Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hợp đồng bảo hiểm thân tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.95 KB, 19 trang )

CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU
1.Khái niệm chung về Hợp đồng bảo hiểm thân tàu
1.1.Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm thân tàu là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa người bảo hiểm và
người được bảo hiểm, theo đó, người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo
hiểm về những mất mát, hư hỏng, thiệt hại xảy ra đối với vỏ tàu, máy móc và các thiết bị
trên tàu, đồng thời bảo hiểm cước phí, các chi phí hoạt động của tàu và một phần trách
nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trường hợp hai tàu đâm va, với điều kiện người được
bảo hiểm đã nộp cho người bảo hiểm một khoản tiền, gọi là phí bảo hiểm.
1.2.Đặc điểm
Hợp đồng bảo hiểm coi như được kí kết khi người bảo hiểm cấp Đơn bảo hiểm/
Giấy chứng nhận bảo hiểm ( Insurance Confirmation hoặc Loss Payable).
Về thời hạn của hợp đồng bảo hiểm thân tàu (như hợp đồng Bảo hiểm theo thời
hạn) thường từ 3 tháng đến 1 năm, thời hạn này bắt đầu tính từ 24h của ngày kí kết hợp
đồng cho đến 24h của ngày kết thúc hợp đồng, theo giờ địa phương hoặc giờ GMT.
Khi hợp đồng bảo hiểm đã hết hiệu lực mà tàu vẫn đang trên hành trình ngoài biển,
đang bị nạn hoặc mất tích thì tàu vẫn được bảo hiểm cho đến khi về neo đậu an toàn tại
cảng, nếu người được Bảo hiểm kịp thời thông báo, xin gia hạn hợp đồng và thỏa thuận
nộp thêm phí Bảo hiểm với Người Bảo hiểm.
Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm thân tàu sẽ tự chấm dứt khi một trong những
trường hợp sau phát sinh:
- Người bảo hiểm không nộp đúng hạn và đủ phí bảo hiểm theo quy định.
- Thay đổi nơi đăng kiểm của tàu mà không thông báo cho người bảo hiểm biết bằng văn
bản.
- Tàu bị đình chỉ hoạt động hoặc giấy phép hoạt động của tàu bị thu hồi hoặc kết thúc.
- Tàu được chuyển quyền sở hữu cho một người khác.
- Giấy chứng nhận đủ khả năng đi biển của tàu và giấy chứng nhận cấp hạng của tàu bị
mất hiệu lực hoặc hết thời hạn.

1



- Trong trường hợp, nếu những giấy phép hoạt động và các giấy tờ đăng kiểm của tàu đã
bị mất hiệu lực hoặc hết hạn mà tàu vẫn đang trong hành trình trên biển thì hợp đồng sẽ
chính thức hết hiệu lực khi tàu neo đậu an toàn tại cảng kế tiếp.
1.3.Phân loại
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm thân tàu thường thấy là: hợp đồng bảo hiểm theo
thời hạn và hợp đồng bảo hiểm chuyến
- Hợp đồng bảo hiểm theo thời hạn: là hợp đồng bảo hiểm thân tàu trong một thời gian
nhất định, thường từ 3 tháng đến 12 tháng, nếu thời hạn dài hơn 12 tháng thì hợp đồng
được coi là vô hiệu ngay từ khi kí kết.Thời gian hiệu lực cũng bắt đầu từ 24h của ngày kí
kết cho đến 24h của ngày có hiệu lực và khái niệm giờ do hai bên thỏa thuận với nhau.
Nếu đến hết 24h của ngày hết hạn mà tàu vẫn chưa đến cảng thì sẽ chờ cho đến khi tàu
neo đậu an toàn tại một cảng nào đó hoặc cảng đến và chủ tàu phải nộp thêm phí bảo
hiểm cho thời hạn kéo dài. Hình thức bảo hiểm này thường được áp dụng cho các loại tàu
khác nhau như tàu buôn (thường từ 100 GRT trở lên), tàu đánh cá, xà lan, tàu gỗ, giàn
khoan cố định hoặc di động,…Hình thức này cũng thường được áp dụng theo các điều
kiện: ITC-AR, ITC-FPA, ITC-FOD,…
- Hợp đồng bảo hiểm chuyến: có hiệu lực từ khi tàu nhổ neo và kết thúc sau 24h khi tàu
thả neo an toàn để chờ dỡ ở cảng đến. Hợp đồng bảo hiểm chuyến cũng gồm có 2 loại:
+ Hợp đồng “tại và từ” ( at and from) : khi đã kí kết hợp đồng, con tàu đã có mặt tại cảng
quy định như trong hợp đồng thì hợp đồng bắt đầu có hiệu lực với mọi rủi ro, tổn thất
được bảo hiểm xảy ra bắt đầu từ cảng đó trở đi.
+ Hợp đồng “từ” (from): hợp đồng bảo hiểm cho con tàu từ một địa điểm riêng. Khi tàu
khởi hành tại địa điểm riêng đó thì hợp đồng bắt đầu có hiệu lực và tiếp tục có hiệu lực
khi tàu đến cảng đích quy định.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến thường để bảo hiểm cho những con tàu mới đóng để xuất
khẩu hoặc tàu đi sửa chữa theo các điều kiện: IVC-AR, IVC-FPA,…
2.Các bên trong hợp đồng bảo hiểm thân tàu
Người bảo hiểm (the Insurer): các công ty bảo hiểm có tiến hành nghiệp vụ bảo
hiểm thân tàu.


2


Người được bảo hiểm (the Insured) : có thể là các chủ tàu hoặc những người thuê
tàu, khai thác tàu để kinh doanh thu cước phí. Trong một số trường hợp, người được bảo
hiểm yêu cầu bổ sung thêm Ngân hàng, người cầm cố vào mục người được bảo hiểm khi
khách hàng thế chấp tàu cho những đối tượng này để vay vốn.
Đối tượng được bảo hiểm (the Subject insured): như đã nói ở trên, đối tượng ở đây
bao gồm toàn bộ vỏ tàu, trang thiết bị máy móc có trên tàu và các chi phí khác trong đó
không bao gồm vật dụng và tài sản cá nhân.
3.Các điều kiện bảo hiểm thân tàu.
Trong các hợp đồng bảo hiểm thân tàu, thì những điều kiện bảo hiểm thân tàu của
Viện ILU sau thườn được áp dụng cho cả bảo hiểm theo thời hạn cũng như bảo hiểm
chuyến
- Điều kiện bảo hiểm thân tàu “mọi rủi ro” theo thời hạn (Institute Time Clauses (Hulls)
(ITC)- “All Risks”.
- Điều kiện miễn bồi thường tổn thất riêng theo thời hạn (Institute Time Clauses FPA
absolutely: ITC-F.P.A abs.)
- Điều kiện bảo hiểm thân tàu “mọi rủi ro” theo chuyến (Institute Voyage Clauses (IVC)“All risks”).
- Điều kiện miễn bồi thường tổn thất riêng theo chuyến (Institute Voyage Clauses FPA
absolutely: IVC-F.P.A abs.)
- Điều kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ (Institute Standard T.L.O Clause): điều kiện này
thường được dùng cho các tàu nhỏ theo hình thức thời hạn và chuyến).
Ngoài ra, các điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất bộ phận (FOD) và miễn tổn thất
riêng (FPA) nhưng hiện nay các điều kiện này ít được dùng hơn.
- Điều kiện bảo hiểm rủi ro ở cảng (Port Risks): thường được dùng cho tàu nằm một xó
(Laid Up ship).
- Điều kiện bảo hiểm xây dựng và kiến thiết tàu (Building and Construction Clause).
Đây là những điều kiện bảo hiểm phổ biến mà các chủ tàu có thể cân nhắc khi đi

mua bảo hiểm, kí kết hợp đồng bảo hiểm với những người Bảo hiểm.

3


CHƯƠNG II : QUI TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM THÂN TÀU
1.Nội dung Hợp đồng bảo hiểm thân tàu:
Khi tham gia bảo hiểm nói chung và bảo hiểm thân tàu nói riêng thì nội dung của
hợp đồng là phần quan trọng nhất. Nó là văn bản chứng minh việc giao kết một hợp đồng
bảo hiểm giữa hai bên, xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên, đồng thời cũng là cơ sở để
giải quyết khi có tổn thất hoặc khi có tranh chấp xảy ra.
Hợp đồng bảo hiểm do công ty bảo hiểm soạn, có thể có các nội dung khác do hai
bên thỏa thuận nhưng thông thường đều phải đảm bảo những nội dung sau:
- Người bảo hiểm: Là người cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Trong hợp đồng cần ghi rõ và
đầy đủ tên đăng ký của doanh nghiệp (kèm tên viết tắt nếu có), địa chỉ, số điện thoại, số
fax, mã số thuế, người đại diện và chức vụ, có thể thêm tài khoản ngân hàng và 1 số
thông tin khác.
- Người được bảo hiểm: là tổ chức, cá nhân có tài sản (cụ thể là con tàu) được bảo hiểm
theo hợp đồng bảo hiểm. Các thông tin trên hợp đồng phải ghi đủ như phần người bảo
hiểm. Nếu ủy quyền cho người khác phải xuất trình giấy ủy quyền.
- Nguyên tắc chung: Nêu những nguyên tắc cơ bản của hợp đồng, thể hiện rõ ý chí tự
nguyện giao kết hợp đồng của hai bên.
- Luật, điều khoản và điều kiện chi phối hợp đồng: Quy định luật áp dụng của hợp đồng,
các điều kiện, điều khoản của hợp đồng và mức khấu trừ.
- Thủ tục và hiệu lực bảo hiểm: Quy định về thủ tục bảo hiểm (bao gồm Yêu cầu bảo
hiểm và Chấp nhận bảo hiểm) và hiệu lực bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm: Quy định rõ tỷ lệ phí, mức phí, thời hạn thanh toán, phương thức thanh
toán và vấn đề hoàn phí bảo hiểm.
- Bảo quản, kiểm tra tàu và công tác đề phòng tổn thất
- Thông báo, giải quyết tai nạn: Quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của hai bên khi có sự

cố, tai nạn xảy ra, vấn đề khắc phục sự cố và giải quyết bồi thường.
- Trách nhiệm bảo lưu quyền khiếu nại người thứ ba: Quy định nghĩa vụ và trách nhiệm
của hai bên trong việc đòi bồi thường từ người thứ ba nếu tổn thất xảy ra có liên quan đến
trách nhiệm của người thứ ba.
- Chế tài bồi thường
- Thời hạn khiếu nại
- Hiệu lực của hợp đồng
- Xử lý tranh chấp: Quy định cách thức giải quyết tranh chấp và cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp khi hai bên không tự giải quyết được như Trọng tài, Tòa án,…

4


2. Quy trình ký kết Hợp đồng bảo hiểm thân tàu:
Thông thường, quy trình ký kết một hợp đồng bảo hiểm thân tàu sẽ diễn ra theo
trình tự sau:
Bước 1: Công ty bảo hiểm khai thác và nhận đề nghị bảo hiểm
Bước 2: Phân tích, đánh giá rủi ro
Bước 3: Đề xuất phương án bảo hiểm
Bước 4: Chào phí bảo hiểm và đàm phán
Bước 5: Ký kết hợp đồng bảo hiểm và cấp đơn/giấy chứng nhận bảo hiểm
Bước 6: Thu phí bảo hiểm
2.1. Khai thác và nhận đề nghị bảo hiểm:
Các doanh nghiệp bảo hiểm chủ động khai thác, tìm kiếm các đối tác có nhu cầu
mua bảo hiểm thân tàu thông qua nhiều nguồn như các phương tiện thông tin đại chúng,
các cơ quan chủ quản, hữu quan, đại lý, môi giới hoặc thông qua mối quan hệ của mình
với các chủ tàu, các đơn vị sửa chữa và đóng tàu,…
Doanh nghiệp bảo hiểm phải thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, gửi hoặc trao
đổi các thông tin về bảo hiểm thân tàu nhằm giới thiệu các sản phẩn bảo hiểm của mình
đến với khách hàng, kịp thời nắm bắt những thay đổi và biến động trong hoạt động kinh

doanh của khách hàng để tư vấn, giới thiệu sản phẩm bảo hiểm phù hợp.
Các chủ tàu cũng có thể tự tìm đến các doanh nghiệp bảo hiểm khi có nhu cầu mua
bảo hiểm thân tàu.
Khi khách hàng có nhu cầu mua bảo hiểm thân tàu, doanh nghiệp bảo hiểm cần
cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm bảo hiểm, giúp khách hàng hiểu và nắm được
những lợi ích của việc mua bảo hiểm cho con tàu, từ đó có thể tiến hành chào bán bảo
hiểm.
2.2. Phân tích, đánh giá rủi ro:
Khi chủ tàu có ý định mua bảo hiểm thân tàu, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cử cơ quan
đánh giá rủi ro của mình đến đánh giá tình trạng con tàu và rủi ro để đề xuất phương án
bảo hiểm và xác định mức phí, tỷ lệ phí bảo hiểm thông qua việc lập Biên bản kiểm tra
tình trạng tàu trước khi nhận bảo hiểm (Pre- Entry Survey Report). Trong trường hợp tàu

5


vận chuyển là tàu nguyên chuyến, công ty bảo hiểm cần yêu cầu chủ tàu kê khai rõ quốc
tịch tàu, năm đóng để biết rõ tuổi tàu. Thông thường, tàu trên 15 tuổi sẽ phải đóng thêm
phí tàu già theo tỷ lệ phí quy định trong biểu phí của từng doanh nghiệp bảo hiểm. Với
những tàu từ 30 tuổi trở lên phải thương lượng những điều khoản bảo hiểm đặc biệt và
phải xin ý kiến Tổng công ty Bảo hiểm trước khi nhận bảo hiểm.
Khâu đánh giá rủi ro là khâu rất quan trọng và phức tạp, cần được tiến hành thật
thận trọng và chính xác do đối tượng bảo hiểm là tàu thủy có yêu cầu kỹ thuật cao, giá trị
bảo hiểm lớn, khả năng rủi ro cao, đòi hỏi các giám định viên có chuyên môn cao hoặc tổ
chức uy tín của nước ngoài.
2.3. Đề xuất phương án bảo hiểm:
Từ tình trạng giám định đã đánh giá, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đề xuất phương án
bảo hiểm cho người mua và mức phí bảo hiểm.
Đối với bảo hiểm tàu biển, công ty bảo hiểm cần xác định xem trước đó tàu đã tham
gia bảo hiểm ở đâu. Nếu đã tham gia bảo hiểm tại công ty mình thì sử dụng điều kiện và

tỷ lệ phí bảo hiểm đã sử dụng trước đó. Còn nếu trước đó tàu đã tham gia bảo hiểm tại
công ty bảo hiểm khác thì cần tìm hiểu kỹ thông tin về tình hình tổn thất, việc thanh toán
phí bảo hiểm và tình hình tài chính của chủ tàu.
Nếu tàu già công ty bảo hiểm sẽ thu thêm phụ phí tàu già theo biểu phí quy định.
Nếu tàu không đảm bảo an toàn hàng hải dẫn đến khả năng tổn thất cao thì đề nghị nâng
mức khấu trừ miễn thưởng hoặc chỉ nhận tổn thất toàn bộ, hoặc từ chối bán bảo hiểm.
2.4. Chào phí bảo hiểm và đàm phán:
Sau khi đề xuất phương án bảo hiểm, công ty bảo hiểm tiến hành chào phí bảo hiểm
cho người được bảo hiểm theo mức phí đã xác định bên trên. Nếu khách hàng không
chấp nhận mức phí bảo hiểm có thể trao đổi, thỏa thuận và tính lại phương án chào phí.
Nếu khách hàng có những yêu cầu bảo hiểm khác, hai bên sẽ tiến hành đàm phán,
thoải thuận. Nếu thỏa thuận không đạt được thì sẽ không hình thành hợp đồng, công ty
bảo hiểm sẽ thực hiện đóng và lưu trữ hồ sơ.

6


2.5. Ký kết hợp đồng bảo hiểm và cấp đơn/giấy chứng nhận bảo hiểm:
Muốn tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm phải gửi cho người bảo hiểm Giấy
yêu cầu bảo hiểm bằng văn bản theo mẫu, 5 ngày trước ngày chủ tàu cần bảo hiểm. Nếu
tham gia bảo hiểm lần đầu tiên, các tàu thuyền cần cung cấp đủ các giấy tờ sau:
- Giấy chứng nhận quốc tịch
- Giấy chứng nhận khả năng đi biển
- Giấy chứng nhận cấp hạng tàu
- Biên bản kiểm tra tàu khi giao, nhận tàu, hoặc biên bản kiểm tra của đăng kiểm
- Báo cáo tình hình tổn thất của tàu trước đó và đơn bảo hiểm cũ nếu có.
Khi hai bên đạt được thỏa thuận về các điều kiện bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ
tiến hành lập Hợp đồng bảo hiểm thân tàu và hai bên tiến hành ký kết. Hợp đồng bảo
hiểm coi như ký kết khi người bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm Đơn/Giấy chứng
nhận bảo hiểm. Khi hợp đồng bảo hiểm hết hiệu lực mà tàu còn đang trên hành trình hay

đang gặp nguy hiểm hoặc đang ghé vào nơi nào đó để lánh nạn thì tàu thuyền có thể được
tiếp tục bảo hiểm cho đến khi về neo đậu an toàn tại cảng, nếu người được bảo hiểm kịp
thời xin gia hạn hợp đồng và thỏa thuận nộp thêm phí bảo hiểm.
Nguyên tắc khi cấp Đơn bảo hiểm, phí bảo hiểm thanh toán theo loại tiền tệ nào
(nội tệ hay ngoại tệ) thì khi bồi thường sẽ thanh toàn theo loại tiền tệ đó.
2.6. Thu phí bảo hiểm:
Sau khi hoàn tất việc cấp đơn bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thực hiện đóng
phí bảo hiểm theo như thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với các đơn bảo hiểm ngắn hạn
( từ 3 đến 6 tháng) hoặc bảo hiểm chuyến, việc thu phí bảo hiểm phải tiến hành ngay khi
cấp đơn bảo hiểm. Còn đối với các đơn bảo hiểm trung và dài hạn có thể chia thành nhiều
kỳ thu phí.
Nếu người được bảo hiểm không hoàn thành nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm đầy đủ và
đúng hạn thì hợp đồng bảo hiểm sẽ tự động bị vô hiệu.
3. Qui trình bồi thường và giải quyết tranh chấp khi có tổn thất
3.1. Thông báo tổn thất
Khi tàu được bảo hiểm xảy ra tai nạn, Người được bảo hiểm phải bằng mọi cách
thông báo ngay cho Người bảo hiểm hoặc đại diện Người bảo hiểm nơi xảy ra sự cố, mọi

7


thông tin về sự cố liên quan để bàn bạc, giám định và đề ra hướng giải quyết thích hợp
nhằm hạn chế tổn thất tới mức thấp nhất.
Người được bảo hiểm có thể thông báo cho người bảo hiểm bằng điện thoại, trao
đổi trực tiếp, fax, email hoặc công văn. Người bảo hiểm sẽ tiến hành thu thập các thông
tin ban đầu về tổn thất xảy ra, đồng thời hướng dẫn người được bảo hiểm tìm cách hạn
chế, khắc phục tổn thất; yêu cầu thuyền trưởng lập kháng cáo hàng hải gửi thư khiếu nại
người thứ ba (Claim letter to third party), thông báo Cảng vụ và các cơ quan chức năng
khác. Người được bảo hiểm cũng cần thu thập các tài liệu sau khi có tổn thất xảy ra :
- Kháng nghị Hàng hải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nơi tàu xảy ra tai nạn

hoặc cảng đến đầu tiên nếu sự cố xảy ra khi tàu đang ở ngoài khơi.
- Trích sao đầy đủ nhật ký Hàng hải, nhật ký máy, thời tiết... (tùy theo nguyên nhân xảy
ra sự cố tổn thất )
- Sơ đồ vị trí xảy ra tai nạn (trường hợp tàu bị đâm va, mắc cạn, va đá ngầm...)
- Báo cáo chi tiết về tổn thất của thuyền trưởng (tổn thất thuộc phần vỏ), máy trưởng (tổn
thất thuộc phần máy) hoặc của Điện trưởng (tổn thất thuộc phần điện).
- Biên bản đối tịch có xác nhận của hai tàu nếu tàu đâm va với tàu khác, nội dung ghi rõ
tên tàu đâm va, chủ tàu hoặc Người bảo hiểm, vị trí đâm va, tốc độ của hai tàu, sơ bộ tổn
thất của mỗi tàu.
3.2. Tiến hành giám định
Việc giám định tổn thất trong bảo hiểm thân tàu do người giám định hoặc công ty
giám định của người bảo hiểm hoặc do người bảo hiểm ủy quyền. Việc giám định có thể
có thuyền trưởng và những nhân chứng khác chứng kiến. Phí giám định do người yêu cầu
giám định trả và được bồi thường nếu tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Giá cả và nơi sửa chữa tàu phải thông báo cho người bảo hiểm biết. Người bảo hiểm
có quyền tham gia ý kiến và quyết định về nơi sửa chưa, giá cả, và giám sát việc sửa
chữa. Nếu người được bảo hiểm vi phạm qui định này thì người bảo hiểm sẽ trừ 15% số
tiền được chấp nhận bồi thường.

8


3.3. Lập hồ sơ khiếu nại bồi thường và thanh toán bồi thường tổn thất
Sau khi tiến hành giám định, trong vòng 1 năm kể từ ngày xảy ra tổn thất (2 năm
đối với tổn thất chung), người được bảo hiểm phải lập một bộ Hồ sơ khiếu nại bồi
thường, gồm :
- Thư khiếu nại
- Báo cáo hàng hải, báo cáo tai nạn hoặc tổn thất có xác nhận của chính quyền nơi xảy ra
tai nạn hoặc bến đến đầu tiên
- Biên bản giám định của người bảo hiểm hoặc người được người bảo hiểm ủy quyền .

- Hóa đơn , chứng từ liên quan đến chi phí bồi thường
- Văn bản , thư từ liên quan đến việc đòi người thứ ba bồi thường
- Những giấy tờ khác như : trích sao nhật kí hàng hải, nhật kí máy, nhật kí thời tiết .. .
Sau khi gửi hồ sơ khiếu nại trong vòng 7 ngày mà người được bảo hiểm không có yêu
cầu gì thêm thì bộ hồ sơ khiếu nại đó được coi là đầy đủ và hợp lệ.
Nếu tổn thất không thuộc trách nhiệm, công ty có thể từ chối bồi thường hoặc xét
bồi thường cho những khách hàng lớn, tiềm năng, hoặc cho tổn thất nhỏ, lần đầu. Nếu tổn
thất thuộc trách nhiệm và số tiền bồi thường phù hợp với yêu cầu của người được bảo
hiểm, công ty sẽ bồi thường số tiền sau khi đã trừ mức khấu trừ theo qui định.
Đối với khiếu nại thuộc trách nhiệm bảo hiểm, bên bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường
trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ khiếu nại của Người được bảo
hiểm. Nếu bên bảo hiểm có văn bản từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền khiếu nại thì
trong vòng 30 ngày nhận được văn bản hợp pháp đó, nếu người được bảo hiểm không có
ý kiến gì thì coi như chấp nhận sự từ chối bồi thường và không có quyền khiếu nại tiếp
theo.
3.4. Đòi bồi thường tái bảo hiểm, bán cứu vớt tài sản và đòi người thứ ba
Sau khi bồi thường xong, công ty sẽ lập bộ hồ sơ để đòi tái bảo hiểm. Đồng thời,
công ty xem xét khả năng thu hồi và bán thanh lý tài sản bị tổn thất. Trên cơ sở biên bản
giám định, biên nhận và thế nhiệm (Recreipt and Subrogation) của khách hàng và các
chứng từ khác có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, Người được bảo hiểm chỉ
thị cho thuyền trưởng thực hiện đầy đủ những nguyên tắc, thủ tục, qui định của pháp luật
để Người bảo hiểm thực hiện quyền khiếu nại, đòi bồi thường đối với người thứ ba. Nếu

9


người được bảo hiểm không làm đầy đủ trách nhiệm trong việc bảo lưu quyền khiếu nại
cho người bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ từ chối toàn bộ hoặc chỉ bồi thường một pần
của số tiền khiếu nại.
3.5. Xử lí tranh chấp nếu có

Trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm , 2 bên ưu tiên
thương lượng với nhau. Nếu thương lượng không có kết quả, sẽ đưa ra tòa án nơi công ty
bảo hiểm hoặc đại diện người ược bảo hiểm đặt trụ sở kinh doanh để xét xử

10


CHƯƠNG 3 : BẤT CẬP TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM THÂN TÀU
1.Những bất cập trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm thân tàu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm không tránh khỏi những bất cập dẫn
đến tranh chấp giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm. Những bất cập đó diễn ra
chủ yếu trong khâu giám định và khâu khiếu nại, bồi thường. Đặc biệt là khâu khiếu nại,
bồi thường.
1.1.Công tác giám định tổn thất
Giám định có thể xem là cơ sở để thực hiện khâu giải quyết bồi thường. Để đảm bảo
thực hiện bồi thường kịp thời, chính xác và khách quan, cơ quan bảo hiểm cần làm tốt
khâu giám định. Đây là khâu quan trọng đem lại lòng tin cho khách hàng. Do vậy, công
tác này đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ chuyên môn cao và các chuyên gia giỏi
trong lĩnh vực.
Công tác giám định phụ thuộc vào chuyên môn và phẩm chất của giám định viên tất
nhiều. Bất cứ một hành động tiêu cực hay thiếu chuyên sâu nào của giám định viên cũng
có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của nghiệp vụ và lòng tin của khách hàng
Tuy nhiên, hiện nay, tại Việt Nam chưa có trung tâm nào đào tạo giám định viên
chính thức mà đội ngũ giám định viên chỉ thực hiện công việc dựa vào kinh nghiệm và sự
tự học hỏi qua các vụ việc thực tế.
Bên canh đó, đội ngũ giám định viên nói chung và giám định viên chuyên sâu nói
riêng thường tập trung ở một số cảng và thành phố lớn. Vì vậy khi có tổn thất xảy ra ở
những cảng hay thành phố nhỏ thì không có ngay giám định viên khiến cho thời gian
giám định kéo dài, kéo theo thời gian giải quyết bồi thường dài hơn làm mất lòng tin của

khách hàng.
1.2.Công tác khiếu nại và bồi thường tổn thất
Đây là khâu phức tạp và quan trọng nhất. Trong công tác giải quyết bồi thường tổn
thất, kết quả giải quyết là yếu tố hàng đầu tuy nhiên thời gian cũng là vấn đề rất cần được
quan tâm. Đây cũng là khâu xảy ra nhiều bất cập nhất trong quá trình thực hiện hợp đồng
bảo hiểm.
Thứ nhất, định giá tàu.

11


Một bất cập rất phổ biến trong quá trình thực hiện công tác khiếu nại và bồi thường là
việc đánh giá trị giá tàu gặp khó khăn, đôi khi không thống nhất khiến giá trị của tàu
trước và sau khi xảy ra tổn thất chênh lệnh lớn, gây ra tranh chấp giữa công ty bảo hiểm
và người được bảo hiểm.
Thứ hai, quá trình giải quyết khiếu nại và bồi thường đôi khi còn kéo dài.
Nguyên nhân của bất cập này đến từ những khía cạnh sau:
- Chủ tàu không nắm vững các điều khoản và quy tắc bảo hiểm. Nhiều chủ tàu quan niệm
rằng đã mua bảo hiểm thì cứ xảy ra tổn thất là bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường. Do
vậy, họ đòi hỏi bồi thường cả những tổn thất, chi phí không thuộc trách nhiệm bảo hiểm,
dẫn tới tranh chấp kéo dài không cần thiết.
- Bộ hồ sơ khiếu nại không rõ ràng, đầy đủ: Cơ sở để giải quyết bồi thường là bộ hồ sơ
khiếu nại yêu cầu bồi thường. Người bảo hiểm cần nghiên cứu, kiểm tra các vấn đề có
liên quan, tính toán số tiền bồi thường để tiến hành bồi thường, Nếu bộ hồ sơ rõ ràng, đầy
đủ thì việc giải quyết sẽ dễ dàng. Ngược lại, bộ hồ sơ không rõ ràng và đầy đủ thì không
thể phân tách trách nhiệm và giá trị tổn thất dẫn đến công việc bồi thường phức tạp và
mất nhiều thời gian.
- Đối với những vụ có tổn thất lớn, tiền khiếu nại đòi bồi thường vượt mức phân cấp của
các công ty (chi nhánh) bảo hiểm địa phương thì các chi nhánh này phải báo cáo về Tổng
công ty đê xin ý kiến chỉ đạo giải quyết. Quy trỉnh rườm rà dẫn đến việc mất thêm thời

gian, khiến việc giải quyết sự cố, xét khiếu nại và bồi thường cho khách hàng bị chậm trễ.
Thứ ba, sự trục lợi bảo hiểm.
Song song với sự phát triển của ngành bảo hiểm là sự gia tăng về tội phạm kinh tế trong
lĩnh vực bảo hiểm với tính chất ngày càng nghiêm trọng và hình thức tinh vi hơn.
Các đối tượng thường lợi dụng các sơ hở trong công tác quản lý, giám sát, kiểm tra nội
bộ, đặc biệt là những quy định không chặt chẽ trong các quy trình, điều khoản, quy tắc và
những yếu kém trong công tác bồi thường để trục lợi.
Đối tượng trục lợi có thể là chủ tàu hoặc cán bộ bảo hiểm.
- Từ phía chủ tàu:
+ Khai báo tai nạn không, tạo hiện trường giả và lập hồ sơ khiếu nại không có thật nhằm
đòi bảo hiểm.

12


+ Khi tai nạn xảy ra, lợi dụng khi chưa có cơ quan chức năng và giám định viên đến, tháo
những chi tiết không hỏng và thay bằng các chi tiết hỏng nhằm tăng tổn thất để nhận
thêm tiền bảo hiểm.
+ Nhưng phương đã cũ nhưng được bảo hiểm với giá trị cao hơn thực tế khiến khách
hàng tìm mọi cơ hội để tạo ra tai nạn với tổn thất toàn bộ để lấy tiền bảo hiểm.
+ Thông đồng với giám định viên nâng khống những chi tiết hư hỏng và nâng số lượng
thiệt hại, những chi tiết thực tế sửa chữa được nhưng cho thay thế để lấy giá chênh lệch.
- Từ phía cán bộ bảo hiểm
+ Lợi dụng sự kiểm tra giám sát không thường xuyên và chặt chẽ của đơn vị đẻ thông
đồng, bày cho chủ tàu hợp lý hóa hồ sơ khiếu nại để rút tiền bồi thường bảo hiểm.
+ Cán bộ có trình độ non kém không thể giám định chính xác mức độ tổn thất để có quyết
định đúng trong việc thay hay không thay các chi tiết hư hỏng và không đưa ra được
những kết luận nguyên nhân tai nạn có thuộc trách nhiệm bảo hiểm hay không.
2. Phân tích trường hợp thực tế
Dựa trên những bất cập về Hợp đồng bảo hiểm thân tàu nêu trên, nhóm chúng em sẽ

phân tích một trường hợp cụ thể về tranh chấp xảy ra do điều khoản hợp đồng chưa quy
định rõ ràng về việc định giá con tàu.
Tóm tắt case: Mua bảo hiểm thân tàu trị giá 3 tỉ đồng chỉ được đền bù hơn 1,7 tỉ đồng
* Thông tin từ phía ông Dần – Chủ tàu QNg 95139TS:
Năm 2015, sau hơn chục năm dành dụm vốn liếng, vay thêm của người thân và ngân
hàng, ông đã đóng được tàu QNg 95139TS, công suất 711CV trị giá hơn 3 tỉ đồng. Để
yên tâm làm ăn, ngày 13-1-2016, ông Dần ký hợp đồng mua bảo hiểm thân tàu với Bảo
Minh Quảng Ngãi. Trong hợp đồng, Bảo Minh Quảng Ngãi đánh giá giá trị thực tế thân
tàu của ông Dần là 3 tỉ đồng. Mức trách nhiệm bảo hiểm cao nhất mà Bảo Minh Quảng
Ngãi phải chi trả cho ông Dần khi tàu bị thiệt hại hoàn toàn là 3 tỉ đồng. Ngày 12-8, trong
lúc tàu QNg 95139TS cùng 5 ngư dân đang trên đường trở về sau gần 1 tháng ra khơi thì
bất ngờ bị giông lốc nhấn chìm, may mắn được cứu thoát tuy nhiên con tàu cùng toàn bộ
tài sản trị giá hơn 3,7 tỉ đồng đã chìm dưới đáy biển. Ngay sau khi tàu bị nạn, ông Dần
liên hệ với Bảo Minh Quảng Ngãi để được trả tiền bảo hiểm. Thế nhưng, Bảo Minh

13


Quảng Ngãi chỉ đưa ra mức bồi thường hơn 1,7 tỉ đồng, sau đó nâng lên 2,2 tỉ đồng và
đến đầu tháng 12-2016 gửi thông báo chỉ chấp nhận mức bồi thường 1,75 tỉ đồng.
* Đáp trả của ông Ngô Ngọc Bính-Giám đốc Bảo Minh Quảng Ngãi
Ông cho biết tuy chủ tàu Dần đã đóng bảo hiểm thân tàu theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP,
đủ số tiền theo qui định, theo đó với mức bồi thường khi bị thiệt hại là 100% là 3 tỉ đồng.
Tuy nhiên sau khi ký hợp đồng (ngày 13-1), đến ngày 7-7, qua đánh giá lại giá trị thực tế,
Bảo Minh đã gửi đề nghị điều chỉnh giá trị bảo hiểm thân tàu giảm xuống còn gần 1,7 tỉ
đồng nhưng chủ tàu không xác nhận. Đến ngày 12-8, khi tàu ông Huỳnh Dần xảy ra sự
cố, công ty đã mời đơn vị giám định, định giá lại chiếc tàu của ông Dần và xác định được
giá trị thực tế tại thời điểm xảy ra sự cố chỉ khoảng 1,75 tỉ đồng. Vì vậy, Tổng Cty Bảo
Minh mới có thông báo cho chủ tàu Dần số tiền bồi thường là 1,75 tỉ đồng”.


Hình1: Thông báo của Bảo Minh Quảng Ngãi về việc giảm tiền bổi thường còn 1,75 tỷ đồng

14


* UBND tỉnh Quảng Ngãi vào cuộc:
Dưới đây là hình ảnh văn bản kiến nghị từ ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Hình 2: Văn bản kiến nghị từ ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

15


Ông Đặng Văn Minh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, cho biết sau khi nhận được
đơn của ông Huỳnh Dần, UBND tỉnh đã có văn bản gửi Bảo Minh Quảng Ngãi yêu cầu
giải quyết bồi thường bảo hiểm cho tàu cá ông Huỳnh Dần theo đúng quy định pháp luật
tuy nhiên phía Tổng Công ty CP Bảo Minh cũng có công văn trả lời chỉ chấp nhận đền bù
1,75 tỉ đồng cho ông Dần.
Phân tích Case:
Thiếu sót ở đây bắt đầu từ khi ký kết hợp đồng, hai bên đã không thực hiện giám
định chính xác giá trị con tàu. Do tin vào lời ngư dân kê khai giá trị phương tiện khi đến
đóng bảo hiểm, đồng thời Bảo Minh Quảng Ngãi cũng không đủ người để thẩm định, đối
chiếu lại do dó không ít trường hợp ngư dân đến đóng bảo hiểm nhưng tàu vẫn đang hoạt
động trên biển, chưa về bến… Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho chủ tàu cá theo chủ
trương trên, Bảo Minh Quảng Ngãi vẫn chấp thuận kí hợp đồng bảo hiểm phương tiện
cho ngư dân. Đến khi xảy ra tai nạn, thẩm định lại mới biết giá trị thực tế của tàu thấp
hơn so với ngư dân đã khai báo khi mua bảo hiểm.
Cụ thể, đối với trường hợp của ngư dân Huỳnh Dần, sau khi đã ký kết hợp đồng hơn
6 tháng, Tổng Công ty Bảo Minh mới dựa trên hồ sơ thiết kế chiếc tàu mà ông Dần đã
nộp, mời Công ty Cổ phần giám định Thái Dương (SICO) thẩm định, với hình thức khảo

sát tại một số xưởng đóng tàu có uy tín trên địa bàn và đưa ra trị giá tàu ông Dần là
khoảng 1,75 tỉ đồng.Tuy nhiên hình thức thẩm định khảo sát như trên không thể chính
xác 100% và cũng không được quy định trong bộ luật nào.
Hơn nữa, theo qui định về bảo hiểm cho tàu cá theo “Nghị định 67″, thì Bảo Minh
Quảng Ngãi phải bồi thường thiệt hại 100% cho chủ tàu Dần như hợp đồng đã kí kết. Nếu
Bảo Minh Quảng Ngãi cho rằng trước đó đã rà soát lại và nhận thấy chủ tàu Dần kê khai
giá trị phương tiện cao hơn so với thực tế, nên đã có thông báo điều chỉnh chủ tàu Dần thì
việc điều chỉnh giảm này phải được thể hiện bằng văn bản phụ lục có kí tên của 2 bên,
đóng dấu và kẹp trong hồ sơ bảo hiểm. Trên cơ sở này thì Bảo Minh Quảng Ngãi mới đưa
ra, điều chỉnh mức bồi thường giảm, tăng được”.
Kiến nghị:
Tranh chấp xảy ra phức tạp như trên không chỉ do quy định về việc định giá tài sản
chưa rõ ràng mà còn vì các bộ luật áp dụng chưa thống nhất. Theo Chương 16 Mục B
Điều 210 Bộ Luật Hàng Hải quy định “giá trị bảo hiểm của tầu là tổng giá trị của tầu vào

16


thời điểm bắt đầu bảo hiểm”. Tuy nhiên theo Điều 46 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm “ Số
tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác
định trên cơ sở giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất
và mức độ thiệt hại thực tế, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm”.
Do vậy, nếu vẫn không thể giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hoặc thỏa thuận thì
tốt hơn hêt là nên để trọng tài hoặc toà án giải quyết theo thẩm quyền, thủ tục do pháp
luật quy định.

17


KẾT LUẬN

Công ty bảo hiểm Việt Nam nói chung và cụ thể là tại các công ty bảo hiểm Hàng
hải Việt Nam đã có một quá trình tồn tại và phát triển trong nhiều năm qua, đã đóng góp
một vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của
ngành Hàng hải Việt Nam. Nhiều nghiệp vụ bảo hiểm đã và đang được triển khai để đáp
ứng các yêu cầu và đòi hỏi ngày càng đa dạng và phong phú của hoạt động hàng hải. Tuy
nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình toàn cầu hóa, hoạt động hàng hải ở
Việt Nam, đang có những thách thức trước mắt và lâu dài. Do vậy, để phát huy được vai
trò quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm trong hoạt động hàng hải, trong thời gian tới, cần
phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thêm, đặc biệt đối với hợp đồng bảo hiểm thân tàu.
Sau hơn một tháng tìm hiểu và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn tận tình của Thầy
giáo, đến nay bài tiểu luận của nhóm đã hoàn thành. Chúng em đã đi sâu nghiên cứu về
cơ sở pháp lý của hợp đồng bảo hiểm thân tàu cụ thể là về khái quát chung, quy trình
thực hiện và một số bất cập trong lĩnh vực này. Ngoài ra có đưa thêm ví dụ thực tiễn về
tranh chấp xảy ra do việc thực hiện bảo hiểm thân tàu chưa chặt chẽ.
Qua đây, nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo đã giúp đỡ chúng em để
hoàn thành bài tiểu luận này. Song với trình độ và thời gian hạn chế, chắc chắn bài tiểu
luận sẽ không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của
thầy giáo và các bạn để cho bài luận được hoàn thiện hơn.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS David Bland. 1998. Bảo hiểm – nguyên tắc và thực hành. Hà Nội: NXB Tài chính.
2. PGS.TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sỹ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến. 2002. Bảo hiểm
trong kinh doanh. NXB Khoa học kỹ thuật: Hà Nội.
3. PGS.TS Hồ Sĩ Hà. 2000. Giáo trình bảo hiểm. Hà Nội: NXB Thống kê.
4. Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10
5. Nghị định 73/2016/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành luật kinh
doanh bảo hiểm và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật kinh doanh bảo

hiểm.
6. Tử Trực. 2016. Bảo hiểm “lật kèo”, ngư dân khốn khó, xem 25/12/2016
< />
19



×