Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thực trạng và xu thế phát triển của hiệp định thương mại tự do (FTA) trong khu vực ASEAN cơ hội và thách thức của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.92 KB, 17 trang )

Thực trạng và xu thế phát triển của Hiệp định thương mại
tự do (FTA) trong khu vực ASEAN - Cơ hội và thách thức
của Việt Nam

I.

Các thực trạng và xu thế của Hiệp định thương mại tư do (FTA) trong
khu vực ASEAN

1. Duy trì FTA song phương và đa phương giữa các nước trong ASEAN
Hình thái FTA (Free Trade Agreement) song phương hoặc nhiều bên, với phạm vi hợp tác rộng hơn,
không chỉ giới hạn trong việc thực hiện tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ mà còn cả xúc tiến và
tự do hoá đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và
nhiều nội dung mới khác như lao động, môi trường.

Sự gia tăng mạnh các FTA song phương và khu vực đang trở thành một xu thế quan trọng trong quan
hệ kinh tế quốc tế từ đầu thế kỷ 21. Sự phát triển mạnh mẽ của các FTA song phương với phạm vi
điều chỉnh rộng (bao gồm hầu hết các lĩnh vực chính như hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ,
chính sách cạnh tranh, mua sắm chính phủ v.v..), mức độ tự do hoá cao và hình thành trên cơ sở liên
kết giữa các đối tác thuộc các khu vực địa lý khác nhau.

Động lực chính để các nước đang phát triển trong ASEAN đàm phán nhằm ký kết FTA với các nước
trong khu vực là khả năng được hưởng các ưu đãi, miễn trừ nhằm nâng cao khả năng tiếp cận thị
trường. Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa cơ cấu hàng xuất khẩu (thường mang tính bổ sung cho nhau)
cũng là một lý do quan trọng đưa đến đàm phán FTA.


Xu thế FTA có quan hệ và tác động qua lại tương đối chặt chẽ đến hệ thống kinh tế - thương mại quốc
tế. Một mặt, nhiều ý kiến cho rằng xu thế FTA là sự bổ trợ đối với tiến trình đàm phán thương mại đa
phương, do tạo nên nền tảng và mở đường cho các thành viên WTO thảo luận và thống nhất ở cấp độ
toàn cầu. Mặt khác, nếu các nước tập trung nhiều vào FTA sẽ giảm sự quan tâm đối với tiến trình đa


phương, khiến thúc đẩy tự do hoá thương mại ở cấp độ toàn cầu gặp khó khăn.

Đối với các nước đang phát triển, việc tham gia các FTA tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu, đồng thời
tạo sức ép để các nước này tăng cường hiệu quả sản xuất, năng lực cạnh tranh, cải cách, hoàn thiện hệ
thống pháp lý cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, các nước củng cố quan hệ an ninh chính
trị với các đối tác, đặc biệt là các nước lớn. Mặt khác, việc tham gia nhiều FTA sẽ tạo nên quá nhiều
cam kết và quy định đan xen, gây khó khăn cho việc hoạch định chính sách thương mại quốc gia và
tuân thủ, thực thi các cam kết, quy định của FTA.

2. Hoàn thiện Chương trình cắt giảm thuế ưu đãi có hiệu lực chung CEPT
Mục tiêu thực hiệp định thương mại tự do FTA trong ASEAN tăng cường năng lực sản xuất và khả
năng cạnh tranh của ASEAN, thúc đẩy hiệu quả kinh tế trong một thị trường và cơ sở sản xuất đơn
nhất. Trên cơ sở đó, nội dung cơ bản của AFTA là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) với ba vấn đề chủ yếu, không tách rời là cắt giảm thuế, loại bỏ các hàng rào phi thuế và hài
hòa các thủ tục hải quan.

Trong CEPT, các mặt hàng cũng được phân loại để đưa vào các lộ trình cắt giảm thuế khác nhau, tùy
thuộc vào mức độ nhạy cảm của mặt hàng đó đối với nền kinh tế từng nước thành viên. Ngay từ khi
mới thực hiện CEPT, hầu hết các mặt hàng thuộc diện trao đổi thương mại trong ASEAN đều được
đưa vào danh mục thông thường (IL) để cắt giảm thuế về 0-5% theo lộ trình nhanh nhất. Một phần
nhỏ các mặt hàng nhạy cảm được các nước đưa vào danh mục nhạy cảm (SL), nhạy cảm cao (HSL) và
danh mục loại trừ (GE) với lộ trình cắt giảm chậm hơn. Đến nay, hơn 99% số dòng thuế của các nước


ASEAN-6 đã được đưa về 0% và các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam (hay còn gọi là
CLMV) cũng đã có gần 99% dòng thuế được cắt giảm xuống 0-5%, đưa các nước ASEAN gần hơn
bao giờ hết tới mục tiêu thiết lập một thị trường và cơ sở sản xuất đơn nhất.

Việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép, v.v.),

các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, v.v. Các hạn chế về số lượng có thể được
xác định một cách dễ dàng, do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương
trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, việc xác định và loại bỏ
các rào cản phi thuế quan khác phức tạp hơn rất nhiều và quy định phải được xoá bỏ dần dần trong
vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. Ngoài ra, CEPT cũng quy định việc các nước tiến
tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất
lượng của nhau.

Trên cơ sở Hiệp định CEPT, các nước thành viên đã đưa ra và cam kết thực hiện việc xóa bỏ các rào
cản phi thuế theo 3 gói lịch trình là giai đoạn 2008-2010 đối với các nước ASEAN-6, giai đoạn 20102012 đối với Philippines và giai đoạn 2013-2015, linh hoạt tới 2018 đối với CLVN. Hiện nay, việc
xóa bỏ này vẫn đang được các nước ASEAN thực hiện theo kế hoạch đề ra. Dự kiến trong thời gian
tới, ASEAN sẽ xây dựng một cơ chế phù hợp để rà soát và tổng hợp các rào cản được loại bỏ.

Đảm bảo thông thoáng, minh bạch các thủ tục hải quan, tạo thuận lợi cho thương mại cũng là một nội
dung cần thực hiện khi thiết lập khu vực thương mại tự do ASEAN. Để tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành buôn bán trong nội bộ khu vực và để các cơ
quan Hải quan các nước dễ dàng xác định mức thuế cho các mặt hàng, ASEAN đã thống nhất một
biểu thuế quan chung (AHTN) trên cơ sở Hệ thống hài hoà (HS) của Cơ quan hải quan thế giới
(WCO). Biểu AHTN này được sửa đổi 5 năm một lần nhằm rà soát, cập nhật chính xác các mặt hàng
đang được trao đổi, buôn bán trong khu vực. Mẫu tờ khai hải quan chung của khu vực đối với các


hàng hóa thuộc diện được hưởng thuế suất CEPT cũng đã được thống nhất; các thủ tục hải quan được
đơn giản và minh bạch hóa để việc trao đổi thương mại diễn ra nhanh chóng, thuận tiện.

3. Tiếp tục thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa ATIGA
Theo hiệp định Thương mại hàng hóa ATIGA, nguyên tắc trên hết là các nước ASEAN phải dành cho
nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các
Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận.


Các nước ASEAN đã tiến đến mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với các nước
ASEAN-6 (5 nước sáng lập và Brunei), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng
thuế của các nước CLMV đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Tới hết năm 2018, tỉ lệ xóa bỏ thuế
quan trong toàn ASEAN đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các nước ASEAN cũng đang triển
khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp như dự án thí điểm
cơ chế tự chứng nhận xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa v.v... Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau
(MRA) về tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-điện tử, cao su, thực phẩm chế biến sẵn, dược phẩm và
thiết bị y tế v.v. Ngoài ra,các nước ASEAN đã thực thi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) về điện
và điện tử, về kiểm tra thông lệ sản xuất thuốc tốt; đã ký MRA về nghiên cứu tương đương sinh học,
về hệ thống giám định và chứng nhận an toàn thực phẩm đối với thực phẩm đã qua chế biến nhằm tạo
nên một khu vực sản xuất thống nhất trong ASEAN.

II.

2.

Cơ hội và thách thức của Việt Nam

Lợi thế khi tham gia các FTA thế hệ mới tại ASEAN


a. Về kinh tế

Các tác động tích cực của việc tham gia FTA trong ASEAN đến nền kinh tế Việt Nam đã được nhiều
nghiên cứu thực hiện và chỉ rõ. Trong đó, có thể đề cập tới một số tác động cơ bản sau:

● Thứ nhất, tham gia các FTA thế hệ mới tại ASEAN giúp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, gia

tăng xuất siêu cũng như thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu.


Một trong những yêu cầu cơ bản của các FTA là cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các dòng thuế về
mức 0% và nhiều biện pháp phi thuế quan cũng cần phải được xóa bỏ theo lộ trình. Đây chính là cơ
hội tốt để doanh nghiệp Việt Nam thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu vào những thị trường mà Việt Nam
đã ký kết các FTA thế hệ mới tại ASEAN, từ đó góp phần gia tăng xuất siêu cũng như thay đổi cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu.

Theo báo cáo mới đây của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản (Vasep), trong 2 năm trở lại đây,
xuất khẩu cá tra, basa sang thị trường ASEAN có nhiều tăng trưởng tích cực.
Năm 2018, xuất khẩu cá tra sang ASEAN đạt 202,6 triệu USD, tăng 41,5%. Trong đó, 3 thị trường
xuất khẩu đơn lẻ lớn nhất gồm Thái Lan tăng 48,8%; Singapore tăng 20,7% và Philippines tăng
32,1%. Năm 2018, ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của các doanh nghiệp cá tra Việt Nam
sau Mỹ, Trung Quốc và EU. Ba tháng đầu năm 2019, xuất khẩu cá tra sang ASEAN đạt 55,17 triệu
USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Riêng giá trị xuất khẩu sang Thái Lan tăng 6,5%;
Philippines tăng 40,6% và Malaysia tăng 70,9%.

Trong thời gian này, xuất khẩu cá tra sang Malaysia tăng một cách đáng chú ý, riêng trong tháng
3/2019, giá trị xuất khẩu cá tra sang Malaysia đạt 5,51 triệu USD, tăng 119% so với cùng kỳ năm
trước. Đây là thị trường đáng lưu tâm đầu năm nay tại khu vực ASEAN.


Vasep nhận định, ASEAN là thị trường nhiều tiềm năng của cá tra Việt Nam trong nhiều năm qua.
Nếu hai năm trước, doanh nghiệp xuất khẩu cá tra tìm thấy nhiều cơ hội xuất khẩu ở một thị trường
đơn lẻ Thái Lan, thì trong năm 2018 và 2019, các nhà xuất khẩu bắt đầu đẩy mạnh sang Phillipines,
Singapore và Malaysia. Mức tăng trưởng dương này phản ánh những Hiệp định thương mại trong khu
vực, trong đó có Hiệp định ATIGA bắt đầu phát huy kết quả.

Năm 2009, Hiệp định ATIGA đã được ký tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 14 tại Thái Lan và bắt đầu có
hiệu lực kể từ ngày 17/5/2010. Sau đó, 4 nước CLMV (Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam) đã xóa
bỏ khoảng 90% số dòng thuế vào 2015 và 97% vào 2018.


Việc đưa 1.706 số dòng thuế cắt giảm xuống 0% vào 2015 sẽ tác động đến việc gia tăng kim ngạch
nhập khẩu và xu hướng dịch chuyển nhập khẩu tăng từ các nước ASEAN so với các đối tác khác,
trong khi kim ngạch xuất khẩu không có nhiều cơ hội gia tăng đột biến dưới tác động của tự do hóa
thuế quan do các nước ASEAN 6 đã cắt giảm hoàn toàn thuế quan dành cho Việt Nam xuống 0% từ
năm 2010.
Hiện nay, thuế đối với sản phẩm cá tra phile đông lạnh đang ở mức 0% theo ASEAN (ATIGA);
ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA).

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2019, ngành hàng cá tra phấn đấu đạt sản lượng
1,51 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 2,4 tỷ USD.

Theo Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2018 của Bộ Công Thương, xuất khẩu năm 2018 của
Việt Nam đạt 243,48 tỷ USD, tăng 13,2% so với năm 2017 và vượt chỉ tiêu của Quốc hội đề ra. Nhập
khẩu của Việt Nam đạt 236,69 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2017. Điều này giúp Việt Nam xuất siêu
trong vòng ba năm liên tiếp, trong đó năm 2018 ghi nhận mức xuất siêu (6,8 tỷ USD) cao hơn rất
nhiều so với năm 2017 (2,11 tỷ USD) và năm 2016 (1,78 tỷ USD) (xem Hình 1).


Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, năm 2018 ghi nhận sự chuyển biến của cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu theo đúng định hướng đề ra tại Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020,
định hướng đến 2030 của Việt Nam. Kết quả năm 2018 cho thấy, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam là nhóm hàng công nghiệp (82,8%). Lĩnh vực này cũng đóng góp 21 mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu từ một tỷ USD trở lên. Đồng thời, nhờ FTA thế hệ mới tại ASEAN, các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã thâm nhập được vào các thị trường lớn với mức tăng
trưởng tốt như: Hàng dệt may vào thị trường Nhật Bản tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2017, vào thị
trường Hàn Quốc tăng 24,9% so với cùng kỳ năm 2017…

Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim ngạch
thương mại của Việt Nam. Đây chính là cơ hội tốt để Việt Nam tăng sức cạnh tranh về giá. Nếu so
sánh với WTO (các nước chỉ cam kết cắt giảm thuế chứ không phải loại bỏ thuế và chỉ với một số

dòng thuế chứ không phải là hầu hết các dòng thuế), các FTA đã và đang mang lại những lợi thế hơn
hẳn về thuế quan ưu đãi.

● Thứ hai, tham gia các FTA thế hệ mới tại ASEAN giúp Việt Nam thu hút được nguồn vốn

FDI từ các quốc gia thành viên.


Với việc một số FTA thế hệ mới tại ASEAN dành riêng một chương điều chỉnh về đầu tư, trong đó có
các cam kết mạnh của Việt Nam về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, cũng như về cơ chế giải quyết
tranh chấp đầu tư, Việt Nam có thể trở thành điểm đến của luồng vốn đầu tư nước ngoài từ những
quốc gia thành viên của các FTA thế hệ mới tại ASEAN.

Số liệu thống kế về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 3 tháng đầu năm 2019 cho thấy, vốn
FDI đăng ký vào Việt Nam đến từ nhiều quốc gia đối tác trong các FTA này, như: Hồng Kông (4,407
tỷ USD), Singapore (1,461 tỷ USD), Hàn Quốc (1,317 tỷ USD), Trung Quốc (1 tỷ USD)… Những
dòng vốn đăng ký này đã giúp cho tổng lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trong 3 tháng đầu năm
2019, tăng 86,2% so với cùng kỳ năm 2018. Việc thực hiện tốt các cam kết trong các FTA thế hệ mới
tại ASEAN, nhất là cam kết trong Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có
hiệu lực, đã trở thành tác động giúp cho dòng vốn này tăng lên.

● Thứ ba, tham gia các FTA thế hệ mới tại ASEAN giúp đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế

kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, hoàn thiện môi trường kinh doanh.

Nhiều FTA thế hệ mới tại ASEAN Việt Nam tham gia đều hàm chứa các chương, với mức độ cam kết
sâu rộng khác nhau, để điều chỉnh về các vấn đề này. Thực thi tốt quy định trong các FTA thế hệ mới
tại ASEAN sẽ giúp Việt Nam đảm bảo thể chế kinh tế được minh bạch hóa, kịp thời ứng phó với tác
động kinh tế thế giới.


b. Về pháp luật

Lợi ích đối với Việt Nam khi tham gia FTA thế hệ mới tại ASEAN thể hiện rõ nhất ở cơ hội hoàn
thiện pháp luật trong nước theo các cam kết mới. Những nước đang phát triển khi tham gia vào các
FTA thế hệ mới tại ASEAN thường có hệ thống pháp luật chưa tương xứng với yêu cầu của luật chơi
chung. Do đó, thông qua việc tham gia các FTA thế hệ mới tại ASEAN, các nước đang phát triển có
cơ hội hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước theo những yêu cầu và chuẩn mực của luật chơi này.


Việt Nam cũng không ngoại lệ. Các quy định mới trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường,
minh bạch, doanh nghiệp nhà nước, phòng chống tham nhũng… được đưa vào các FTA thế hệ mới tại
ASEAN sẽ khiến Việt Nam phải sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật trong nước, từ đó, giúp hệ thống
pháp luật Việt Nam đảm bảo sự tương thích và phù hợp với các quy định trong các hiệp định FTA.

2.

Các thách thức và vấn đề đặt ra khi tham gia FTA thế hệ mới tại ASEAN

(Doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào ASEAN hiện thấp nhất so với các nước khác trong khu vực. Trong 100% hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam, chỉ có 9,8% vào thị trường ASEAN. Nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN cũng thấp nhất (13,7%) so
với các khối khác (so với các hiệp định thương mại tự do khá. Khi thị trường chung mở ra nhiều cơ hội kinh doanh, hợp tác,
liên kết, đầu tư và tạo năng lực cạnh tranh, đồng thời cũng tạo thách thức cho doanh nghiệp, các hiệp hội và cơ quan quản
lý nhà nước làm sao cho doanh nghiệp Việt ngày càng lớn mạnh hơn. Một thách thức khác là doanh nghiệp hiểu biết về AEC
và khả năng tận dụng ưu đãi thuế quan còn hạn chế, thực tế là nhiều đơn vị đang rất thiếu thông tin.)

a. Về kinh tế

● Thứ nhất, thách thức từ khả năng cạnh tranh hạn chế của các doanh nghiệp trong nước.

Báo cáo đối thoại chính sách năm 2016 với tiêu đề “Các cảnh báo tiềm năng cho Việt Nam khi gia

nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)” của Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ, không chỉ khi thực hiện các cam kết trong TPP mà trong một số các FTA thế hệ mới tại
ASEAN khác, Việt Nam sẽ gặp phải thách thức lớn về năng lực cạnh tranh. Báo cáo đã chỉ ra một số
yếu tố về thể chế, trong đó có “chế độ sở hữu, nhất là quyền tài sản gắn liền với đất, pháp luật hợp
đồng và thực thi hợp đồng kém hiệu quả” đã làm cho nhiều doanh nghiệp tư nhân không thể cạnh
tranh được với các doanh nghiệp FDI.

Báo cáo cũng chỉ ra khả năng thâm nhập và phòng vệ của doanh nghiệp trong nước so với doanh
nghiệp FDI cũng có nhiều hạn chế, vì nhiều nguyên nhân khác nhau như: (i) Các doanh nghiệp trong


nước chậm chuyển biến trong chiến lược về cắt giảm chi phí, đảm bảo tiến độ giao hàng hay thực hiện
tốt cam kết quốc tế; (ii) Doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn về tham gia vào chuỗi cung ứng toàn
cầu cũng như vào phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, do thiếu khả năng đáp ứng yêu cầu của
chuỗi, nhất là về chất lượng sản phẩm.

● Thứ hai, thách thức từ sự hấp thụ của nền kinh tế trước luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt

Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới tại ASEAN.

Theo dự báo, sau khi các FTA thế hệ mới tại ASEAN có hiệu lực, Việt Nam có khả năng thu hút được
nguồn vốn FDI lớn. Tuy nhiên, bài học từ việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài sau khi Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho thấy, khả năng hấp thụ của nền kinh tế trước luồng
vốn đầu tư nước ngoài “ồ ạt” có thể đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trong việc duy trì ổn
định kinh tế vĩ mô.

Cụ thể, trước luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài tăng mạnh, việc Ngân hàng Nhà nước
phải cung ứng một lượng tiền đồng lớn để mua ngoại tệ, cũng như đảm bảo ổn định kinh tế khi phá
giá nhẹ, để hỗ trợ xuất khẩu đã trở thành một trong những nguyên nhân chính khiến tỷ lệ lạm phát của
Việt Nam sau năm 2006 tăng cao. Do đó, đây là điều mà Việt Nam cần đặc biệt lưu ý, trong năm

2019, cũng đã có những dấu hiệu cho thấy, luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng đột
biến.

Có thể lập luận rằng, Việt Nam đã có kinh nghiệm đối phó với vấn đề này, tuy nhiên, với những diễn
biến mới của nền kinh tế thế giới, đặc biệt tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, luồng vốn
nước ngoài đổ vào Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng, nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, kịch
bản thời kỳ hậu WTO sẽ có thể lặp lại.

● Thứ ba, thách thức đối với thu ngân sách nhà nước.


Từ năm 2011 trở lại đây, sau khi Việt Nam thực hiện những cam kết cắt giảm sâu hơn về thuế quan
trong WTO và một số FTA, thu ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam có dấu hiệu sụt
giảm về tỷ trọng. Trong giai đoạn 2010 - 2013, đóng góp từ nguồn thu này vào ngân sách nhà nước là
trên 20%, đến năm 2014 - 2015, giảm xuống xấp xỉ 19%, năm 2016 là 16%, dự toán năm 2018 là
13,5% và 2019 là 13,4%. Sự sụt giảm về số thu ngân sách này chủ yếu bắt nguồn từ việc thu từ thuế
nhập khẩu bị giảm mạnh.

Đặc biệt, theo Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), kể từ ngày 01/01/2018, gần 100%
dòng thuế nhập khẩu của Việt Nam đều bị cắt giảm về 0%. Hay đối với CPTPP, ngay trong năm 2019,
Việt Nam phải cắt giảm về 0% đối với 65,8% dòng thuế nhập khẩu. Đây là thách thức khá lớn đối với
Việt Nam khi phải đảm bảo cân đối thu ngân sách nhà nước qua các năm.

● Thứ tư, thách thức đối với ngành Dịch vụ tài chính.

Trong WTO hay các FTA thế hệ mới tại ASEAN, những cam kết về dịch vụ tài chính bao trùm lên 3
lĩnh vực lớn là bảo hiểm, ngân hàng và chứng khoán. Khi thực hiện các cam kết sâu rộng về dịch vụ
tài chính, lĩnh vực tài chính - ngân hàng của Việt Nam đối diện với nhiều thách thức. Nghiên cứu của
Nguyễn Thuy Linh, Vũ Ngọc Diệp và Lê Mai Trang cho thấy, ngành Ngân hàng của Việt Nam, khi
thực thi các cam kết trong CPTPP gặp phải các thách thức sau: (i) Năng lực và quy mô của ngành

Ngân hàng Việt Nam còn thấp so với các quốc gia tham gia CPTPP (đứng thứ 6 về quy mô nhưng tỷ
lệ an toàn vốn thấp nhất); (ii) Cạnh tranh ngày càng lớn do có sự tham gia của các ngân hàng và quỹ
đầu tư nước ngoài; (iii) Nguy cơ bị chi phối và mua lại nếu hoạt động kinh doanh không hiệu quả.

Nghiên cứu của Trung tâm WTO thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về tác
động của EVFTA đối với dịch vụ tài chính - ngân hàng cũng đã chỉ ra những thách thức đối với lĩnh
vực tài chính - ngân hàng, bao gồm: (i) Áp lực cạnh tranh từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính nước
ngoài trên thị trường Việt Nam; (ii) Nhu cầu đối với dịch vụ tín dụng ngày càng cao, không dừng lại ở
giá mà còn yêu cầu mức độ phong phú về chủng loại và chất lượng dịch vụ; (iii) Các yêu cầu về ứng


dụng công nghệ thông tin, bảo mật thông tin, quản trị và bảo vệ an toàn dữ liệu thông tin trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính ngày càng cao.

● Thứ năm, sự hiểu biết và nhận thức của doanh nghiệp về các FTA thế hệ nói chung còn hạn

chế.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra thách thức đối với Việt Nam khi thực thi các FTA thế hệ mới tại ASEAN,
xuất phát từ sự hiểu biết và nhận thức của doanh nghiệp về FTA còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu của
VCCI năm 2016 cho thấy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn chưa biết hoặc chưa hiểu rõ về các FTA
thế hệ mới tại ASEAN. Cụ thể, đối với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc, có 33%
doanh nghiệp chưa biết và tới 51% chưa hiểu rõ về nội dung của Hiệp định. Tỷ lệ này với TPP (hiện
nay là CPTPP) tương ứng là 12% và 40%; với EVFTA là 17% và 56%...

Nghiên cứu của Hà Công Anh Bảo và các cộng sự thực hiện năm 2018 chỉ ra, chỉ có 9% số doanh
nghiệp được điều tra biết rõ về các FTA thế hệ mới tại ASEAN, 42% hiểu biết ở mức độ trung bình và
49% hiểu biết ở mức độ ít hoặc không hiểu biết gì về các FTA này. Các doanh nghiệp thường là các
chủ thể chịu tác động và thực hiện chủ yếu các quy định trong các FTA thế hệ mới tại ASEAN, tuy
nhiên, với mức độ hiểu biết còn hạn chế đối với các quy định trong các hiệp định.


Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam
sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng
trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong nước.

b. Về pháp luật:

Qua nghiên cứu có thể kể đến một số thách thức về mặt pháp luật cụ thể sau:


● Thứ nhất, sự tương thích của hệ thống pháp luật trong nước với những quy định trong các

FTA thế hệ mới tại ASEAN.

Do FTA thế hệ mới tại ASEAN chứa đựng các quy định WTO-X và WTO+ chưa được quy định trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam, nên Việt Nam sẽ gặp phải thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo
sự tương thích của hệ thống pháp luật trong nước với các quy định mới. Ví dụ, Nghị quyết số
72/2018/QH14 đã chỉ ra, hệ thống pháp luật Việt Nam không tương thích với rất nhiều quy định trong
CPTPP. Trong lĩnh vực lao động, có thể kể đến các quy định về công đoàn, tổ chức đại diện của người
lao động, về đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể, tranh chấp lao động hay đình công; trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ là các quy định liên quan đến điều kiện đăng ký hợp đồng để có hiệu lực đối
với bên thứ ba…

● Thứ hai, quá trình nội luật hóa các FTA thế hệ mới tại ASEAN gặp nhiều khó khăn.

Phân tích cho thấy, do hệ thống pháp luật của Việt Nam còn nhiều quy định chưa tương thích với các
FTA thế hệ mới tại ASEAN, nên trên cơ sở Điều 6 Khoản 2 của Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Việt
Nam có thể lựa chọn, hoặc áp dụng trực tiếp các quy định đó, hoặc chuyển hóa các quy định đó vào
trong nội luật. Do các quy định trong các FTA thế hệ mới tại ASEAN mà Việt Nam là thành viên được
phép áp dụng trực tiếp không nhiều, nên phần lớn các quy định đó phải được nội luật hóa bằng cách

sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật trong nước.

Ví dụ: Theo Nghị quyết số 72/2018/QH14, Việt Nam cần nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung một số văn
bản luật như: Bộ luật Lao động năm 2012; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; Bộ luật Hình sự năm 2015;
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000; Luật An toàn thực phẩm
năm 2010... Đây là thách thức cho Việt Nam khi phần lớn việc sửa đổi, bổ sung các quy định này đều
phải được thực hiện khi CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam.


Thực tế, các quy định trong FTA thế hệ mới tại ASEAN đã được chuyển hóa vào các văn bản luật
trong nước, tuy nhiên, quá trình chuyển hóa lại đặt ra nhiều vấn đề đối với Việt Nam như: ( i) Chưa
thống nhất hình thức văn bản để nội luật hóa các cam kết trong các FTA thế hệ mới tại ASEAN; (ii)
Xác định phạm vi áp dụng của các văn bản để nội luật hóa các cam kết trong FTA; (iii) Các cam kết
được chuyển hóa rải rác ở nhiều thời điểm khác nhau; (iv) Sau khi nội luật hóa, các quy định của pháp
luật trong nước chưa tương thích với các cam kết trong FTA thế hệ mới tại ASEAN.

● Thứ ba, sự tuân thủ các quy định mới được đưa vào các FTA thế hệ mới tại ASEAN và nguy

cơ bị khởi kiện.

Các FTA thế hệ mới tại ASEAN đều hàm chứa những cơ chế, đảm bảo sự thực thi các hiệp định này,
trong đó có cơ chế giải quyết tranh chấp. Nhiều quy định của pháp luật trong nước chưa tương thích,
cả trước và sau nội luật hóa, đều có thể dẫn đến việc Việt Nam không thực hiện tốt các cam kết của
mình. Do đó, Việt Nam có thể dễ bị khởi kiện theo đúng các cơ chế giải quyết tranh chấp đã được xây
dựng. Đây là vấn đề Việt Nam cần quan tâm đối với lĩnh vực đầu tư.


III. Kết luận:

Như vậy, xét trên góc độ lý thuyết, tham gia FTA thế hệ mới tại ASEAN, Việt Nam có thể đẩy mạnh

xuất khẩu sang các nước trong khu vực nhưng để các thế mạnh trở thành thực tiễn đòi hỏi phải có sự
vào cuộc quyết liệt của cả Nhà nước, Doanh nghiệp và cộng đồng. Với khát vọng vươn lên mạnh mẽ
để phát triển nhanh và bền vững, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đang thể hiện sự sẵn
sàng chấp nhận cạnh tranh, nỗ lực vượt qua thách thức, chủ động tham gia các FTA thế hệ mới.

Đối với Nhà nước, hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện tốt các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến quy định trong các FTA thế hệ mới cho doanh nghiệp và các chủ thể có liên quan
khác là những biện pháp Việt Nam cần tập trung thực hiện. Có thể các biện pháp này không thể thực
hiện ngay, nhưng Việt Nam cần xây dựng lộ trình hợp lý, trên cơ sở các lộ trình thực hiện cam kết
trong các FTA thế hệ mới tại ASEAN.

Đối với doanh nghiệp, chủ động tìm hiểu và hiểu rõ nội dung các quy định trở thành một trong những
yêu cầu cấp thiết. Ngoài ra, việc tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo sự tin tưởng và uy
tín trong hoạt động kinh doanh, chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng… cũng là những yếu tố quan
trọng giúp doanh nghiệp có thể thu được các lợi ích từ việc tham gia vào các FTA thế hệ mới tại
ASEAN.


IV. Tài liệu tham khảo:
● Bộ Công Thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2018, Hà Nội, 2018, tr. 11;
● Hà Công Anh Bảo và các cộng sự, “Thách thức khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới của Việt nam từ kết quả điều tra doanh nghiệp”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới của Việt Nam: Từ chiến lược tham gia đến thách thức khi thực thi”,
TP. Hồ Chí Minh, 2019, tr. 289-304;

● Nguyễn Ngọc Hà, “Một số thách thức khi thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của
Việt Nam từ việc chuyển hóa điều ước vào pháp luật trong nước”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt
Nam, 2019, số 03(124), tr. 16-28;


● Nguyễn Thuy Linh, Vũ Ngọc Diệp và Lê Mai Trang, “Ngành ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh
thực thi Hiệp định CPTPP”, Kỷ yếu Diễn đàn Hội nhập Kinh tế Quốc tế Việt Nam 2018 “Hội
nhập kinh tế quốc tế trong tình hình mới – Chủ động, Đổi mới, Thiết thực và Hiệu quả”, Hà Nội,
2018, tr. 172-173;

● Trần Thị Thùy Dương & Lê Thị Thúy Hương, “Điều chỉnh quan hệ giữa lao động và thương mại
quốc tế trong khuôn khổ EVFTA – Cơ hội và thách thức nhìn từ quan điểm của Việt Nam”, Kỷ yếu
hội thảo khoa học “Các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của Việt Nam: Từ chiến lược
tham gia đến thách thức khi thực thi”, TP. Hồ Chí Minh, 2019, tr. 249-260.

● Bộ Công thương Việt Nam, Thành tựu của ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong Trụ cột

Cộng đồng kinh tế của ASEAN, 2018
/>fbclid=IwAR0I3qi82RQsEoV2a22nBWe8lTa6sqsi9VKsICzUoF5ZkZ0EhfpzsVjZvM8
● Bộ Ngoại giao Việt Nam, Xu thế và đặc điểm các thoả thuận thương mại tự do (FTAs) khu vực và

song phương và tiến trình tham gia FTA của Việt Nam, 2009


/>9?fbclid=IwAR0pHvCY4WSCZjSb-nwNfGAYJgsXNi7HjvBKk48TEyRY22HZmlE_TMZzOAo
● TS. Đỗ Thanh Hải, 2018, “Triển vọng của ASEAN 2025”, 2018

/>fbclid=IwAR34qqBxxwMTCLDMAmwSe72zX6EyaNvMR4gMedgqENuQvI8qqrR7kDyDxZw



×