 + M (M là số múi). Ví dụ : Nước ta múi
giờ 7, vậy khi T0 = 10giờ thì nước ta là TM = 10giờ + 7 = 17giờ.
GMT sau này được đổi tên thành UT (Universal Time). UT định nghĩa
một ngày là thời gian Trái Đất quay xung quanh trục của chính nó. Vì tốc độ
này không cố định nên độ dài của một ngày theo UT không phải lúc nào cũng
bằng nhau.
Để giải quyết vấn đề này, vào giữa những năm 1980 người ta chuyển
sang dùng UTC là chuẩn dùng giờ nguyên tử quốc tế (TAI), được Văn phòng
Cân đo Quốc tế (tiếng Pháp: Bureau International des

Poids

et


Mesures, BIPM) đặt ở Pavillon de Breteuil (Pháp) định nghĩa dựa trên hàng
trăm đồng hồ nguyên tử xezi trên khắp thế giới.

8


Hình 1.2. Các múi giờ

1.4.3. Giờ phối hợp quốc tế
Giờ phối hợp quốc tế hay UTC, là một chuẩn quốc tế về ngày giờ thực
hiện bằng phương pháp nguyên tử. "UTC" không hẳn là một từ viết tắt, mà là
từ thỏa hiệp giữa viết tắt tiếng Anh "CUT" (Coordinated Universal Time) và
viết tắt tiếng Pháp "TUC" (temps universel coordonné). Nó được dựa trên
chuẩn cũ là giờ trung bình Greenwich (sau đó được đổi tên thành giờ quốc tế
UT). Múi giờ trên thế giới được tính bằng độ lệch âm hay dương so với giờ
quốc tế.
UTC khác với giờ nguyên tử một số giây nguyên và với giờ quốc tế UT1
một số giây lẻ. UTC thực ra là một hệ đo lường thời gian lai tạp: tốc độ của
UTC được tính dựa trên chuẩn tần số nguyên tử nhưng thời điểm của UTC
được đồng bộ hóa cho gần với UT thiên văn. Khi hệ các đơn vị SI công nhận
giây nguyên tử, tốc độ của giây nguyên tử thường nhanh hơn tốc độ trung
bình của UT trong nửa sau của thế kỷ 20. Vì lý do này, UT chậm lại so với
giờ nguyên tử đo bằng các đồng hồ nguyên tử. UTC được giữ trong khoảng
9


0.9 giây với giờ quốc tế UT1; một vài giây nhuận được thêm (trên lý thuyết là
được trừ đi) vào cuối tháng UTC khi cần thiết. Kể ra từ lần chỉnh đầu tiên vào
năm 1972 đến nay, tất cả những điều chỉnh như vậy đều là cộng thêm và áp

dụng cho các ngày 30 tháng sáu hoặc 31 tháng mười hai, trong đó giây nhuận
cộng thêm được viết là T23:59:60. Việc thông báo về những giây nhuận được
Dịch vụ Hệ thống Vòng quay Trái Đất và Đối chiếu Quốc tế đảm nhận, dựa
trên các dự báo thiên văn chính xác của vòng quay Trái Đất. Đôi khi có giây
60 và đôi khi không có giây 59.
Giờ UTC được viết bằng bốn chữ số:
Hai số chỉ giờ từ 00 đến 23
Hai số chỉ phút từ 00 đến 59
Không có dấu giữa các số này. Ví dụ, 3 giờ 7 phút chiều được viết là:
1507.
Để dùng trong luật lệ - thương mại và cuộc sống ngày, phần lẻ khác biệt
giữa UTC và UT (hay, GMT) là cực nhỏ không tính nên theo thông tục UTC
đôi khi được gọi là GMT, mặc dù điều này là hoàn toàn sai về mặt kỹ thuật.
UTC là hệ thống thời gian dùng trong nhiều chuẩn Internet và World
Wide Web. Đặc biệt, giao thức giờ trên mạng – NTP được thiết kế để phân
phối tự động giờ trên mạng Internet.
Múi giờ UT đôi khi được ký hiệu bằng chữ Z vì múi giờ hàng hải quốc tế
tương đương (GMT) đã được ký hiệu bằng chữ Z kể từ năm 1950, chữ này để
miêu tả không giờ kể từ năm 1920.
Trong bảng dưới đây, chênh giờ so với UTC được thể hiện qua con số ở
giữa ký hiệu múi giờ. Ví dụ:
UTC - 9 V muộn giờ hơn so với UTC là 9 giờ.
UTC + 8:30 H sớm giờ hơn so với UTC là 8 giờ 45 phút.

10


Các múi giờ được ghi kèm thêm chữ cái viết hoa: Z cho múi giờ số
không, A đến M (trừ J) cho các múi giờ phía Đông, N đến Y cho các múi giờ
phía Tây.


11


Bảng 1.1: Giờ UTC của một số nơi trên Trái Đất
Ký hiệu
UTC - 12 Y

UTC - 9V

Tên

Vùng

Giờ chuẩn Đường đổi Chỉ dành cho các tàu thủy nằm
gần Đường đổi ngày Quốc tế Tây

ngày

Đa phần Alaska,

Giờ chuẩn Alaska

phần

Polynesia Pháp (đảo Gambier)

Giờ chuẩn vùng giữa Bắc
Mỹ
UTC - 6 S


một

Một phần Mỹ

Giờ chuẩn Trung Canada Một phần Canada
Giờ chuẩn Mexico

Một phần Mexico

Giờ chuẩn Trung Mỹ

Một phần Trung Mỹ
Tây Phi, Vương quốc Liên hiệp

Giờ chuẩn GMT

Anh và Bắc Ireland, Bồ Đào Nha,

UTC Z

UTC + 6:30 F

một phần Tây Ban Nha.
Giờ chuẩn Greenwich

Tây Phi, một phần Bắc Phi

Giờ chuẩn Mayanma


Myanma
Thái Lan, Việt Nam (phần đất

Giờ chuẩn Đông Nam Á liền, quần đảo Hoàng Sa và một
UTC + 7 G

phần quần đảo Trường Sa)
Giờ chuẩn Bắc Á

Krasnoyarsk

12


Giờ chuẩn Trung Quốc
UTC + 8 H

UTC + 8:30 H

UTC + 9 I

Trung

Quốc,

Hồng

Urumqi

Giờ chuẩn Singapore


Malaysia, Singapore

Giờ chuẩn Indonesia

Indonesia

Giờ chuẩn Triều Tiên

Kông,

Bình Nhưỡng, Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Triều Tiên

Giờ chuẩn Hàn Quốc

Hàn Quốc

Giờ chuẩn Tokyo

Osaka, Sapporo, Tokyo

Giờ chuẩn Yakutsk

Yakutsk

1.4.4. Đường đổi ngày
Đường đổi ngày quốc tế, hay đường thay đổi ngày quốc tế, là một đường
tưởng tượng dùng để làm ranh giới giữa múi giờ UTC+12 và UTC-12, đi gần
với kinh tuyến 180 độ kinh Đông từ Bắc Cực, qua eo biển Bering, Thái Bình

dương, cho đến Nam Cực, được quy định bởi Hội nghị quốc tế về kinh
tuyến họp tại Washington năm 1884. Thực tế, đường đổi ngày không phải là
một đường thẳng đọc kinh tuyến 180 độ, mà là một đường gấp khúc, nhằm cố
gắng bảo đảm trên cùng một quốc gia không có 2 ngày cùng được tính.
Do mỗi nơi trên Trái Đất có giờ khác nhau (24 múi giờ), mà Trái Đất
lại quay 24 giờ được 1 vòng (1 ngày). Cho nên nếu ta di chuyển từ múi giờ
này sang múi giờ khác và có tính đến chuyển động của Trái Đất thì ta phải
hiệu chỉnh cho đúng.

13


Khi ta đi quanh Trái Đất từ tây sang đông (chiều tăng của số theo múi)
thì ta phải tăng đồng hồ 1 giờ. Nếu đi theo chiều ngược lại thì qua mỗi múi
ta phải giảm đồng hồ 1 giờ.
Nhưng nếu vậy ta sẽ (tăng hoặc giảm) thêm giờ vào với giờ thực của
một nơi trên Trái Đất. Ví dụ: Nếu ta rời một nơi trên Trái Đất vào lúc 6 giờ
ngày mùng 1, mỗi ngày đi được 1 múi, ta chỉnh lên 1 giờ. Vậy qua 24 múi
được 1 ngày, cho nên ngày ta về nơi cũ theo đồng hồ tay sẽ là ngày 26.
Trong khi đồng hồ để ở nhà là ngày 25. Rõ ràng ta đã bị nhầm 1 ngày
(đoàn thám hiểm của Magellan năm 1521 đã bị như vậy). Để tránh nhầm
lẫn người ta quy định đường đổi ngày dọc theo kinh tuyến 180 o (qua Thái
Bình Dương). Nếu người đi theo chiều quay Trái Đất (Tây qua Đông) thì
khi qua đây phải giảm đi 1 ngày ở đồng hồ đeo tay của mình. Còn người đi
theo chiều ngược lại (Đông qua Tây) thì tăng lên 1 ngày để phù hợp với lịch
của nơi sẽ đến.

14



CHƢƠNG 2: CÁC LOẠI LỊCH
Lịch là một hệ thống đếm các khoảng thời gian như ngày, tuần lễ,
tháng, mùa, năm, thế kỷ… theo một quy tắc nhất định. Quy tắc ấy thường
dựa vào các chu kỳ trong tự nhiên như chuyển động biểu kiến của Mặt
Trời, Mặt Trăng trên bầu trời sao mà ta quan sát được từ Trái Đất. Thông
thường, thiên văn có 3 đơn vị quan trọng nhất để làm lịch là ngày Mặt
Trời, tuần trăng và năm xuân phân.
Theo nghiên cứu, tuần trăng và năm xuân phân có con số lẻ, lại không
chia hết cho nhau, điều đó là khó khăn rất lớn cho việc làm lịch và cũng
làm nảy sinh nhiều loại lịch khác nhau: âm lịch thường hướng theo xấp xỉ
tuần trăng, dương lịch hướng theo xấp xỉ năm xuân phân. Để cố gắng
dung hòa cả 2 loại lịch đó, người ta cho ra các loại âm dương lịch.
Theo lịch sử của lịch, âm lịch xuất hiện trước, nhưng vì không phản
ánh đúng mùa màng nên người ta ít chuộng và hầu như chuyển sang dùng
dương lịch. Trong lịch sử, Việt Nam ta vốn là một nước nông nghiệp và
chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa Trung Quốc nên ta sử dụng âm lịch,
thường dựa theo lịch Trung Quốc, nhưng cũng có lúc độc lập. Sau này, khi
thuộc Pháp ta sử dụng dương lịch. Hiện nay, lịch Việt Nam là dương lịch
soạn theo múi giờ 7, nhưng cũng có thêm phần âm lịch để tôn trọng tập
quán của nhân dân. Nhưng đây cũng là loại âm lịch cải tiến (âm dương).
Ta sẽ tìm hiểu cụ thể từng loại lịch.
2.1.

Ba loại lịch thƣờng gặp

2.1.1. Dương lịch
Cơ sở xây dựng năm dương lịch là độ dài của năm xuân phân (hay chu kì
4 mùa). Như đã biết, năm xuân phân dài 365,2422 ngày nhưng năm dương
lịch phải được sắp xếp sao cho có số nguyên ngày xấp xỉ một cách tốt nhất
với năm xuân phân. Để phù hợp với 4 mùa thì bình quân năm lịch trong một

15


khoảng thời gian nào đó phải có trị số gần nhất với độ dài của năm xuân phân.
Vì vậy người ta phải quy ước thêm năm nhuận (năm thường có 365 ngày,
năm nhuận có 366 ngày).
Theo lịch sử, dương lịch được coi là bắt đầu từ thời hoàng đế La mã là
Julius Caesar năm 63 (TCN) và được chỉnh lại năm 46 (TCN).
Lịch Julius qui định: tháng lẻ 31 ngày, chẵn có 30 ngày; tháng 2 có 29
ngày (nếu nhuận: 30 ngày). Đến năm 46 (TCN) người ta điều chỉnh lịch này
để khắc phục sai số, khiến năm này bị dài ra.
Sau đó hoàng đế Auguste lại điều chỉnh lại bằng cách bỏ một số năm
nhuận và điều chỉnh tháng. Trong đó các tháng mang tên hoàng đế Julius
(tháng 7), August (tháng 8) đều có 31 ngày. Vì vậy tháng 2 có 28 ngày (nhuận
thì 29 ngày), tháng 10, 12 có 31 ngày, tháng 9, 11 có 30 ngày. Đồng thời
trong thời gian này Thiên chúa giáo toàn thắng. Người ta lấy năm sinh của
chúa Jesus làm năm đầu công lịch (gọi là năm thứ nhất sau CN), trước đó gọi
là TCN (TCN).
Mãi cả ngàn năm sau người ta nhận ra lịch Julius không còn phản ánh
đúng thời tiết nữa. Năm 1582 giáo hoàng Gregorius đã cho cải cách lại dương
lịch (dương lịch mới). Theo đó lấy năm trung bình là 365,2425 ngày, cứ 400
năm thì có 97 nhuận (dương lịch cũ có 100 nhuận). Lịch này vẫn còn sai số,
nhưng rất nhỏ: sai với năm xuân phân 0,0003 ngày (tức cứ sau 3300 năm thì
sai 1 ngày). Ngoài ra khi chuyển từ dương lịch cũ sang dương lịch mới thì
người ta đã tăng lên 10 ngày với dụng ý giữ được quy ước là ngày 21.3 phải
là ngày Mặt trời qua điểm xuân phân (năm 1582 qua điểm xuân phân vào
ngày 11.3 theo dương lịch cũ).
Hiện nay người ta đang có xu hướng cải tiến lịch sao cho thuận tiện, nhất
là vấn đề quy định số ngày trong tuần và tháng. Nhưng chưa có phương án
nào được chấp nhận.

16


2.1.2. Âm lịch
Âm lịch là lịch theo Mặt trăng, lấy độ dài của tuần trăng là 29,53 ngày
làm cơ sở cho tháng. Tháng thiếu có 29 ngày, tháng đủ có 30 ngày. Một năm
có 12 tháng, trung bình 29,53x12 = 354,367 ngày. Vậy năm thường có 354
ngày, năm nhuận có 355 ngày.
Đặc điểm của âm lịch là bao giờ nhật thực cũng xảy ra vào ngày sóc
(mùng 1) và nguyệt thực là ngày trăng tròn (ngày vọng). Khoảng thời gian
giữa 2 lần nhật thực là một số nguyên lần tuần trăng.
Lịch âm có số ngày trong năm ngắn hơn năm xuân phân tới 10 ngày. Cứ
3 năm âm lịch thì sai với chu kỳ bốn mùa 1 tháng, 9 năm thì 3 tháng. Vì vậy
năm âm lịch chỉ có khả năng tính thời gian chứ không phản ánh thời tiết.
2.1.3. Âm dương lịch
Về sau người ta đã xây dựng âm dương lịch dựa vào hai chu kì: tháng âm
lịch và năm xuân phân để bình quân năm âm lịch có độ dài phù hợp với chu kì
4 mùa. Đặt ra chu kì năm nhuận theo quy tắc: cứ 19 năm có 7 năm nhuận,
năm nhuận có 13 tháng. So với năm xuân phân thì:
19 năm XP = 365,2422 x 19 = 6939,60 ngày
19 năm ADL = (19x12) + 7 = 235 tháng = 29,53x235 = 6939, 55 ngày
Với luật nhuận trên, nếu tính cho 19 năm lịch thì độ dài bình quân của
năm lịch khá phù hợp với độ dài của năm xuân phân. Nhưng nếu xét từng
năm âm dương lịch thì lệch nhau khá lớn (năm thường có 354-355 ngày, năm
nhuận có 384-385 ngày).
Cách xác định năm nhuận âm dương lịch:
Ta có công thức : N = 19.q + x.
Trong đó:

N : con số năm dương lịch.

q : thương số của N chia 19.
x : số dư.
17


×