Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp phát triển vận động cho trẻ 25 36 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.22 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỊ XÃ BỈM SƠN

TRƯỜNG MẦM NON BA ĐÌNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VẬN ĐỘNG
CHO TRẺ 25 - 36 THÁNG TUỔI

Người thực hiện: Đỗ Thị Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Ba Đình
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

BỈM SƠN NĂM 2018


MỤC LỤC
TT
A
1
2
3
4
B
1
2
3
3.1
3.2
3.3


3.4
3.5
4
C

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận
Thực trạng của vấn đề
Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Rèn nề nếp, thói quen cho trẻ
Biện pháp 2: Xây dựng giờ học trên lớp
Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng, đồ chơi linh hoạt, sáng tạo
Biện pháp 4: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động
Biện pháp 5: Phối kết hợp gia đình
Kết quả thực hiện
KẾT LUẬN
Bài học kinh nghiệm
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
1
2

2
2
2
3
4
4
5
8
11
12
13
13
14
16


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là làm
cho cả nước yếu ớt một phần; mỗi một người dân khỏe mạnh, tức là làm cho cả
nước mạnh khỏe”, “Vậy nên tập luyện thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của
mỗi người dân yêu nước. Việc đó không tốn kém, khó khăn gì, gái trai, già trẻ,
ai cũng nên làm và ai cũng làm được”.
Đối với trẻ mầm non, những chủ nhân tương lai của đất nước thì tập luyện
thể dục, bồi bổ sức khỏe lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Vì đây là thời kỳ
nhạy cảm nhất để phát triển và hoàn thiện thể chất, nhân cách trong cuộc đời của
con người. Một phương pháp hiệu quả nhất, nhằm giáo dục toàn diện cho thế hệ
trẻ, trong hiện tại và cả tương lai của dân tộc. Được thực hiện ngay từ tuổi đi học
cho tới suốt cả quá trình lao động nghề nghiệp. Bởi với xu hướng của xã hội
ngày nay thì không chỉ đơn thuần đòi hỏi một con người tài giỏi, mà là một con

người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần.
Giáo dục thể chất trong trường mầm non có ý nghĩa to lớn trong việc phát
huy và bồi dưỡng nhân tố con người, đóng một vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển toàn diện cho trẻ.Vì khi ấy trẻ đang ở những năm đầu đời của sự phát
triển, những năm tháng định hình tính cách cũng như suy nghĩ sau này của trẻ.
Nên việc tiếp cận nhiều với hoạt động thể chất giúp trẻ rèn luyện được nhiều
đức tính tốt đẹp, đặc biệt là thói quen rèn luyện thể thao. Hơn thế nữa, việc tiếp
xúc nhiều với các hoạt động thể chất sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển về thể lực
của trẻ, là tiền đề để phát triển trí lực. Bởi có sức khoẻ tốt thì trẻ mới có thể học
tập tốt được.
Thông qua rèn luyện thân thể bằng hệ thống các bài tập phát triển vận
động trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Với những đòi hỏi sự
nỗ lực cao của mỗi bài tập vận động khác nhau, có thể hình thành và giáo dục
được những phẩm chất đạo đức nhân cách của con người một cách tự nhiên cho
trẻ như: Ý chí, lòng dũng cảm, lòng quyết tâm, sự tự tin, tính kiên trì và nhẫn
nại, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể ý thức đồng đội… Tham gia luyện
tập, trẻ không chỉ được rèn luyện củng cố kỹ năng vận động, mà còn được thỏa
mãn nhu cầu khám phá thế giới xung quanh, mở rộng vốn từ. Từ đó, giúp trẻ
phát triển một cách toàn diện về các mặt đức, trí, thể, mỹ, ngôn ngữ và lao động.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thức rõ được tầm quan trọng
của việc phát triển thể chất cho trẻ trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách trẻ mầm non. Chính vì vậy mà năm học 2017-2018 tôi đã chọn “Một số
biện pháp phát triển vận động cho trẻ 25-36 tháng tuổi” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp trẻ củng cố và tăng cường sức khỏe, hoàn thiện chức năng
sinh lý của cơ thể, tăng cường khả năng làm việc của các cơ quan trong cơ thể.
Bên cạnh đó, cơ thể trẻ cũng sẽ phản ứng và có sự chống lại tốt hơn với những
ảnh hưởng xấu đến từ môi trường.


1


Nhằm giúp trẻ hình thành thói quen vận động cơ bản như: bò, đi, chạy,
nhảy, ném và leo trèo… Phát triển những tố chất về mặt thể lực như: nhanh
nhẹn, khéo léo, bền bỉ… hình thành thói quen vận động giúp trẻ có ý thức hơn
trong việc vận động để rèn luyện và giữ gìn sức khỏe sau này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các cháu 25-36 tháng tuổi học tại trường Mầm non Ba Đình do tôi trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở của chương trình các môn học giáo dục mầm non nói
chung, đặc biệt là môn thể dục nói riêng. Trong quá trình làm đề tài nghiên cứu
và thực hiện giảng dạy tại lớp, tôi đã đưa ra các phương pháp sau:
- Phương pháp dùng lời
- Phương pháp thực hành luyện tập
- Phương pháp trò chơi
- Phương pháp thi đua
- Phương pháp lồng ghép tích hợp
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là một
trong những động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người. Ngành học mầm non là ngành học vô
cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc định hình phát triển cho trẻ sau này và là nền móng vững chắc
cho các cấp học tiếp theo. Đất nước ta đang hội nhập và phát triển, giáo dục
mầm non cũng đang cố gắng tiếp cận với trình độ của các nước tiên tiến. Vì vậy
đổi mới phương pháp, hình thức dạy trẻ là việc làm cần thiết.
Phát triển thể chất là quá trình thay đổi hình thái và chức năng sinh học

của cơ thể con người, là tổng hợp các đặc tính về hình thái của cơ thể, đặc trưng
cho quá trình trưởng thành của cơ thể ở mỗi giai đoạn phát triển. Tiết học thể
dục là hình thức cơ bản nhất trong các hình thức giáo dục thể chất cho trẻ, nhiệm
vụ chuyên biệt của tiết học thể dục là dạy trẻ những kỹ năng, kỹ xảo vận động
đúng, hình thành và phát triển các tố chất thể lực, củng cố sức khỏe của trẻ, đồng
thời giáo dục trẻ những tình cảm tốt đẹp với thể dục. Toàn bộ nội dung của giáo
dục thể chất cho trẻ như: luyện tập thể dục, trò chơi vận động đều được giáo
viên tiến hành với trẻ trên các tiết học. Còn các hình thức giáo dục thể chất khác
chủ yếu sử dụng các kỹ năng vận động mà trẻ đã học trên tiết học thể dục.
Xuất phát từ đặc điểm sinh lí trẻ nhỏ thường phát triển vận động theo một
“khuôn mẫu” hoặc theo một trình tự nhất định. Ở độ tuổi 25-36 tháng vai trò
điều chỉnh ở lứa tuổi này tốt hơn, các phản xạ có điều kiện được hình thành
nhanh chóng hơn, trẻ luôn có nhu cầu thích được vận động, trẻ không giữ được
mình trong tư thế yên tĩnh. Do đó các hoạt động rèn luyện, phát triển vận động
giúp trẻ có thể điều khiển được mọi hoạt động của bản thân và đóng một vai trò
quan trọng trong sự phát triển toàn diện của trẻ.
2


Ở lứa tuổi nhà trẻ, đang trong thời kỳ phát triển các chức năng tâm sinh lý
chưa rõ rệt, trẻ chưa lĩnh hội được kiến thức một cách riêng biệt mà tiếp nhận
kiến thức theo các hình thức mang tính tích hợp theo các chủ đề xuyên suốt và
tổ chức bài dạy dưới dạng trò chơi, hay theo một kịch bản, thì trẻ sẽ hứng thú
học và tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng không gò bó, trẻ “Học bằng chơi, chơi
mà học”. Chính vì vậy cô giáo mầm non cần phải thay đổi hình thức dạy học để
thu hút trẻ tham gia tập luyện.
2. Thực trạng của vấn đề
Năm học 2017- 2018 tôi được nhà trường phân công dạy lớp 25-36 tháng
tuổi với tổng số là 22 cháu, trong đó 10 cháu nam, 12 cháu nữ. Trong quá trình
thực hiện đề tài, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

a. Thuận lợi
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, ban giám hiệu
nhà trường, tổ chuyên môn đã tạo mọi điều kiện để tôi thực hiện tốt nhiệm vụ
của năm học.
Được tham gia học chuyên đề do ngành tổ chức, học bồi dưỡng thường
xuyên và học hỏi đồng nghiệp để nâng cao kiến thức và năng lực chuyên môn.
Phòng học rộng rãi thoáng mát có đầy đủ đồ dùng, đồ chơi phục vụ hoạt
động học tập và vui chơi của các cháu.
Sự ủng hộ nhiệt tình của hội phụ huynh hỗ trợ kinh phí để mua sắm thêm
các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động học và dạy đạt kết quả cao.
b. Khó khăn
Ở độ tuổi 25-36 tháng tuổi cơ thể của trẻ còn non nớt, trẻ dễ bị ảnh hưởng
bởi những thay đổi do thời tiết nên các cháu đi học chưa thường xuyên, hay bị
ốm, nhất là trong mùa đông.
Các cháu lần đầu ra lớp nên chưa có thói quen nề nếp, còn rụt rè nhút
nhát, từ đó cũng ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và việc
dạy vận động cho trẻ nói riêng.
c. Kết quả thực trạng
Với những thuận lợi và khó khăn trên và qua thời gian theo dõi các cháu
tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh gia đình của từng cháu. Tôi đã bắt
tay vào tiến hành khảo sát mức độ tích cực vận động của từng cháu từ đó có
những biện pháp, hình thức tổ chức giáo dục phù hợp để phát triển thể chất cho
trẻ một cách tốt nhất.
Kết quả cho thấy như sau:
Tổng
Đạt
Chưa
số trẻ

22


Nội dung khảo sát

Tốt

Khá

TB

đạt

ST

TL

ST

TL

SL

TL

Trẻ mạnh dạn, hứng 8
thú tham gia luyện tập
Khả năng vận động 7
của trẻ

36%


9

41%

5

23%

0

32%

10 45%

5

23%

0

3


Từ kết quả khảo sát trên cho thấy số cháu có khả năng và mức độ tích cực
vận động tốt đạt kết quả thấp, tôi thiết nghĩ rằng cần phải suy nghĩ tìm tòi ra
những giải pháp phù hợp để trẻ chủ động, tự giác tham gia vào quá trình tập
luyện; trẻ có mong muốn được rèn luyện cơ thể, được tham gia vào hoạt động
giáo dục thể chất, hứng thú tích cực tập luyện; bộc lộ các kĩ năng, kĩ xảo vận
động thành thạo trong hoạt động rèn luyện thể chất. Bản thân tôi đã đưa ra một
số giải pháp sau:

3. Các biện pháp thực hiện
3.1. Biện pháp 1: Rèn nề nếp, thói quen cho trẻ
Đặc thù của giờ thể dục đó là tính hiệu lệnh, muốn thực hiện các bài tập
cho trẻ một cách khoa học đúng quy trình thì trước hết phải đưa trẻ vào nếp và
cho trẻ làm quen với cách sắp xếp đội hình. Tuy nhiên, việc đưa các cháu vào nề
nếp đầu năm gặp rất nhiều khó khăn, bởi vì các cháu ở lứa tuổi này hầu hết lần
đầu tiên đến lớp, làm quen với cô với bạn mới nên các cháu còn nhút nhát sợ sệt,
bên cạnh đó chú ý có chủ định chưa cao trẻ dễ nhớ nhưng cũng nhanh quên. Vì
thế, tôi đã tiến hành rèn nề nếp cho trẻ bằng nhiều cách khác nhau, nhẹ nhàng,
ân cần để không làm trẻ sợ và tự giác tham gia vận động.
Ví dụ: Giờ thể dục sáng, vì các cháu còn nhỏ, lần đầu tiên đến lớp nên
chưa biết xếp hàng và xếp hàng còn lộn xộn nên trước khi cho trẻ tập, tôi rèn
cho trẻ xếp hàng theo tổ. Để trẻ không có cảm giác bị cô bắt buộc, tôi sử dụng
giấy đề can cắt thành những hình bàn chân và dán xuống nền nhà, cho trẻ đứng
lên những hình dán đó, trẻ rất thích thú với việc được ướm chân của mình lên
bàn chân dưới nền nhà. Dần dần, khi trẻ biết cách xếp hàng thì tôi bỏ hình dán đi
để cho trẻ xếp hàng theo hiệu lệnh, đồng thời khuyến khích trẻ bằng cách cho trẻ
thi đua xếp hàng xem tổ nào xếp hàng nhanh và đẹp nhất sẽ được khen thưởng.

Hình ảnh: Cho trẻ đứng lên bàn chân để xếp hàng
4


Đặc biệt, tôi tổ chức cho trẻ các buổi tập đội hình để trong các giờ học thể
dục trẻ có thể di chuyển đội hình như: vòng tròn, từ vòng tròn chuyển thành
hàng ngang, từ hàng ngang chuyển sang hàng dọc một cách thành thạo. Dạy trẻ
cách di chuyển đội hình linh hoạt, không làm mất thời gian của buổi tập, không
làm hỏng các đồ đùng dụng cụ trong sân tập. Bên cạnh đó tôi rèn luyện cho trẻ
biết chú ý lắng nghe hiệu lệnh, khẩu lệnh của cô khi tập các động tác của bài tập
phát triển chung cũng như vận động cơ bản.

Sau khi tập luyện song tôi yêu cầu trẻ giúp cô thu dọn đồ dùng, dụng cụ
tập luyện; từ đó trẻ có được nề nếp, thói quen tốt không chỉ với hoạt động phát
triển thể chất mà còn ở tất cả các hoạt động khác.
3.2. Biện pháp 2: Xây dựng giờ học trên lớp
Giờ học là hoạt động mà trẻ luôn phải tập trung có chủ đích để tiếp thu
những kiến thức cô giáo muốn truyền đạt, nhất là hoạt động thể dục vốn khô
cứng không mềm mại so với các hoạt động khác. Vì thế, ở mỗi bài học tôi luôn
cố gắng tìm ra những biện pháp tốt nhất để kích thích trẻ, thay đổi cách tổ chức
theo nhiều hình thức khác nhau giúp trẻ không bị nhàm chán, dễ dàng hiểu được
kỹ năng của vận động cơ bản mà tôi cung cấp.
Ví dụ: Khi dạy trẻ Vận động:
BTPTC: Tập với cờ
VĐCB: Bò trong đường hẹp
TCVĐ: Mèo và chim sẻ
(Chủ đề: Bé và các bạn)
Tôi tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, đầu tư vào giờ dạy, tìm cách
sáng tạo cho giờ dạy, tổ chức cho trẻ “Học bằng chơi, chơi mà học” đặc biệt chú
trọng hình thức thi đua, khen thưởng để tạo được sự hứng thú cho trẻ.
Tôi xây dựng giờ học thành hội thi, cho trẻ đóng vai là các vận động viên
tham gia còn tôi đóng vai là người dẫn chương trình, tôi dẫn dắt giờ học như
sau: “Xin chào các quý vị đại biểu cùng toàn thể các vận động viên, hội thi hôm
nay vinh dự được chào đón các vận động viên nhí đến từ lớp 25-36 tháng tuổi
trường mầm non Ba Đình đề nghị chúng ta nhiệt liệt chúc mừng. Hội khỏe bé
mầm non hôm nay gồm có 3 phần:
Phần thi thứ nhất: Màn đồng diễn thể dục
Phần thi thứ 2: Bé thi tài
Phần thi thứ 3: Chung sức
Bây giờ xin mời các vận động viên chúng ta bước vào phần thi thứ
nhất...”.
Cứ như vậy tôi dẫn dắt trẻ vào các bài tập một cách tự nhiên, tạo bầu

không khí vui vẻ, phấn khởi và hào hứng vận động. Nhưng không làm thay đổi
mục đích của bài học là rèn kĩ năng vận động cho trẻ.

5


Hình ảnh: Tổ chức giờ học theo hình thức hội thi
Cũng là phần khởi động cho trẻ, nhưng không phải ở tiết học nào tôi cũng
giập theo khuôn mẫu làm các vận động viên đến hội thi, mà căn cứ vào chủ đề
đang thực hiện, tôi linh hoạt thay đổi các hình thức cho trẻ khởi động khác nhau,
như khởi động bằng bài hát, hoặc khởi động dưới nền nhạc. Nhưng mỗi hình
thức đều phù hợp với chủ đề. Bằng các hình thức khác nhau như vậy sẽ giúp trẻ
hứng thú tham gia khởi động để bước vào các bài tập một cách tốt nhất.
Ví dụ: Dạy trẻ BTPTC: Gà con
VĐCB: Đi theo đường ngoằn ngoèo
TCVĐ: Gà vào vườn rau
(Chủ đề: Những con vật đáng yêu)
Với bài này tôi cho trẻ đóng vai làm gà con, tôi làm gà mẹ, và nói: “Đã
đến giờ đi kiếm ăn rồi, các con cùng theo mẹ ra vườn nào, đường đi đến vườn
rất là xa cho nên các con chú ý đi theo mẹ, theo đàn, theo tiếng của mẹ gọi để
không bị lạc các con nhé”. Sau đó tôi trẻ đi - chạy nhanh - chạy chậm theo tiếng
“Cục tác! Cục tác!...” kết hợp trên nền nhạc.
Đối với phần dạy trẻ tập bài tập phát triển chung, bên cạnh việc căn cứ
vào các chủ đề đang thực hiện để chọn bài tập phù hợp thì việc lựa chọn các
động tác cho trẻ tập cũng được tôi lựa chọn kỹ lưỡng. Bởi lẽ đây là bài tập
không chỉ phát triển các nhóm cơ và hô hấp hay cử động của bàn tay, ngón tay
mà nó còn góp phần hỗ trợ cho việc thực hiện vận động cơ bản. Tôi căn cứ vào
mục đích của bài tập để lựa chọn động tác cho trẻ tập nhiều hơn, nhằm bổ trợ kỹ
năng cho trẻ thực hiện vận động cơ bản hiệu quả hơn.
Ví dụ: Vận động cơ bản là “Trườn dưới vật” thì động tác lưng, bụng của

Bài tập phát triển chung tôi cho trẻ tập 3 lần 4 nhịp, vì đây là động tác bổ trợ kỹ
năng trườn của vận động cơ bản. Các động tác khác chỉ tập 1-2 lần 4 nhịp.
6


Sang đến phần vận động cơ bản, đây là phần trọng tâm nhất của bài vì thế
tôi phải nghiên cứu kỹ động tác để làm mẫu cho trẻ. Khi làm mẫu tôi làm chậm
từng động tác cho trẻ dễ quan sát, vừa làm mẫu tôi vừa kết hợp phân tích kĩ năng
vận động bằng những từ ngữ ngắn gọn, dễ hiểu để trẻ tiếp thu kĩ thuật động tác
được chính xác, nhanh chóng hình thành biểu tượng đúng về bài tập.
Trong một lớp học không phải các cháu cùng một nhận thức và tiếp thu
kiến thức như nhau, có cháu tiếp thu nhanh, có cháu tiếp thu chậm. Cho nên tôi
luôn theo dõi sát sao trẻ trong quá trình tập luyện để sửa chữa động tác sai cho
trẻ kịp thời; đặc biệt chú ý đến trẻ nhút nhát, kỹ năng luyện tập kém, sức khỏe
hạn chế để giúp trẻ hoàn thành bài tập đúng kĩ năng mà bài tập yêu cầu.
Ví dụ: Dạy VĐCB: “Ném xa bằng 2 tay”, cháu Quang Vinh là cháu khỏe
mạnh và nhanh nhẹn của lớp, tôi để cháu tự lên lấy túi cát và ném xa theo hiệu
lệnh của cô, tôi nhắc cháu cách đưa tay ném cho đúng. Nhưng với cháu Bảo
Linh là cháu chậm chạp và nhút nhát, tôi dắt cháu lên tập, tôi cầm tay cháu cùng
cháu ném 1-2 lần để cháu nắm được kĩ năng ném, sau đó tôi cổ vũ động viên
cháu tự ném nhưng không đòi hỏi cháu thực hiện bài tập đúng một cách tuyệt
đối, mà chỉ yêu cầu đúng những phần cơ bản của động tác. Nhờ vậy cháu rất
vui, tự tin vì mình cũng làm được như các bạn và hào hứng tự giác tập luyện.

Hình ảnh: Tập cho trẻ ném xa
Trong quá trình tổ chức cho trẻ luyện tập, không phải bài tập nào tôi cũng
thực hiện theo trình tự: tập mẫu, cho hai trẻ lên tập thử, lần lượt từng cá nhân,
từng tổ. Mà tùy theo nội dung của bài tập và khả năng của trẻ tôi lựa chọn các
hình thức khác nhau cho trẻ thực hiện.
Ví dụ: Bài tập “Tung bóng bằng 2 tay” tôi có thể cho trẻ luyện tập theo

tốp, mỗi tốp từ 3-4 trẻ cùng tập một lúc. Hay bài tập “Nhảy bật tại chỗ” tôi cho
trẻ đứng thành vòng tròn, cô đứng vào giữa vòng tròn và cho tất cả trẻ cùng
nhảy theo cô. Nhưng với bài tập “Bò trong đường hẹp” thì tôi lại không thể dùng
hình thức cho cả lớp tập, vì khi cả lớp tập tôi sẽ không thể cùng một lúc quan sát
được việc thực hiện vận động của tất cả trẻ, cho nên tôi tiến hành tổ chức cho trẻ
7


tập cá nhân, thi đua xem bạn nào bò giỏi nhất, nhờ vậy tôi phát hiện được những
thiếu sót của từng trẻ và có biện pháp giúp đỡ trẻ kịp thời.
Sau khi trẻ thực hiện bài tập vận động cơ bản thì trò chơi vận động giúp
trẻ củng cố rèn luyện cơ thể đồng thời cũng giúp trẻ thư giãn. Nên ở phần này tôi
chú trọng vào việc tổ chức cho trẻ tham gia chơi một cách tự nhiên, mạnh dạn,
chủ động chơi cùng các bạn.
Ví dụ: Tổ chức trò chơi “Mèo và chim sẻ” tôi chọn những trẻ nhút nhát,
rụt rè cho trẻ được đóng vai làm chú mèo đuổi bắt chim sẻ, và nói: “Các chú
chim sẻ hãy chú ý cẩn thận và bay thật nhanh về tổ khi mèo xuất hiện nhé bởi
chú mèo Hải Anh của chúng ta rất giỏi đấy”, khi được làm mèo trẻ rất vui, qua
đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trước các bạn trong lớp.
Kết thúc giờ học, hoạt động hồi tĩnh cho trẻ là phần không thể thiếu được
bởi nó giúp trẻ lấy lại sự cân bằng cho cơ thể sau quá trình tập luyện liên tục ở
các bài tập. Bên cạnh những hình thức cho trẻ đi một vòng quanh sân tập, hay
làm chim bay cò bay trước kia, tôi còn tổ chức cho trẻ được lên bục nhận phần
thưởng sau đó cho trẻ đi hồi tĩnh nhẹ nhàng dưới nền nhạc.

Hình ảnh: Cho trẻ lên nhận quà
Bằng những hình thức và phương pháp như trên bản thân tôi thấy được
những thành quả đáng ghi nhận, các cháu không còn thấy mệt mỏi, nhàm chán
mà các cháu đã tự giác học, không để cô phải nhắc nhiều; tham gia vào giờ thể
dục một cách sôi nổi, giúp giờ học đạt kết quả cao. Sau mỗi giờ học tôi thấy chất

lượng các cháu được nâng lên rõ rệt.
3.3. Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng, đồ chơi linh hoạt, sáng tạo
Việc sử dụng đồ dùng, dụng cụ luyện tập vận động cho trẻ khoa học, linh
hoạt, sáng tạo sẽ mang lại thành công lớn trong quá trình phát triển vận động
cho trẻ. Do đó yêu cầu đồ dùng phải đẹp, chính xác, đảm bảo an toàn cho trẻ,
xong tùy vào từng bài tập mà cô giáo làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng sao cho
phù hợp với nội dung bài học. Vì vậy trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục
thể chất cho trẻ, tôi đã dựa vào nội dung bài tập để chuẩn bị đồ dùng cho trẻ kết
8


hợp với lời giới thiệu hấp dẫn, sử dụng đồ dùng phù hợp, đúng lúc góp phần tạo
được sự bất ngờ đối với trẻ và mang lại cho trẻ mong muốn được trải nghiệm,
tập luyện.
Ví dụ: Dạy trẻ BTPTC: Thỏ con
VĐCB: Bật xa vào vòng
TCVĐ: Trời nắng, trời mưa
(Chủ đề: Những con vật đáng yêu)
Tôi chuẩn bị mô hình đầm Sen (lá Sen làm vòng để trẻ nhảy bật vào), mô
hình khu rừng có các chú bướm đang bay lượn, mũ Thỏ cho trẻ, một cô đóng vai
bác Khỉ, tôi đóng vai bác Gấu và dùng lời giới thiệu hấp dẫn để thu hút sự chú ý
của trẻ: “Hôm nay bác mời các bạn Thỏ đến nhà chơi, đường đến nhà bác rất xa
và khó đi, để đến được nhà bác các chú Thỏ của chúng ta phải lấy được chiếc
chìa khóa do bác Khỉ trông coi để mở cánh cửa khu rừng bí ẩn, các chú Thỏ của
chúng ta có muốn tham gia không? Bây giờ các chú Thỏ hãy cùng nhau biểu
diễn cho bác Khỉ xem để làm cho bác vui nhé! (cho trẻ tập bài tập phát triển
chung)... Bác Khỉ đã đưa chìa khóa cho chúng ta rồi, hãy cùng nhau mở cánh
cửa khu rừng bí ẩn nào... Để đến được nhà bác các chú Thỏ phải đi qua được
đầm Sen bằng cách nhảy lên những chiếc lá Sen (cho trẻ tập vận động cơ bản)...
Bây giờ bác cháu mình cùng nhau dạo chơi trong khu rừng nhé! (cho trẻ chơi trò

chơi vận động)”. Nhờ vậy tôi đã tạo được không khí và trạng thái hoạt động vui
vẻ kích thích sự sẵn sàng vận động của trẻ.
Hay khi ôn luyện VĐCB: “Đi theo hướng thẳng” cho trẻ, tôi tận dụng các
vật liệu đã qua sử dụng và vật liệu sẵn có như: luồng, tre, lốp xe, vỏ sò, vỏ ốc,
thùng cốt tông... Để làm mô hình thác nước, dòng suối có chiếc cầu bắc qua và
hướng dẫn trẻ đi như sau: “Chào mừng các du khách đến thăm quan khu du lịch
Thác Voi, để được tận mắt ngắm nhìn thác nước xin mời các du khách cùng
nhau đi trên chiếc cầu bắc qua thác nước. Khi đi qua cầu để không bị ngã các du
khách chú ý phải đi giữa cầu, không được vịn tay lên thành cầu...”. Nhờ vậy mà
trẻ biết tự giác điều chỉnh kĩ năng vận động để đạt được mục đích của bài tập.

Hình ảnh: Mô hình cho trẻ đi theo hướng thẳng
9


Bên cạnh việc sử dụng các đồ dùng, dụng cụ cho trẻ luyện tập; trong quá
trình dạy trẻ tôi luôn tham khảo, sưu tầm các bài hát, thơ, ca dao, đồng dao... Có
nội dung phù hợp với các bài tập của trẻ để sử dụng cho trẻ tập. Như vậy sẽ vừa
tạo được hứng thú cho trẻ luyện tập vừa giúp trẻ thực hiện tốt các kĩ năng vận
động của bài tập.
Ví dụ: Dạy trẻ VĐCB: “Đi đều bước” tôi cho trẻ mặc trang phục của các
chú bộ đội, vác súng (gậy thể dục) trên vai đi hành quân. Tôi gới thiệu bài học:
“Hôm nay binh đoàn 368 tổ chức duyệt binh, tất cả các chú bộ đội của chúng ta
đã sẵn sàng tham gia chưa? Các chú bộ độ hãy đi thật hùng dũng và đều nhau
nhé!” và mở nhạc bài hát “Em thích làm chú bộ đội” cho trẻ đi.
Để thay đổi không khí, tránh nhàm chán, tạo hứng thú cho trẻ khi học
đồng thời làm phong phú hơn số lượng đồ dùng dạy học - đồ chơi, trong quá
trình dạy trẻ tôi còn làm thêm các đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo để cho các
cháu hoạt động.
Ví dụ: Dạy trẻ bài tập: “Nhảy bật vào vòng” tôi tận dụng những chiếc lốp

xe đạp đã hỏng rồi sơn màu vẽ trang trí lên để làm vòng cho trẻ nhảy bật vào.
Hay khi dạy trẻ “Bò chui qua cổng” tôi tận dụng lốp xe hoặc vỏ sữa, vỏ chai
nhựa để làm cổng cho trẻ bò chui. Bên cạnh đó tôi còn tận dụng những sợi dây
treo băng rôn quảng cáo, bìa cát tông để làm huy chương vàng trao cho các vận
động viên... Đồng thời những đồ dùng, dụng cụ này còn được tôi sử dụng cho
trẻ chơi trong những buổi hoạt động ngoài trời nhằm ôn luyện và củng cố các kỹ
năng, kỹ xảo vận động của các bài tập mà trẻ đã học trên lớp một cách tự nhiên
không gò bó, bắt buộc.

Hình ảnh: Một số đồ dùng tự tạo
Chọn lựa và sử dụng tốt đồ dùng dạy học vô cùng quan trọng trong việc
giúp trẻ phát huy tính tích cực, chủ động, tự nguyện, tự giác tham gia vào hoạt
động giáo dục phát triển thể chất để lĩnh hội, tiếp thu kiến thức, kĩ năng của bài
học. Vì vậy mà trong mỗi bài học giáo viên cần linh hoạt trong việc sử dụng đồ
dùng dạy học để giúp trẻ hứng thú tham gia giờ học, có như vậy mới đạt được
kết quả cao.
10


3.4. Biện pháp 4: Tạo môi trường cho trẻ hoạt động
Để phát triển thể chất cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ, nhiệm vụ của giáo viên là:
Tổ chức các hình thức khác nhau để phát triển thể lực, sức khỏe cho trẻ. Tận
dụng các yếu tố thiên nhiên (nước, ánh sáng, không khí) và các điều kiện tự
nhiên (khúc gỗ, mô đất, bãi cỏ, cát) để cho trẻ rèn luyện. Tạo môi trường an toàn
và bầu không khí vui vẻ, động viên khích lệ trẻ tự tin và tích cực hoạt động.
Vì vậy trong quá trình phát triển hoạt động thể chất cho trẻ tôi không chỉ
chú trọng xây dựng môi trường giáo dục trong lớp mà tôi còn kết hợp với đồng
nghiệp, phối hợp với các bậc phụ huynh để xây dựng môi trường giáo dục ngoài
lớp học cho trẻ. Làm các đồ dùng đồ chơi vận động đẹp, bền, chắc, an toàn và
thuận lợi cho việc sử dụng để tạo cho trẻ khu vực chơi với cát, sỏi, nước; khi

tham gia hoạt động trẻ không chỉ được rèn luyện các vận động tinh (xếp hình,
cầm, nắm, đong) mà còn được rèn ruyện cơ thể thích ứng với môi trường. Khu
vui chơi rèn luyện thể chất cho trẻ gồm nhiều đồ dùng đơn giản như dùng lốp xe
ô tô cũ làm xích đu, cầu đi thăng bằng... để kích thích trẻ vận động theo khả
năng của mình, trẻ được ôn luyện các bài tập trong các buổi hoạt động ngoài
trời, để trẻ không bị quên, tăng thêm hào hứng và tránh mệt mỏi quá sức.

Hình ảnh: Khu vui chơi phát triển thể chất
Ngoài ra tôi còn tận dụng khu vực gầm cầu thang tạo khu để đồ dùng
dụng cụ vận động của trẻ, các đồ dùng được sắp xếp gọn gàng đẹp mắt gây hứng
thú cho trẻ tham gia hoạt động, trẻ tự lựa chọn đồ dùng theo ý thích để tập luyện
khi vui chơi ngoài trời. Đồng thời tận dụng khu vực hành lang của lớp học, tôi
làm con đường ngoằn ngoèo cho trẻ đi, hay những ô hình để trẻ nhảy bật vào ô
hình khi đến lớp hoặc khi ra về với cha, mẹ.
11


Hình ảnh: Hành lang trước và sau lớp học
Có thể nói rằng môi trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển thể chất của trẻ. Làm phong phú môi trường vận động, thay đổi
dụng cụ, thay đổi điều kiện luyện tập để trẻ tiến hành bài tập giúp trẻ vận động
tích cực hơn, tự nhiên, thoải mái, có tác dụng củng cố và rèn luyện kĩ năng, kĩ
xảo vận động, phát tiển tố chất thể lực khi thực hiện vận động.
3.5. Biện pháp 5: Phối kết hợp với gia đình
Công tác phối hợp nhà trường và gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với
chất lượng giáo dục trẻ. Kết quả chăm sóc giáo dục trẻ phụ thuộc một phần lớn
vào việc chia sẻ trách nhiệm chăm sóc giáo dục trẻ giữa trường mầm non với gia
đình. Có thể nói rằng sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình là mối quan hệ
hai chiều mật thiết, cùng chung một mục đích, cũng có thể coi đó là con đường
cơ bản chính yếu, có sự thống nhất chung về mục đích, lợi ích và phương pháp

giáo dục để giúp trẻ phát triển toàn diện.
Vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn phối hợp chặt chẽ tay ba giữa
gia đình, nhà trường và xã hội, để cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
trẻ một cách đạt hiệu quả nhất.
Hàng ngày vào các giờ đón, trả trẻ tôi thường xuyên gặp trực tiếp các bậc
phụ huynh để trao đổi về tình hình sức khỏe, học tập của trẻ ở lớp để các bậc
phụ huynh được biết. Đồng thời cũng nắm bắt được tình hình của trẻ ở nhà từ đó
để có biện pháp dạy trẻ được tốt hơn.
Ví dụ: Hôm nay ở lớp học bài thể dục “Ồ sao bé không lắc” - Chủ đề: “Bé
và các bạn” tôi in nội dung bài tập treo ở góc trao đổi với phụ huynh của lớp để
phụ huynh được biết và đọc, hoặc khi về nhà phụ huynh có thể xem lại bài trên
trên internet để cùng cô ôn luyện cho trẻ. Như vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu kiến thức
hơn tạo được tâm thế cho trẻ hào hứng vào các giờ học sau. Sau các giờ học tôi
giáo dục trẻ về nhà tự cất đồ dùng, làm một số việc tự phục vụ bản thân; biết
giúp đỡ ông, bà, bố, mẹ và thường xuyên luyện tập thể dục để cho cơ thể khỏe
mạnh, tay chân rắn chắc.
Trên góc trao đổi với phụ huynh, bên cạnh nội dung giáo trẻ, tôi treo bảng
thông báo về chiều cao, cân nặng và nhận xét năng lực vận động của từng cháu
hàng quý để phụ huynh biết được tình hình sức khẻ, vận động của con mình trên
cơ sở đó cùng cô giáo có các biện pháp tác động kịp thời lên trẻ giúp trẻ phát
triển thể chất đạt được mức độ vận động phù hợp với lứa tuổi của mình.
12


Từ những biện pháp trên tôi thực hiện đã được phụ huynh đồng tình, ủng
hộ nhiệt tình và phối kết hợp với tôi trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ phát
triển thể chất đạt kết quả cao cả ở nhà cũng như ở trường.
4. Kết quả thực hiện
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng các giải pháp vào thực tế giảng
dạy đến nay đề tài đã mang lại một số hiệu quả cụ thể như sau:

* Đối với trẻ: Trẻ hứng thú tham gia giờ học, thích tập thể dục và mạnh
dạn tự tin thể hiện sự khéo léo của các kĩ năng vận động. Biết phối hợp các vận
động một cách nhịp nhàng để thực hiện tốt các bài tập thể dục.
* Đối với giáo viên: Bản thân tôi đã xây dựng được môi trường giáo dục
phát triển thể chất cho trẻ. Tìm ra những giải pháp, hình thức mới lạ phù hợp với
khả năng nhận thức của trẻ giúp trẻ hứng thú tham gia tập luyện thể dục.
* Đối với phụ huynh: Phụ huynh đã nhận thức được vai trò của việc cho
trẻ tập luyện thể dục và phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cô giáo để chăm sóc
giáo dục trẻ một cách khoa học.
So với kết quả khảo sát đầu năm thì kết quả khảo sát cuối năm trên trẻ cho
thấy như sau:
Tổng
số trẻ

Nội dung khảo sát
Trẻ mạnh dạn,

22

Tốt
ST TL
hứng 13 60%

Đạt
Khá
TB
ST TL SL
TL
8 36% 1
4%


Chưa
đạt
0

thú tham gia luyện tập
Khả năng vận

động 12

55%

9

41%

1

4%

0

của trẻ
Kết quả khảo sát trên cho thấy tỉ lệ trẻ đạt tốt, khá tăng rõ rệt so với đầu
năm, tỉ lệ trung bình giảm đáng kể. Như vậy, có thể nói rằng quá trình nghiên
cứu học hỏi đồng nghiệp và đúc rút kinh nghiệm thực tế để tổ chức cho trẻ tập
luyện bằng các hình thức đổi mới đã góp phần nâng cao chất lượng môn học ở
lớp tôi phụ trách, số cháu nhút nhát đã trở nên mạnh dạn, số cháu có sức khỏe
yếu không còn nữa.
C. KẾT LUẬN

Dạy vận động cho trẻ nghĩa là chúng ta đưa các bài tập thể dục đến với
trẻ, chính vì vậy mà chúng ta phải nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí của trẻ để
dạy trẻ tiếp thu và lĩnh hội được một cách tốt nhất kiến thức, kĩ năng qua mỗi bài
tập. Ở lứa tuổi này trẻ nắm được các động tác nhanh, nhưng nếu không thường
xuyên luyện tập thì cũng dễ quên; chỉ qua luyện tập trẻ mới hiểu và nhớ được
thứ tự quá trình động tác, cảm giác phương hướng của động tác, tốc độ di động
của cơ thể, nhịp điệu của động tác, sự phối hợp dùng sức của các cơ co, duỗi
nhịp nhàng. Do đó các bài tập cần được ôn luyện trong các buổi tập, để trẻ
không bị quên, tăng thêm hào hứng và tránh mệt mỏi quá sức.
13


* Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và thực tế giảng dạy tôi đã rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau:
Giáo viên phải thật sự yêu nghề mến trẻ, chịu khó, kiên trì tìm tòi, không
ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn và công nghệ
thông tin để luôn có những biện pháp sáng tạo mới trong giảng dạy.
Luôn có ý thức rèn luyện, thường xuyên tham khảo tài liệu chuyên
nghành, các giáo trình để nâng cao chuyên môn.
Phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của trẻ để có giải pháp giáo
dục phù hợp, vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ
cá biệt luôn tạo niềm tin, sự hứng thú cho trẻ.
Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học thân thiện, đẹp mắt, an toàn
bằng các nguyên vật liệu đã qua sử dụng và nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương. Tạo nhiều cơ hội cho trẻ trải nghiệm phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý
của trẻ là “Học bằng chơi, chơi mà học”
Phát huy tính tích cực trong tập luyện của trẻ chính là tạo điều kiện để trẻ
có tinh thần hứng thú thực sự trong tập luyện, vì vậy giáo viên phải lựa chọn
hình thức phương pháp đa dạng, tránh đơn điệu dễ gây buồn chán. Thu hút sự

chú ý và tạo hứng thú cho trẻ bằng các thủ thuật như trò chơi, ca dao, đồng dao,
thơ, hát, hò, vè…
Đầu tư thời gian để tìm tòi, nghiên cứu kỹ bài tập để có các phương pháp,
hình thức dạy học cụ thể, phù hợp và đạt kết quả tốt nhất.
Trước khi thực hiện một bài tập phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng dụng cụ,
màu sắc đẹp, hấp dẫn, an toàn và làm cho trẻ có mong muốn vận động.
Thông qua các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi nhằm giúp trẻ ôn luyện kĩ
năng vận động.
Trao đổi, kết hợp với phụ huynh những gì mà trẻ chưa thực hiện được để
thống nhất phương pháp dạy trẻ, tìm ra cách dạy tốt hơn giúp trẻ phát triển tốt
về mọi mặt.

14


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Ba Đình, ngày 01 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là kinh nghiệm
của bản thân viết không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết

Đỗ Thị Phương

XÁC NHẬN CỦA HĐKH THỊ XÃ BỈM SƠN

1
5



TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chương trình CS-GD trẻ từ 3-36 tháng tuổi. (Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam 30/12/2016)
- Hướng dẫn và gợi ý thực hiện chương trình CS-GD trẻ nhà trẻ từ 3-36
tháng. (Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tháng 6/2015)
- Các bài tập phát triển vận động và trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ. (Nhà
xuất bản Giáo dục Việt Nam tháng 6/2015)
- Tài liệu hướng dẫn phần chơi tập cho trẻ 19-36 tháng. (Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam 28/8/1992)
- Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề. (Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam tháng 10/2008)
- Mô đun mầm non 21: Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong lĩnh
vực phát triển thể chất.

16


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Phương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường mầm non Ba Đình
TT
1
2

Tên đề tài SKKN
Một số phương pháp

hướng dẫn cho trẻ làm
quen với chữ cái
Dạy thơ cho trẻ nhóm

Cấp đánh giá
Kết quả đánh
xếp loại (Phòng,
giá xếp loại
Sở, Tỉnh...)
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Tỉnh

C

2005-2006

Thị

B

2016-2017

Thị

A


2017-2018

19-24 tháng
3

Một số biện pháp phát
triển vận động cho trẻ
26-36 tháng thuổi



×