Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 36 tháng a, tại trường mầm non thị trấn 2, thị trấn ngọc lặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Có thể nói, hiện nay nhu cầu về dinh dưỡng và sức khoẻ trẻ em là vấn đề
đang được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Và chúng ta cũng đều thấy rõ tầm quan
trọng trong việc ăn uống, nó là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu được trong đời
sống hàng ngày và ăn uống là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển, sự tồn
tại trong tương lai sau này của đứa trẻ. Vậy cần phải ăn uống như thế nào để đảm
bảo dinh dưỡng cân đối hài hoà giữa chất và lượng. Giúp trẻ phát triển toàn diện,
giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng. Ngoài việc ăn uống đủ chất, đủ lượng cần phải
chú ý đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP). Bởi việc đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm cũng là vấn đề được toàn xã hội hết sức quan tâm, nhất
là trong các trường Mầm non. Vì trẻ nhỏ, cơ thể trẻ còn non yếu nếu để xẩy ra
ngộ độc thức ăn, không những ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn ảnh hưởng đến
tinh thần và trí tuệ sau này của trẻ. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng bữa ăn hàng
ngày của trẻ luôn luôn được quan tâm và chú trọng trong các trường Mầm non.
Hiện nay trong các hoạt động thì giáo dục thể chất và dinh dưỡng cho trẻ cũng
là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất, vì sức khoẻ là vốn quý giá nhất và có
ý nghĩa sống còn với con người, đặc biệt đối với trẻ Mầm non. Ở lứa tuổi này cơ
thể của trẻ còn non nớt chưa chủ động và ý thức trong việc ăn uống, chưa có ý
thức đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nếu dinh dưỡng không
đảm bảo yêu cầu giữa chất và lượng thì đứa trẻ phát triển rất dễ bị lệch lạc mất
cân đối, do vậy trẻ chỉ có thể phát triển tốt nếu như được chúng ta quan tâm
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục một cách hợp lý, khoa học.
Chính vì vậy, việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ Mầm non đóng vai trò then
chốt luôn đặt ra cho chúng ta là phải có đội ngũ làm công tác chăm sóc nuôi
dưỡng và giáo dục, có đủ điều kiện về sức khỏe và kiến thức để thực hiện mục
tiêu cơ bản và là lực lượng nòng cốt quyết định việc chăm sóc chất lượng bữa ăn
cho trẻ trong trường Mầm non. Cùng với nhiệm vụ phòng chống suy dinh dưỡng
cho trẻ em, hiện nay là vấn đề cấp bách để nâng cao chất lượng làm sao trẻ ăn
ngon, đủ lượng, đủ chất và hết suất. Đây là mối quan tâm của toàn xã hội đối với
các trường Mầm non.


Thực tế cho thấy, tại các trường Mầm non trên địa bàn huyện Ngọc Lặc nói
chung và trường Mầm non Thị trấn 2 nơi tôi đang công tác nói riêng, thì việc nâng
cao chất lượng bữa ăn cho trẻ rất được chú trọng. Song hiện nay thực tế ở các địa
phương còn tồn tại vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, việc kiểm chứng, kiểm định
các loại thực phẩm chưa được chặt chẽ. Một số giáo viên còn chưa có kinh nghiệm
cũng như kiến thức về dinh dưỡng và VSATTP cho trẻ. Mặt khác trẻ ở độ tuổi này
hoàn toàn còn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người lớn. Bên cạch đó nhiều bậc
phụ huynh mải mê với việc phát triển kinh tế gia đình mà không có thời gian quan
tâm chăm sóc bữa ăn cho con, việc quan niệm về dinh dưỡng và VSATTP cho trẻ
rất đơn giản. Mặt khác, trong xu thế nền kinh tế thị trường hiện nay của một số cá
nhân chỉ chú trọng về số lượng, chưa chú trọng về chất lượng, có nhiều loại thức ăn
nhanh chế biến sẵn không đảm bảo dinh dưỡng và an toàn
1


vệ sinh thực phẩm cho trẻ lại rất được các bậc phụ huynh ưa chuộng mua về cho
con ăn như: Xúc xích, Gà rán sẵn... Họ cho con cái ăn uống không đúng giờ
giấc, trẻ ăn vặt nhiều như bim bim, bánh kẹo…nên khi vào bữa ăn trẻ ăn ít,
không có hứng thú với việc ăn, thậm chí là bỏ bữa dẫn đến khẩu phần, chất
lượng bữa ăn đưa vào cơ thể trẻ rất ít. Bên cạnh đó những bậc phụ huynh hiểu
biết kiến thức về dinh dưỡng và VSATTP hạn chế, cứ nghĩ là trẻ ăn được càng
nhiều thì càng tốt...Từ những quan điểm lệch lạc đó mà ngày nay, tỉ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng và trẻ béo phì ngày càng tăng cao.
Đây chính là điều mà bản thân tôi cần quan tâm, nghiên cứu tìm hiểu nhằm
nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ tại lớp tôi. Vì vậy tôi chọn nghiên cứu“Một
số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A, tại
trường Mầm non Thị trấn 2, Thị trấn Ngọc Lặc, Huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nắm vững yêu cầu, nội dung chăm sóc nuôi dưỡng, kiến thức về VSATTP
trong việc nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ lứa tuổi 25 - 36 tháng A.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng chất lượng chăm sóc
bữa ăn tại lớp nhà trẻ 25 - 36 tháng tuổi A tại trường Mầm non Thị Trấn 2, Thị
Trấn Ngọc Lặc; Để bữa ăn hiệu quả, chất lượng được tăng lên tôi tìm ra một số
biện pháp để tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36
tháng A, tại trường Mầm non Thị trấn 2, Thị trấn Ngọc Lặc, Huyện Ngọc Lặc,
Thanh Hóa” năm học 2018 - 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu, sử dụng Internet để chủ động khai thác tài nguyên giáo dục
dinh dưỡng phong phú, nghiên cứu các sản phẩm, thực phẩm liên quan để phục
vụ bữa ăn cho trẻ... nhằm thu thập các cơ sở lý luận, phân tích tổng hợp tìm hiểu
đặc điểm tâm sinh lý, sở thích, nhu cầu cần dinh dưỡng của trẻ để tăng cường
chất lượng chăm sóc tổ chức bữa ăn cho trẻ.
- Phương pháp điều tra thực tiễn và thu thập thông tin:
Điều tra, khảo sát tình hình thực tiễn ở trẻ, các yếu tố về chủ quan, khách
quan tác động trên trẻ, những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân, từ đó sẽ lựa chọn các biện pháp phù hợp nâng cao chất lượng tổ chức bữa
ăn cho trẻ.
- Phân tích, thống kê, thực nghiệm và sử lý số liệu
Đánh giá kết quả, phân tích kết quả, sử lý số liệu phù hợp và so sách kết
quả trước và sau khi áp dụng biện pháp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
Các biện pháp tích cực trong sáng kiến, phù hợp với nhận thức và tâm sinh
lý lứa tuổi 25 - 36 tháng A. Sẽ được áp dụng vào thực tiễn hiệu quả.

2



2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cở sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Chúng ta biết rằng! Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung
và xây dựng chiến lược con người nói riêng. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
đến sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Sự quan tâm đó đã từng
bước được thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật, các chỉ thị, các quy định và
các quy ước rất cụ thể: Luật GD - 2005 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã khẳng định “Giáo dục mầm non (GDMN) có nhà trẻ và mẫu giáo là cấp
học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi” [1].
Quyết định của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt chiếc lược Quốc gia về
dinh dưỡng đã nhấn mạnh “Đến năm 2020, bữa ăn của người dân được cải thiện
về số lượng, cân đối hơn về chất lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh; Suy dinh
dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi được giảm mạnh, góp phần nâng cao tầm vóc
và thể lực của người Việt Nam, kiểm soát có hiệu quả tình trạng thừa cân, béo
phì góp phần hạn chế các bệnh mãn tính không liên quan đến dinh dưỡng” [2].
Điều đó cho thấy, trẻ khỏe mạnh và thông minh là niềm hạnh phúc của gia
đình là sự phồn vinh của đất nước. Muốn trẻ khoẻ mạnh và thông minh thì vấn
đề dinh dưỡng phải hợp lý, chăm sóc nuôi dưỡng phải khoa học, đây là một việc
làm không thể thiếu được và là trách nhiệm của mỗi gia đình, cộng đồng và toàn
xã hội. Trẻ em được nuôi dưỡng chăm sóc tốt thì cơ thể mới khỏe mạnh và có
sức đề kháng tốt, không mắc các bệnh, hoặc mắc bệnh thì nhẹ và điều trị chóng
khỏi. Ta có thể khẳng định thêm, một người được gọi là khỏe mạnh toàn diện thì
phải khỏe cả về vật chất lẫn tinh thần. Vật chất là gì? Là một cơ thể được ăn
uống đầy đủ hợp vệ sinh có một cơ thể cường tráng nhanh nhẹn, còn khỏe về
tinh thần là ăn, chơi, học hành, lao động, ngủ nghỉ và cống hiến sức lao động của
mình cho xã hội ở mọi ngành nghề.
Đặc biệt ở tuổi mầm non đó là tuổi ăn, tuổi lớn, cho nên chúng ta phải tạo
đà cho trẻ phát triển một cách tự nhiên theo khoa học và hợp lý. Nếu trẻ được ăn
uống đầy đủ chất hợp vệ sinh thì da dẻ hồng hào, thịt chắc nịch và cân nặng đảm

bảo. Ăn uống điều độ khoa học thì sự tiêu hóa thức ăn của trẻ là điều tốt nhất.
Bởi vì trẻ mầm non còn non yếu nên dễ mắc một số bệnh khi trẻ không được
cung cấp chất dinh dưỡng đầy đủ như: Suy dinh dưỡng, còi xương, thiếu máu do
thiếu sắt, tiêu chảy, khô mắt do thiếu vitamin A…
Trong thực tế tại nhóm 25 - 36 tháng A mà tôi phụ trách thì việc tổ chức
chăm sóc bữa ăn cho trẻ, hoàn toàn phụ thuộc vào cô giáo, một số trẻ chưa biết
nhiều loại thức ăn, một số thì lười ăn, chưa có nề nếp, thói quen trong khi ăn, có
trẻ từ môi trường gia đình ăn uống theo kiểu tự do chưa đúng giờ, hay ăn những
quà vặt do phụ huynh mua, một số món ăn trẻ này thích thì trẻ kia lại không
thích, rồi có những hôm trẻ ăn hết xuất, có hôm lại không ăn hết xuất…Song
song về đặc điểm tâm sinh lý thường gặp trong bữa ăn hàng ngày của trẻ thì giáo
viên cũng là khâu then chốt để chất lượng bữa ăn của trẻ đạt yêu cầu. Đấy chính
là một số giáo viên chưa có kinh nghiệm trong khâu tổ chức bữa ăn, chưa chịu
khó, động viên, khuyến khích và kiên trì để chăm sóc trẻ ăn, chưa nắm được đặc
3


điểm tâm sinh lý của trẻ, chưa có các biện pháp sáng tạo trong việc động viên,
khuyến khích trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất….Để nâng cao chất lượng bữa ăn
hàng ngày của trẻ đảm bảo trẻ ăn hết xuất, cô giáo phải tìm hiểu nguyên nhân về
cá nhân từng trẻ? Biện pháp nào để kích thích trẻ ăn ngon miệng? Công tác tham
mưu, tuyên truyền như thế nào? để trong bữa ăn của gia đình, nhà trường khi chế
biến các món ăn sao cho màu sắc, mùi vị hấp dẫn, các món ăn phải bắt mắt lại
ngon miệng thì sẽ lôi cuốn kích thích trẻ vào bữa ăn. Mùi thơm hấp dẫn đặc
trưng làm cho trẻ tiết dịch vị cao giúp trẻ thèm ăn, ăn ngon miệng thì sẽ dễ tiêu
hóa hơn, trẻ ăn ngon, đúng giờ giấc, trẻ ăn hết suất. Đặc biệt là vấn đề vệ sinh an
toàn thực phẩm luôn được đăt lên hàng đầu và rất cấp thiết. Nếu thực phẩm
không an toàn thì dẫn đến ngộ độc thực phẩm liên quan đến tính mạng của con
người…Đây chính là biện pháp cốt lõi mà bản thân đặt ra câu hỏi làm sao và làm
như thế nào? để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ. Quan tâm để hình thành

một thói quen ăn uống đẹp, không để những ảnh hưởng đến ham muốn xấu trong
ăn uống, mà còn giúp trẻ hấp thụ dinh dưỡng tốt. Chính vì điều này khi trẻ đến
lớp, giáo viên, bản thân nhất thiết phải chú ý, bồi dưỡng, rèn luyện thói quen ăn
uống tốt cho trẻ từ nhỏ. Đây là một biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bữa ăn
và giúp đứa trẻ phát triển toàn diện hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Ngay từ đầu năm học, bản thân đã được Ban giám hiệu nhà trường phân
công chủ nhiệm nhóm nhà trẻ lứa tuổi 25 - 36 tháng. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ chăm sóc giáo dục tại nhóm lớp bản thân tôi đã gặp những thuận lợi và
khó khăn sau:
2.2.1. Thuận lợi.
Trường Mầm non Thị trấn 2 thành lập năm 2014, tuy mới thành lập được
gần 5 năm, song qua quá trình phấn đấu trường đã được công nhận trường Mầm
non đạt chuẩn Quốc Gia mức độ 1 vào tháng 6/2018; Nhà trường luôn được các
cấp, các ngành quan tâm tạo điều kiện thuận lợi đầu tư trang bị cơ sở vật chất,
phòng học, các thiết bị phục vụ cho việc học tập tương đối đầy đủ đặc biệt cơ sơ
vật chất phục vụ cho công tác bán trú.
Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, có kinh nghiệm và tinh thần trách
nhiệm cao, thường xuyên chỉ đạo sát sao việc tổ chức chăm sóc nuôi dưỡng và
thực hiện quy chế chuyên môn, thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng khẩu
phần ăn, thực đơn hàng ngày cho trẻ cũng như là nguồn thực phẩm đảm bảo
VSATTP cho trẻ theo quy định.
Tập thể giáo viên, nhân viên nhà trường đoàn kết nhất trí, yêu nghề mến
trẻ. Hàng năm bản thân được bồi dưỡng kiến thức về VSATTP do phòng giáo
dục phối hợp với trung tâm Y tế dự phòng mở lớp. Qua các buổi sinh hoạt
chuyên môn nên bản thân tôi đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong công tác
chăm sóc, nuôi dưỡng.
Bếp ăn được đầu tư trang bị đầy đủ cơ sở vật chất như bếp ga, tủ cơm ga…
và được xây dựng theo quy mô một chiều phù hợp chuẩn theo yêu cầu và đảm
bảo các khâu về VSATTP.

4


Đội ngũ cô nấu ăn khoẻ mạnh, có trình độ sơ cấp nấu ăn trở lên, có kinh
nghiệm chế biến thực phẩm phù hợp với khẩu vị cho trẻ.
BGH nhà trường đã tạo điều kiện cho 100% CBGV, cô nấu ăn khám sức
khỏe định kỳ và được tập huấn kiến thức về VSATTP do tỉnh tổ chức mở tại
huyện hàng năm.
100% trẻ được ăn bán trú tại trường.
Nhà trường hợp đồng thực phẩm với các chủ hàng cung cấp thực phẩm đảm
bảo chất lượng có uy tín. Các chủ hàng đều có giấy phép kinh doanh, giấy chứng
nhận sức khoẻ, có kiểm định chất lượng về VSATTP, có xuất xứ nguồn gốc rõ
ràng theo quy định.
Bản thân có trình độ ĐHSP mầm non, yêu nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm
chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Phần đông phụ huynh xung quanh khu vực Thị trấn, có điều kiện kinh tế,
nên có phần lớn cũng đã có sự quan tâm đến trẻ về chất lượng bữa ăn.
2.2.2. Khó khăn:
Cơ sở vật chất của nhà trường đã được đầu tư, song vẫn còn thiếu và cần
bổ sung trang thiết bị phục vụ công tác bán trú hàng năm.
Trong thời điểm hiện nay do tình hình giáo viên dôi dư của bậc trung học
cơ sở nên trường vẫn còn 4 giáo viên của THCS đang công tác tại trường. Do
giáo viên Mầm non thiếu, theo phân bổ của huyện nhà trẻ chỉ có một giáo
viên/lớp, nhà trường đã bố trí luân phiên 2 cô/lớp/25 trẻ, nên có phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng chăm sóc chất lượng bữa ăn cho trẻ.
Là lứa tuổi nhà trẻ, tỷ lệ chuyên cần chưa cao do trẻ rất hay ốm, hay nghỉ
chưa có ý thức kỹ luật và nề nếp trong các hoạt động.
Một số trẻ do ảnh hưởng cách dạy dỗ từ gia đình cho rằng con còn bé chưa
nhận thức được tính kỷ luật nên chăm sóc trẻ còn tự do, trong giờ ăn trẻ chưa
có nề nếp, còn có nhiều thói quen xấu như: Bốc thức ăn, gõ bát, tự ý cầm thìa

muôi… hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn…
Nhận thức của một số phụ huynh trong việc quan tâm đến chất lượng bữa
ăn và VSATTP còn chưa cao, chưa phối hợp tốt với giáo viên để chăm sóc bữa
ăn cho trẻ.
Công tác tuyên truyền về kiến thức dinh dưỡng và VSATTP của một số
phụ huynh còn đơn giản và hạn chế.
Do ảnh hưởng của kinh tế thị trường các loại thực phẩm đủ điều kiện đảm
bảo VSATTP và không đảm bảo yêu cầu về VSATTP hiện nay còn tràn lan khó
để phân biệt. Bên cạnh đó việc kiểm nghiệm thực phẩm nhỏ lẻ ở các điạ
phương quản lý chưa chặt chẽ. Lượng thực phẩm mua về chế biến của một số
bậc phụ huynh tại gia đình chưa thực sự quan tâm…
Đây là những hạn chế, khó khăn mà bản thân đã tìm hiểu trong quá trình tổ
chức chăm sóc bữa ăn cho trẻ. Sau đây là một số nội dung qua tìm hiểu kết quả
thực trạng trước khi nghiên cứu cụ thể như sau:

5


2.2.3. Kết quả, thực trạng trước khi nghiên cứu “Một số biện pháp
nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A, tại trường Mầm
non Thị trấn 2, Ngọc Lặc”.
Kết quả cho thấy:

Tổng
TT

Nội dung khảo sát
1 Tình hình sức khỏe, cân nặng, chiều

1


cao của trẻ
2 Nề nếp, thói quen, vệ sinh của
trẻ
2 trước và sau khi ăn.
3 Chất lượng bữa ăn, trẻ ăn ngon miệng,
3 thích nghi với nhiều loại thức ăn…
\ Số trẻ lười ăn và ăn không hết xuất

số
trẻ
25

Kết quả khảo sát
Đạt
Chưa đạt
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số trẻ
(%)
trẻ
(%)
20
80
5
20

25


18

72

7

28

25

20

80

5

20

25

18

72

7

28

25


17

68

8

32

4
5 Những hành vi văn minh và thói quen

5

tốt khi ăn.

Từ kết quả khảo sát như trên tôi nhận thấy, tỉ lệ cháu đạt chưa cao, nguyên
nhân do trẻ lứa tuổi này đang còn non nớt, đặc điểm tâm sinh lý chưa phát triển
đồng đều, điều kiện quan tâm chăm sóc bữa ăn cho trẻ ở một số gia đình chưa
chú trọng. Tình hình về sức khỏe, về cân nặng và chiều cao của trẻ còn nhiều bất
cập, số trẻ chưa đạt vẫn chiếm tỷ lệ cao. Trẻ chưa có nề nếp, thói quen vệ sinh
trước và sau khi ăn. Chất lượng bữa ăn của trẻ mặc dù đã được quan tâm nhiều
song số trẻ ăn không ngon miệng, chưa hết xuất và khả năng thích nghi với
nhiều loại thức ăn khác nhau vẫn còn nhiều, điều đó cho thấy tỷ lệ trẻ lười ăn,
biếng ăn còn khá cao. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều trẻ chưa có hành vi văn minh
và thói quen tốt trong khi ăn như biết mời chào, biết ăn gọn gàng sạch sẽ...
Chính vì vậy, để đảm bảo tốt chất lượng tổ chức bữa ăn hàng ngày cho trẻ, bản thân
tôi là một giáo viên tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm biện pháp làm thế nào? Điều
kiện chăm sóc ra sao ? để trẻ có bữa ăn đảm bảo đầy đủ chất, ăn ngon miệng, ăn hết
xuất, trẻ có sức khỏe tốt, từ đó giúp trẻ phát một cách triển toàn diện.
2.3. “Một số biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 36 tháng A, tại trường Mầm non Thị trấn 2, Thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc

Lặc, Thanh Hóa”
2.3.1. Biện pháp 1: Luôn tự học tập, bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng
thực hành về dinh dưỡng và tổ chức bữa ăn cho trẻ khoa học, hợp lý.
Có thể nói rằng, đây là một biện pháp vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm tổ
chức tốt bữa ăn cho trẻ. Bản thân tôi cũng chưa có nhiều kiến thức cũng như kinh
nghiệm về dinh dưỡng cho trẻ nên tôi đã chủ động nghiên cứu các văn bản, chỉ thị
nghị quyết của các cấp trên về VSATTP, dinh dưỡng, học hỏi thông qua các lớp tập
huấn do phòng tổ chức, học hỏi kinh nghiệm ở bạn bè đồng nghiệp, các hội thi nấu
ăn giỏi, nghiên cứu qua sách, báo, qua mạng, ti vi, qua các chương trình hướng
dẫn,...về kinh nghiệm chăm sóc, kiến thức dinh dưỡng về
6


VSATTP...Từ đó vận dụng vào tình hình thực tế của lớp để đưa ra những biện
pháp tốt nhất, tham mưa với Ban giám hiệu, với nhà bếp chế biến được những
món ăn phù hợp, hấp dẫn kích thích bữa ăn ngon miệng của trẻ và phải đảm bảo
đủ lượng, đủ chất dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ.
Các văn bản, chỉ thị nghị quyết của các cấp về VSATTP, dinh dưỡng trẻ em
qua việc tiếp thu các chuyên đề cho trẻ, cụ thể như:
Công văn số 9252/BGD&ĐT ngày 3/8/2008 về đảm bảo an toàn thực phẩm
trong các cơ sở giáo dục;
Quyết định số 226/QĐ-TTg ngày 22/02/2012 của Thủ tướng chính phủ
Quyết định phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011- 2020
và tầm nhìn đến năm 2030;
Module Mầm non 6: Chăm sóc trẻ mầm non học viên củng cố được những
kiến thức đã được đào tạo về chăm sóc trẻ em (dinh dưỡng, chăm sóc vệ sinh,
sức khỏe, phòng tránh các tai nạn thường gặp) và giúp học viên thực hành tốt
các công tác chăm sóc trẻ. [3]
Bài giảng Giáo dục dinh dưỡng sức khỏe cung cấp cho người học những
kiến thức về: “Các bước xây dựng và triển khai nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe, cách tổ chức các hoạt động giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe cho trẻ

mầm non, tổ chức các hoạt động giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe cho trẻ mẫu
giáo, tổ chức các hoạt động giáo dục dinh dưỡng - sức khỏe cho trẻ nhà trẻ”.
Sách “Chế biến món ăn cho trẻ nhỏ” của tác giả Ngô Thị Lợi - nhà xuất bản
phụ nữ; Sách “Hướng dẫn nuôi dưỡng trẻ” của tác giả Nguyễn Thị Lâm, Lê Thị
Hải - Nhà xuất bản Y học;
Bên cạnh việc tham khảo các văn bản chỉ thị, các loại sách báo…tôi còn tìm
hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội về các loại
thực phẩm, dinh dưỡng và cách chăm sóc bữa ăn cho trẻ khoa học, hợp lý nhằm
nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ. Chính vì vậy mà bản thân tôi cũng học hỏi và
lĩnh hội được nhiều kiến thức bổ ích và thấy được vai trò, tầm quan trọng của dinh
dưỡng, chất lượng dinh dưỡng và đặc biệt là sự quan tâm chăm sóc bữa ăn đối với
sự phát triển cơ thể trẻ, mà trẻ lứa trẻ nhà trẻ 25 - 36 tháng cần phải chú trọng để
tạo đà cho sự phát triển thể lực cho trẻ trong tương lai sau này của trẻ.
2.3.2. Biện pháp 2: Rèn luyện và hình thành các kỹ năng, thói quen, nếp
trong giờ ăn khoa học, hợp lý cho trẻ 25 - 36 tháng A, tại trường Mầm non Thị
trấn 2.
Như chúng ta đã biết, những thói quen vệ sinh, hành vi văn minh trong giờ
ăn ở trẻ không phải tự nhiên mà có, lại càng khó hình thành được các kỹ năng ở
lứa tuổi 25 - 36 tháng. Chính vì vậy, vai trò của giáo viên trong giai đoạn này
cần hết sức chú trọng và đặc biệt quan tâm. Trước hết cần phải rèn và hình thành
các kỹ năng, thói quen trong giờ ăn cho trẻ một cách khoa học và hợp lý. Đây
cũng chính là biện pháp cần thiết đối với trẻ lứa tuổi này, để giúp cho trẻ sẽ dần
dần hình thành phản xạ có điều kiện, hình thành các thói quen, tâm lý khi đến
giờ ăn, từ các khâu vệ sinh, vị trí ngồi, cho đến mời chào, nhận biết các món ăn,
biết được mùi vị, mầu sắc trong các món ăn...Cụ thể:
7


* Hình thành thói quen vệ sinh cá nhân trước khi ăn.
Trẻ ở giai đoạn này hay bắt chước những hành động, việc làm của người lớn,

nên rất có lợi thế để hình thành các kỹ năng cho trẻ, cô giáo phải là người luôn luôn
tạo cơ hội, gần gủi, kiên trì, chịu khó hướng dẫn, nhắc nhở và thực hành thường
xuyên, để hình thành thói quen và phản xạ về thói quen vệ sinh tự nhiên. Hướng tới
cái sạch, đẹp, thẫm mỹ... Tạo cho trẻ có thói quen vệ sinh trước khi ăn không chỉ
đảm bảo vệ sinh thân thể cho trẻ mà còn phòng tránh được các dịch bệnh thường
gặp dễ xâm nhập vào cơ thể, đồng thời rèn cho trẻ ý thức tự giác, dần dần hướng tới
tính tự lập ở trẻ, biết tự rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Đó là một thói
quen không thể thiếu trong sinh hoạt ăn uống hàng ngày của trẻ.
Ví dụ: Rèn tính đoàn kết, tính kỷ luật, trật tự, nề nếp như: Xếp hàng rửa
tay, không xô đẩy nhau, có kiên trì, nhường nhịn....Bé nào đứng thì rửa trước
theo một quy trình mà cô đã hướng dẫn.

Ảnh: Trẻ rửa tay trước khi ăn
Trước bữa ăn, tôi đã cho trẻ ngừng mọi hoạt động vui chơi và hình thành
chỗ ngồi cho trẻ ngay từ ngày đầu trẻ mới đến trường, tránh việc đùa nghịch,
chạy nhảy ảnh hướng đến sự an toàn cho trẻ trong giờ ăn.
Khi trẻ đã ổn định tôi cho từng bàn xếp hàng để đi vệ sinh. Khác với các lớp
mẫu giáo, trẻ nhà trẻ chưa thể tự rửa tay một mình được nên cần có sự hướng
dẫn, giúp đỡ của giáo viên trong lớp. Trẻ sẽ được cô giáo lau mặt mũi và rửa tay
theo đúng quy trình rửa tay cho trẻ mà các cô đã được đào tạo. Cô vừa lau vừa
hướng dẫn, giải thích, động viên để dần hình thành các kỹ năng cho bé ngay từ
8


tuổi nhà trẻ, Sau khi trẻ đi vệ sinh xong, tôi cho trẻ hình thành chỗ ngồi tập cho
bé nề nếp sau này.
Khi vệ sinh cho trẻ cũng phải quan tâm đến thời tiết nóng hay lạnh, để điều
chỉnh kịp thời đảm bảo sức khỏe cho trẻ theo mùa. Mùa hè thời tiết ấm áp, tôi
dùng khăn mát và nước mát lau mặt, rửa tay cho trẻ. Nhưng khi mùa đông đến,
thời tiết lạnh giá, tôi chuẩn bị khăn ấm, nước ấm rửa cho trẻ.

Tôi thấy rằng, vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn sẽ giúp trẻ thấy thoải mái, phấn
khởi, trẻ tự tin hơn khi ăn cơm cùng các bạn.
* Tạo không khí trước và trong bữa ăn vui vẻ, nhẹ nhàng giúp bé ăn ngon
miệng.
Trong thực tế, trẻ nhà trẻ mới bắt đầu đến trường, đây là giai đoạn vô cùng
khó khăn đối với trẻ khi bước vào môi trường học tập sinh hoạt xa bố mẹ, xa
người thân, trẻ còn quấy khóc, bỏ ăn là điều dễ hiểu. Chính vì vậy, nhiệm vụ
của cô giáo là cần phải tạo cho trẻ cảm giác hứng thú, vui vẻ, ấm cúng trước khi
ăn là vô cùng cần thiết.
Ví dụ: Trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe những câu truyện vui, đọc
thơ, hát có nội dung chủ đề, mang tính giáo dục cao về bữa ăn hoặc món ăn để
kích thích hưng phấn thèm ăn ở trẻ như: Chuyện: ”Búp bê thèm ăn”; Bài hát
”Mời bạn ăn”; Bài thơ ”Giờ ăn”... Giới thiệu món ăn tạo sự thật hấp dẫn và cảm
giác thèm ăn cho trẻ.

Hình ảnh: Cô trò chuyện với trẻ trước khi ăn
Để chất lượng bữa ăn hiệu quả, trẻ ăn ngon miệng, ăn hết xuất và hứng thú
trong khi ăn, tạo không khí thoải mái, kích thích trẻ ăn ngon cần được chú
trọng. Chính vì vậy, trong bữa ăn tôi giới thiệu các món ăn và các chất dinh
dưỡng trong các món ăn, được các cô chế biến công phu, kỹ lưỡng. Đây chính
là tất cả tình cảm, tâm huyết mà các cô dành cho các con trong các món ăn này.
Vì thế, các con phải ăn thật nhiều, ăn hết xuất, không kén chọn thức ăn mà phải
ăn hết thức ăn do các cô chế biến, trong lúc trẻ ăn tôi luôn dùng lời lẽ nhẹ
nhàng động viên, khen ngợi, khích lệ trẻ hào hứng thi đua ăn.
9


Ví dụ: Trẻ không thích ăn thức ăn, chỉ thích ăn cơm không; Có trẻ thích ăn
rau mà không ăn cơm...Rồi có trẻ chỉ thích ăn tôm rim, ngày hôm sau ăn thịt bò
lại không thích...

Trẻ em thường thích được khen và thích sự gần gũi của cô, đây chính là đặc
điểm tâm lý của trẻ, nên tôi luôn dành và quan tâm đến trẻ. Trẻ ở lứa tuối này thì
việc trẻ tự xúc cơm ăn thì ít, đa số trẻ đều phụ thuộc vào sự chăm sóc của cô. Tôi
vừa cho trẻ ăn vừa dạy trẻ tự xúc. Đây là nhiệm vụ thường xuyên đã giúp việc tổ
chức bữa ăn có chất lượng ở lớp tôi đạt hiệu quả cao.
Ngoài việc chú trọng chất lượng bữa ăn hàng ngày tôi luôn dạy trẻ các kỹ
năng sống, trong đó kỹ năng trong ăn uống:
Ví dụ như: Trong bữa ăn tôi thường uốn nắn những hành vi văn minh trong
ăn uống, biết mời chào, không làm rơi vải cơm, xúc ăn gọn gàng, không nói
chuyện trong khi ăn, không dùng tay để bốc thức ăn, không xúc cơm vào bát
bạn, ăn xong phải biết lau tay, rửa tay...
Còn đối với cô giáo, để đảm bảo an toàn trong bữa ăn và VSATTP là việc
làm thường xuyên, giúp trẻ được học tập ở cô những hành vi tốt trong ăn uống,
trước khi ăn tôi đã sử dụng khẩu trang, găng tay một lần, khăn ăn, giấy lau và
đầu tóc, ăn mặc gọn gàng sạch sẽ...kết hợp với việc giáo dục cho trẻ về công
việc hàng ngày của cô để dần dần hình thành ở trẻ cảm nhận về hình ảnh của cô
với cái đẹp, cái sạch, gọn gàng, ngăn nắp và những hành vi minh trong tâm hồn
của trẻ trong giờ ăn.
Mặt khác, trẻ lứa tuổi này còn quá nhỏ, hay bắt chước những hành động của
người lớn, ý thức của trẻ trong bữa ăn còn theo tính tự do, trẻ hoạt động theo ý
thích của mình mà không quan tâm đến ai.
Ví dụ: Trẻ thường hay dùng thìa nghịch bạn, tự cầm bát đi lấy cơm, chanh
dành đồ của bạn, quấy khóc dẫn đến bị ho...cho nên khi trẻ ăn rất dễ sảy ra tai
nạn trong ăn uống như: Bị hóc, sặc thức ăn, ngẹn...
Đây là vấn đề thực tế rất dễ sãy ra trong bữa ăn vì vậy tôi thường xuyên hết
sức quan tâm bao quát nhắc nhỡ trẻ ăn. Khi ăn không để trẻ cầm những vật dụng
không cần thiết khi ăn, tránh tai nạn đáng tiếc xảy ra. Đối với những trẻ hay quấy
khóc tôi an ủi vỗ về trẻ, hay trẻ bị ho tôi cho trẻ ăn thìa nhỏ, ăn ít một để trẻ không
bị hóc, sặc thức ăn...Những trẻ ăn chậm hơn các bạn tôi không thúc giục, để trẻ ăn
từ từ nhai kỹ, và luôn khích lệ kịp thời để trẻ ăn kịp bạn khác.

Có thể nói, việc rèn luyện và hình thành các kỹ năng, thói quen trong giờ
ăn là việc làm cần thiết mà tôi nhận thấy rằng trẻ ở lớp tôi sau một thời gian rất
ngắn rèn luyện, hướng dẫn đã có 85% trẻ có kỹ rất tốt đây là con số đạt theo
yêu cầu. Còn 15% trẻ đạt ở mức độ khá và tôi đang dần dần chú trọng uốn nắn
giúp cho trẻ, giúp cho phụ huynh yên tâm tin tưởng khi giao con cho cô giáo.
Thể hiện qua hình ảnh sau:

1
0


Ảnh: Một giờ ăn trưa của trẻ
2. 3.3. Biện pháp 3. Cho trẻ nhận biết các chất dinh dưỡng đối với cơ
thể thông qua việc giáo dục trẻ lồng ghép các hoạt động trong ngày.
Trường Mầm non là nơi trẻ được tập trung học tập, vui chơi và là nơi để
giúp trẻ lĩnh hội các tri thức, trải nghiệm các hoạt động thực tế trong cuộc sống.
Tuy nhiên, trẻ độ tuổi nhà trẻ còn non nớt, trẻ chưa chủ động, chưa ý thức được
đầy đủ về thế giới xung quanh trẻ. Trong bữa ăn hàng ngày trẻ chưa nhận biết
đầy đủ về các chất dinh dưỡng. Chính vì vậy, việc giáo dục trẻ ý nghĩa và tầm
quan trọng về các chất dinh dưỡng đối với cơ thể trẻ là vô cùng quan trọng và
cần thiết trong bữa ăn, kích thích khả năng hưng phấn về món ăn, mỗi khi đến
bữa ăn trẻ sẽ cáo cảm nhận và hình dung, tưởng tượng về những món ăn ngon
mà cô đã cung cấp cho trẻ, giúp trẻ có cảm giác thèm ăn, muốn được ăn. Có
như vậy, mới giúp trẻ ăn ngon miệng, hết xuất và tăng cường sức khỏe tốt, phát
triển đầy đủ cân đối hài hòa về mọi mặt, đặc biệt là phát triển thể lực tốt sau
này cho trẻ.
Và việc giúp trẻ làm quen, nhận biết về các nhóm thực phẩm, các chất dinh
dưỡng một cách tốt nhất, tôi luôn chú trọng cho trẻ làm quen với các nhóm thực
phẩm thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ như:
* Thông qua hoạt động học tập:

Việc cho trẻ nhận biết các nhóm thực phẩm thông qua hoạt động học tập,
tôi đã tổ chức và kết hợp một cách hài hòa vào các giờ học Âm nhạc, văn học,
Nhận biết tập nói, nhận biết phân biệt...
Thông qua các hoạt động học tập trẻ sẽ biết được tên gọi các loại thực
phẩm, các chất dinh dưỡng và tác dụng của các loại thực phẩm mà trẻ được làm
quen.
Ví dụ: Qua giờ nhận biết tập nói “Con gà, con vịt”, “Quả cam, quả
táo”...thì trẻ sẽ dễ dàng nhận biết được các loại thực phẩm cung cấp hàng ngày
và là nguồn thực phẩm nhiều chất đạm, vi ta min... cho cơ thể. Các chất dinh
dưỡng này sẽ giúp cho cơ thể trẻ khỏe mạnh, nhanh lớn, da dẻ đẹp hồng hào...
Hay thông qua hoạt động tạo hình, văn học, âm nhạc...tôi cho trẻ được làm
quen với các loại quả, thông qua các bài thơ, câu chuyện hay bài hát có nội dung
11


giáo dục trẻ về dinh dưỡng, trẻ sẽ biết được các loại thực phẩm mang lại các
chất dinh dưỡng như: Bài hát “Quả”, “Mời bạn ăn”, bài thơ “Ăn quả”, “Giờ
ăn”, “Bắp cải”...Mặt khác thông qua các hoạt động đó còn giúp trẻ nhận biết
các loại thức ăn, thực phẩm sạch có sẵn ở địa phương, giúp trẻ biết được lợi ích
của thức ăn đối với sức khỏe.
* Thông qua các bữa ăn hàng ngày.
Đây chính là thời điểm thích hợp nhất để cô có thể giới thiệu các món ăn
được chế biến từ các loại thực phẩm sạch cùng với việc giáo dục các chất dinh
dưỡng. Trẻ dễ dàng nghi nhớ kiến thức về các loại thực phẩm trong bữa ăn,
đồng thời nâng cao được chất lượng bữa ăn cho trẻ.
Trong các bữa ăn, trước khi ăn tôi thường giới thiệu cho trẻ biết tên các
món ăn và các chất dinh dưỡng có trong món ăn một cách hấp dẫn, các món ăn
đó được chế biến nhờ có bàn tay khéo léo và tình yêu thương của các cô, các
bác nhà bếp dành cho các con. Bên cạnh việc giáo dục các chất dinh dưỡng tôi
còn kết hợp giáo dục trẻ có nền nếp trong ăn uống sạch sẽ, văn mình lịch sự,

biết mời chào, rửa tay trước khi ăn, ăn uống từ tốn, nhai kỹ, không ngậm thức
ăn, không bốc thức ăn bừa bãi mất vệ sinh.
Ngoài ra tôi còn chú ý giáo dục trẻ biết ăn uống đúng cách để có lợi cho
sức khỏe như: Ăn chín, uống sôi, ăn sạch, uống sạch, biết ăn nhiều loại thức ăn
khác nhau sẽ giúp cho cơ thể khỏe mạnh, thông minh, xinh đẹp...
Như vậy, việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ thông qua giờ ăn tôi thấy hiệu
quả rõ rệt, trẻ lớp tôi rất hào hứng mỗi khi đến giờ ăn, trẻ ăn ngon miệng, ăn hết
xuất, đặc biệt khi ăn trẻ không kén chọn thức ăn, rất có nề nếp trong giờ ăn và
thi đua ăn. Đây là điều mà bản thân tôi rất vui mừng phấn khởi, giúp tôi có
nhiều động lực hơn trong việc chăm sóc bữa ăn cho trẻ trẻ.
* Thông qua hoạt động vui chơi và các hoạt động khác trong ngày.
Đây là một hoạt động đóng vai trò quan trọng để giúp trẻ nhận thức tốt về
bữa ăn. Qua giờ vui chơi hay các hoạt động khác trong ngày để giáo dục trẻ biết
được các nhóm thực phẩm và các chất dinh dưỡng cho trẻ cũng mang lại hiệu
quả cao như: Qua giờ chơi tập ở đó trẻ sẽ được chơi nhiều trò chơi mà trẻ thích
và nổi bật là trò chơi với búp bê, tôi cho trẻ chơi bế em, tập chăm sóc em, đút
cho em ăn...Hướng đẫn trẻ biết nói những lời cưng nựng, động viên, dỗ dành
búp bê...Không những hành động chăm sóc mà còn giúp trẻ hình thành tình
cảm, những hành động, cử chỉ đẹp, gần gủi, biết quan tâm đến người
khác...Ngoài ra tôi còn hướng dẫn giúp trẻ biết chơi nấu các món ăn mà trẻ yêu
thích, trẻ biết lựa chọn các loại rau, quả, thực phẩm khác nhau...
Thông qua các trò chơi trẻ biết được việc làm của người lớn khi sử dụng đồ
dùng ăn uống, tự tay được nấu một số món ăn, nước uống...từ đó hình thành ở
trẻ thói quen ăn uống tốt, văn minh lễ phép, biết lao động tự phục vụ, giáo dục ở
trẻ tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoạt động và hình
thành kỹ năng sống cho trẻ.
Hay qua các thời điểm, hoạt động khác trong ngày như: Giờ đón trẻ, trả
trẻ...tôi cũng tích cực lồng ghép giáo dục dinh dưỡng cho trẻ như:
Cho trẻ xem tranh, xem lô tô về các loại thực phẩm, yêu cầu trẻ gọi tên các
1

2


loại thực phẩm đó, hoặc trò chuyện với trẻ về các món ăn hàng ngày ở trong gia
đình mà bố, mẹ hay nấu cho trẻ ăn, có những món ăn gì, ăn như thế nào? Con
thích ăn món ăn nào?...
Có thể khẳng định rằng! Việc dạy trẻ làm quen với các nhóm thực phẩm và
thường xuyên giáo dục dinh dưỡng cho trẻ đã góp một phần quan trọng trong
việc tổ chức tốt bữa ăn hàng ngày đạt hiệu quả cao. Tôi thấy, trẻ đã có sự nhận
biết được rõ nét về các loại thực phẩm khác nhau, nhận biết mầu sắc, mùi vị...
trẻ đã chủ động khi đến giờ ăn.
2.3.4. Biện pháp 4: Tăng cường công tác tham mưu cho Ban giám hiệu
trong việc tổ chức tốt bữa ăn hàng ngày cho trẻ.
Đây là một biện pháp tôi cho rằng không thể thiếu đối với người giáo viên,
đó là tham mưu cho ban giám hiệu khi cần thiết. Để nâng cao được chất lượng
tổ chức bữa ăn hàng ngày cho trẻ đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng giúp trẻ
khỏe mạnh thông minh.
Tôi thường xuyên tham khảo món ăn phù hợp với thực tế hàng ngày, từ đó
tôi tham mưu cho ban giám hiệu xây dựng thực đơn sao cho đảm bảo đủ 4
nhóm thực phẩm cung cấp đầy đủ cả về lượng và chất, biết kết hợp nhiều loại
thực phẩm đa dạng phong phú, thay đổi theo ngày, tuần, phù hợp theo mùa, cần
đối về dinh dưỡng. Nghĩa là phải đủ chất, đủ lượng, cân đối giữa thức ăn động
vật và thực vật, đảm bảo tỷ lệ các chất đầy đủ 4 nhóm thực phẩm.
Ví dụ: Nhóm cung cấp chất đạm như, Thịt, Cá, Tôm, Cua, các loại đỗ hạt,
đậu tương giúp xây dựng cơ bắp tạo kháng thể đặc biệt là sự phát triển của các tế
bào. Hay nhóm cung cấp chất béo (Lipit) như: Dầu, mỡ, lạc, vừng, nhóm vừa
cung cấp năng lượng cao vừa làm tăng cảm giác ngon miệng giúp trẻ hấp thu sử
dụng tốt các Vitamin trong chất béo như Vitamin A, D, B, K…
Nhóm cung cấp Vitamin và khoáng chất như, rau quả đặc biệt các loại rau
có màu xanh thẫm như rau ngót, rau muống, rau dền, rau cải, mồng tơi…và các

loại quả có màu đỏ hoặc vàng như chuối, đu đủ, xoài chín, cam, cà chua, gấc,
nhóm cung cấp các loại vi chất dinh dưỡng đóng vai trò là chất xúc tác giữa các
thành phần hóa học trong cơ thể.
Ngoài ra, để đảm bảo nguồn thực phẩm sạch, tăng thêm nguồn thực phẩm
cho trẻ, tôi đã tham mưu cho Ban giám hiệu trồng thêm rau sạch cung cấp hàng
ngày cho trẻ:
Là giáo viên tôi thường xuyên phối hợp với cô nấu ăn, quan sát các bữa ăn
hàng ngày xem có phù hợp hay không, trẻ có ăn hết xuất hay không… để từ đó
tìm hướng điều chỉnh. Bên cạnh đó tôi thường xuyên góp ý trao đổi đồng
nghiệp, các cô nấu ăn về kinh nghiệm chế biến các món ăn. Để bữa ăn của trẻ
hiệu quả giúp trẻ ăn ngon miệng.
Hiệu quả khi tôi thực hiện biện pháp này rất cao, thực đơn thay đổi phù
hợp, các nguồn thực phẩm đảm bảo an toàn. Đặc biệt các khâu chế biến được
chú trọng hơn, các món ăn trẻ thường ăn hết xuất, ngon miệng. Tôi cảm thấy rất
phẩn khởi sau các bữa ăn của trẻ lớp tôi.

1
3


2.3.5. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh nhằm
nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A, tại gia đình và
nhà trường.
Có thể khẳng định! Biện pháp phối kết hợp với phụ huynh nhằm đảm bảo
việc tổ chức bữa ăn của trẻ đạt chất lượng cao, là tiền đề cho sự nuôi dưỡng và
phát triển thể lực sau này ở trẻ, mà ở mỗi gia đình chúng ta ai cũng đều đặc biệt
quan tâm và chú trọng. Bởi, sức khỏe là yếu tố quyết định cho mọi thành công
trong tương lai sau này của đứa trẻ.
Chính những yếu tố quan trọng về sức khỏe của trẻ mà ngay từ đầu năm
học, khi được phân công chủ nhiệm nhóm trẻ 25 - 36 tháng A, về phía bản thân

tôi cũng đã có kinh nghiệm nhiều năm chủ nhiệm ở lứa tuổi nhà trẻ, tôi nhìn thấy
rất rõ nét về đặc điểm tâm sinh lý trẻ ở lứa tuổi này, đó là: Trẻ thường kém ăn,
sức khỏe hay ốm, ngủ ít…Mặt khác một số phụ huynh chưa quan tâm đến bữa
ăn của trẻ, việc lựa chọn thực phẩm sạch, ngon còn chưa chú trọng, kiến thức
nuôi dạy trẻ và hiểu biết về các chất dinh dưỡng hạn chế…Từ thực tế đó mà bản
thân bắt đầu tập trung xây dựng kế hoạch, vạch ra những định hướng để tuyên
truyền cho phụ huynh, làm thế nào để trẻ mỗi ngày đến trường hoặc ở gia đình
đều đảm bảo về chất lượng dinh dưỡng trong bữa ăn cùng với việc tất cả đều
quan tâm dành nhiều thời gian chăm sóc tốt nhất cho đứa trẻ.
Cụ thể: Tôi chủ động trực tiếp tuyên truyền với phụ huynh thông qua giờ
đón trẻ, trả trẻ. Các buổi họp phụ huynh, thông qua các bảng biểu tuyên truyền,
các hội thi về chăm sóc sức khỏe, về dinh dưỡng, các cuộc họp khác hoặc ở mọi
lúc mọi nơi…Bên cạnh đó, tôi thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu các loại sách,
báo những về nội dung cần thiết, nhưng phải thực tế để có thể áp dụng vào nhà
trường và gia đình đạt chất lượng, hiệu quả tốt nhất. Từ đó hướng dẫn cho phụ
huynh có thêm kinh nghiệm và kiến thức trong việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ.
Đặc biệt là việc phụ huynh có thể quan tâm tổ chức tốt bữa ăn của trẻ tại gia
đình.
Ví dụ: Ở lớp tôi có một số trẻ có đặc điểm khác các bạn trong lớp, nổi bật
điển hình có 2 bé:
* Bé Nguyễn Hải Anh, khi bé mới bắt đầu đến trường tôi thấy bé rất yếu về
sức khỏe, kém ăn, kém ngủ, trong bữa ăn bé không ngồi vào bàn ăn, đòi điện
thoại của cô và hay đòi hỏi theo ý thích riêng của trẻ, những vấn đề khác với
nhiều trẻ khác…
* Còn Bé Ngọc Anh nhìn vào trẻ có thể lực rất tốt, ngủ tốt song chưa có nề
nếp trong bữa ăn, thích đòi cô quà vặt, khi ăn không ăn cơm, ăn rau chỉ đòi ăn
thức ăn, thường xúc thức ăn của bạn, đổ cơm vào bát bạn….
Qua trao đổi với phụ huynh thì các bé ở nhà khi ăn cơm bố mẹ thường chiều
theo ý thích của bé, cho bé nghịch điện thoại để ăn, trong bữa ăn bé không ngồi
một chỗ để ăn…Nắm bắt được đều này tôi đã có biện pháp trao đổi trực tiếp với

phụ huynh về việc phối hợp với cô giáo rèn cho trẻ có thói quen, nề nếp trong ăn
uống, hạn chế cho trẻ xem điện thoại để ăn… và cần chú trọng đến chất lượng
dinh dưỡng trong bữa ăn của trẻ, ngoài ra, tôi thừơng chú trọng trẻ yếu, kém ăn,
ngủ kém để tiện chăm sóc. Ở gia đình tôi nhắc nhở phụ huynh không
1
4


nên mua quà vặt cho trẻ ăn, không rõ nguồn gốc, không đảm bảo VSATTP gây
hại trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe sau này của trẻ: Như xúc xích, gà
rán, các loại đồ ăn nhanh…Không những thế, giờ gấc ngủ, nghỉ của trẻ cần phải
chú trọng khoa học, hợp lý, duy trì cho trẻ nề nếp giữa gia đình và tại nhà
trường.
Tuyên truyền và vận động phụ huynh những ngày nghỉ ở nhà phụ huynh
cũng cho trẻ thực hiện chế độ ăn theo đúng thời gian biểu trên lớp và cho con tự
xúc cơm ăn.
Một cách đơn giản để tuyên truyền tới phụ huynh mang lại hiểu quả cao
nhất đó chính là xây dựng góc tuyên truyền. Góc tuyên truyền này tôi bố trí ở
ngoài lớp, chỗ mà phụ huynh có thể nhìn rõ nhất. Trong góc tuyên truyền, tôi
dán kế hoạch hoạt động một ngày của trẻ, kết quả cân đo và theo dõi sức khỏe
và một số nội dung khác có liên quan ở trên lớp để phụ huynh nắm được và kết
hợp với giáo viên chặt chẽ hơn trong việc giáo dục con ở nhà. Nội dung tuyên
truyền thay đổi theo tháng, theo mùa đặc biệt là rất phong phú về nội dung, gần
gũi với cuộc sống. Qua đó đã giúp phụ huynh hiểu rõ hơn tầm quan trọng của
bữa ăn đối với trẻ về mọi mặt (chất lượng - số lượng) và bổ sung thêm kiến thức
về nuôi dạy con.
Qua đây là hình ảnh truyền truyền ở lớp tôi:

Sau một thời gian duy trì cùng phối hợp với phụ huynh tôi thấy rất hiệu
quả. Và đây chính cũng là sự giáo dục tốt nhất mà giữa gia đình, nhà trường, cô

giáo đã tạo cho trẻ tình yêu thiêng liêng nhất, khi cảm nhận bữa ăn thêm ấm
cúng cùng gia đình và các bạn. Nhận định của tôi rằng: Cùng với việc kết hợp
tốt từ hai phía thì mới có thể đem đến cho đứa trẻ thêm hoàn thiện kể cả về thể
chất, tình cảm, nhận thức, tinh thần và trí tuệ.
1
5


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm về “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A, tại trường Mầm non
Thị trấn 2”.
Trong một thời gian tìm tòi nghiên cứu, học hỏi đưa vào áp dụng một số
biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A. Bằng
những kinh nghiệm trong quá trình công tác mà tôi đã thành công, khi tổ chức
bữa ăn cho trẻ, tôi đạt được hiệu quả như mong muốn. Sức khỏe, cân nặng, chiều
cao của trẻ phát triển rất tốt, trẻ tăng cân đều, đa sổ trẻ đã có nề nếp, thói quen,
vệ sinh trước và sau khi ăn, trẻ biết đến giờ là xếp hàng làm vệ sinh, biết gọi
người lớn khi có nhu cầu đi vệ sinh, khi ăn xong tự sắp xếp bát thìa đúng nơi quy
định…biết nhường nhịn, có tính đoàn kết. Chất lượng bữa ăn đã được chú trọng,
trẻ ăn ngon miệng, thích nghi với nhiều loại thức ăn…Những trẻ lười ăn đã
giảm, hầu như trẻ đều ăn hết xuất. Qua đó tôi còn giáo dục trẻ những hành vi văn
minh trong ăn uống, trẻ đã biết tự chào, mời cô, mời bạn trước khi ăn và một số
thói quen khác trong giờ khi ăn.
Kết quả sau một năm tôi áp dụng các biện pháp trên qua bảng đánh giá
cuối năm, cụ thể như sau:
Trước khi áp dụng các
biện pháp của sáng kiến
Đạt
Chưa đạt


Sau khi áp dụng các
biện pháp của sáng kiến
Đạt
Chưa đạt

g số
trẻ

Số
cháu

Tỷ
lệ
(%)

Số
chá
u

Tỷ
lệ
(%)

Số
chá
u

Tỷ
lệ
(%)


Số
chá
u

Tỷ
lệ
(%)

25

20

80

5

20

24

96

1

4

25

18


72

7

28

23

92

2

8

25

20

80

5

20

24

96

1


4

18

72

7

28

24

96

1

4

17

68

8

32

92

2


8

Tổn
TT

1
2

Nội dung khảo sát

1 Tình hình sức khỏe, cân nặng,
chiều cao của trẻ
2 Nề nếp, thói quen, vệ sinh của
trẻ trước và sau khi ăn.
3 Chất lượng bữa ăn, trẻ ăn

ngon miệng, thích nghi với
nhiều loại thức ăn…
\ Số trẻ lười ăn và ăn không
4 hết xuất
5 Những hành vi văn minh và
5 thói quen tốt khi ăn.
3

25
25

23


Nhìn vào bảng kết quả đánh giá trên cho thấy, chất lượng tổ chức bữa ăn
của trẻ đã được nâng lên rõ rệt, một số trẻ từ việc ảnh hưởng cách dạy dỗ từ gia
đình. Đầu năm khi trẻ mới vào, qua việc hướng dẫn và giáo dục của cô, trẻ đã có
nhận thức tốt và tính kỷ luật cao, trẻ đã đi vào khuôn mẫu nề nếp của cô. Các
thói quen như: Bốc thức ăn, gõ bát, tự ý cầm thìa muôi…hay còn ngậm cơm, kén
chọn thức ăn…không còn. Đến bữa ăn trẻ rất hào hứng thi đua, nhiều trẻ tự xúc
ăn rất gọn gàng và ngon miệng. Điều đó cho thấy chăm sóc tốt, sức khỏe tốt, kỹ
năng tốt trong cuộc sống đều dựa trên yếu tố nuôi dưỡng và giáo dục trẻ ngay từ
bé. Đây chính là tiền đề cho sự phát triển toàn diện trong tương lai của đứa trẻ.

1
6


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Có thể khẳng định rằng! Trong một thời gian nghiên cứu, tìm tòi và vận
dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ, lứa tuổi
25 - 36 tháng A ở lớp tôi là một biện pháp không thể thiếu được trong sự hình
thành phát triển thể lực cho trẻ, giúp trẻ có một cơ thể dẻo dai, nhanh nhẹn, hoạt
bát, tạo được tự tin, mạnh dạn, tính tích cực chủ động, sáng tạo trong các hoạt
động mà chính sau này đứa trẻ có được, đó là cần chăm sóc tốt bữa ăn cho trẻ.
Đây cũng chính là phương tiện góp phần nâng cao nhận thức, trí tuệ, thể lực giúp
trẻ phát triển toàn diện. Trong quá trình vận dụng các biện pháp nêu trên tôi đã
rút ra một số kết luận như sau:
Cơ sở vật chất trang thiết bị là điều kiện thuận lợi để phát huy thế mạnh và
là phương tiện cần thiết phục vụ cho hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ hàng
ngày.
Cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ngay từ lứa tuổi bé bắt đầu trẻ
đến trường.

Nắm vững quy trình tổ chức bữa ăn cho trẻ khoa học, hợp lý phù hợp với
lứa tuổi, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, của lớp.
Xây dựng các bảng tuyên truyền, các hình ảnh, mô hình có nội dung về
giáo dục bữa ăn, về nuôi dưỡng, chăm sóc, thực phẩm sạch...để giáo dục đến trẻ
và tuyên truyền đến các bậc phụ huynh.
Việc tham khảo, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong quá
trình chăm sóc, giáo dục cũng là biện pháp hiệu quả để gặt hái những thành công
của biện pháp.
Tất cả các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong trường Mầm
non đều là hoạt động cần thiết, chính vì vậy, là giáo viên thật sự phải tâm huyết,
kiên trì chịu khó, tìm tòi, nghiên cứu, tổ chức tốt bữa ăn cho trẻ.
Làm tốt công tác tham mưu và tham gia tích cực cùng với Ban giám hiệu
trong việc thực hiện qui chế chuyên môn, có kế hoạch xây dựng các nội dung
trong khâu chăm sóc, giáo dục phù hợp với thực tế ở nhóm lớp.
Làm tốt công tác tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh nhằm
nâng cao vai trò trách nhiệm của gia đình, nhà trường và cô giáo trong việc tổ
chức tốt các hoạt động giáo dục, đặc biệt chú trọng vào bữa ăn cho trẻ, nhằm
tăng cường sức khỏe, thể lực cho trẻ trong tương lai. Đây chính là hiệu quả chất
lượng chăm sóc, giáo dục toàn diện tại nhóm lớp 25 - 36 tháng A tôi phụ trách.
3.2. Kiến nghị.
Để nâng cao được chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A của
lớp tôi đạt hiệu quả cao nhằm đáp ứng được nhiệm vụ năm học đề ra, bản thân
xin có một số ý kiến đề xuất kiến nghị như sau:
Ban giám hiệu tham mưu bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ
chơi phục vụ cho công tác bán trú trong thời gian tới và những năm tiếp theo.
Cần tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề dinh dưỡng và sức khỏe cho
trẻ, hội thi về kinh nghiệm nghiên cứu các đề tài khoa học, sáng kiến kinh
1
7



nghiệm có liên quan đến nội dung đề tài này để bản thân được tiếp thu, học hỏi
kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện.
Tăng cường công tác thi đua, khen thưởng, đây chính là nguồn khuyến
khích động viên tăng thêm nguồn động lực để giáo viên thi đua phấn đấu.
Nhà trường cần bổ sung thêm nguồn tài liệu, sách báo, những sáng kiến
kinh nghiệm hay về cách chăm sóc nuôi dưỡng cho giáo viên tham khảo từ đó tổ
chức bữa ăn cho trẻ đạt hiệu quả hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã áp dụng thành công trong quá trình
công tác, nhằm nâng cao chất lượng tổ chức bữa ăn cho trẻ 25 - 36 tháng A,
trường Mầm non Thị Trấn 2, Thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc, huyện Ngọc
Lặc. Đặc biệt bản thân đã có một phần đóng góp không nhỏ vào quá trình công
tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Ngọc Lặc, ngày 10 tháng 4 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
............................................................ mình viết, không sao chép nội dung của
............................................................
người khác
............................................................
Người viết SKKN
............................................................
............................................................
............................................................
............................................................
Lưỡng Thị Hình

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

1
8



×