Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng thông qua bộ môn kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.66 KB, 22 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng thông qua
bộ môn kể chuyện
I. Đặt vấn đề.
1. Lý do chọn đề tài :
Con người dù lớn hay nhỏ, muốn sinh tồn cần phải ăn, ngủ và làm việc.
Muốn nhận thức cần phải có kiến thức. Để tiếp nhận được kiến thức thì phải
học, kiến thức đi vào con người khởi đầu từ đôi mắt, qua suy nghĩ và đọng lại
trong trí nhớ, để được như vậy con người cần phải biết chữ, biết hát biết đọc
thơ….muốn làm được như vậy thì phải học mà học có thể bằng nhiều cách.
Mục tiêu của giáo dục Mầm Non là nuôi dạy chăm sóc và giáo dục trẻ phát
triển toàn diện theo 5 lĩnh vực. Nhưng đối với trẻ 25 -36 tháng phát triển ngôn
ngữ là một trong những hoạt động đóng vai trò hết sức quan trọng .
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ,
khả năng trình bày có logic, có trình tự, chính xác và có hình ảnh một nội dung
nhất định.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò quan
trọng giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,
thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện
tượng, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ
tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật,
hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Vì ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp; học tập và vui chơi. Ngôn ngữ
giữ vai trò quyết định sự phát triển toàn diện của trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ
còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về
đạo đức; tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa.
Ngôn ngữ giúp trẻ bày tỏ ý kiến; đặt câu hỏi; phân loại và phát triển cách
tư duy và tạo nên cầu nối giữa qua khứ; hiện tại và tương lai. Vygotsky đã nhẫn
mạnh rằng ngôn ngữ nói rất quan trọng trong việc giải quyết nhiệm vụ khó; tạo
mối quan hệ xã hội và kiểm soát hành vi của những trẻ khác cũng như hành vi
của bản thân.




Ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ giúp
trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc
tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một
thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần
dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong
cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ
những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng điều
đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.
Thông qua hoạt động dạy và học dưới hình thức như: Tạo hình, hoạt động
với đồ vật, môi trường xung quanh... sẽ giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc sáng tạo
nhân cách con người. “Làm quen với văn học” là một hoạt động không thể thiếu
được đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non và đặc biệt ở lứa tuổi 24-36 tháng. Vì thông
qua các hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học là loại hình nghệ thuật
đặc sắc không thể thiếu được trong đời sống con người. Đặc biệt nó rất gần gũi
với trẻ thơ, từ buổi đầu thơ ấu trẻ đã sống chan hòa trong không khí rời ru “ầu
ơ” đầy yêu thương tận tình của mẹ và bà... Đó cũng chính là cánh cữa mở ra
chân trời nhận thức cho trẻ
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói đến lúc trẻ biết viết,
biết đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phượng tiện dẫn dắt trẻ: Ca dao, chuyện
kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ. Học tập là phương tiện
hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước,
tình yêu mến bạn bè với những người thân, biết được việc làm tốt, xấu, biết yêu
cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác độc, biết kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn...
Văn học còn là phương tiện hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng, mà
đặc biệt ở trẻ nhà trẻ thì vốn từ và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ, trẻ
nói mạch lạc, nói diễn cảm, nói đúng câu, đúng từ và đúng ngữ pháp. Đó là
những điểm chiếm ưu thế của văn hóa.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 25-36 tháng nói riêng; trẻ rất nhạy cảm

với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu; hình tượng của các bài hát ru; ca dao; đồng
dao; sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích; thần thoại đặc biệt


hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc vơi văn học và đặc biệt là hoạt động
dạy trẻ kể chuyện là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất; hiệu quả
nhất.
Thông qua việc dạy trẻ kể chuyện giúp trẻ phát triển năng lực tư duy; óc tưởng
tượng sáng tạo; biết yêu quý cái đẹp; hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện; ngôn
ngữ của trẻ phát triển; trẻ phát âm rõ ràng; mạch lạc; vốn từ phong phú. Trẻ biết
trình bày ý kiến; suy nghĩ; kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn
ngữ của trẻ.
Năm học 2010- 2011 Trường chúng tôi thực hiện chương trình giáo dục mầm
non mới. Do vậy là giáo viên dạy trẻ 25-36 tháng tôi đã nhận thức rõ được tầm
quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc biệt là thông qua hoạt động
kể chuyện.
Qủa đúng như vaayjtrong chương trình giáo dục mầm non; ngôn ngữ có
vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh thông qua cử chỉ; lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật;
hiện tượng có thế giới xung quanh.
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện để giao tiếp; giao lưu cảm xúc với
những người xung quanh; hình thành ở trẻ những cảm xúc tích cực. Đặc biệt
nhờ có ngôn ngữ thông qua các câu chuyện dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực
của xã hội và hòa nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ 25-36 tháng có số lượng từ tăng
nhanh; vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ; các loại từ khác như
tình từ; đại từ; trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi; chính vì
thế chúng ta cần giúp trẻ phát triển; mở rộng để tăng nhanh vốn từ cho trẻ; biết
sử dụng các loại câu thành phần bằng cách trò chuyện về sự vật; hiện tượng trẻ
nhìn thấy trong sinh hoạt hằng ngày.
Trong những năm qua đội ngủ giáo viên mầm non đã từng bước khẳng định về

chuyên môn nghiệp vụ của mình; đã đầu tư vào bào giảng đổi mới sáng tạo
trong các hoạt động một cách tích cực.
Song đối với việc thực hiện chương trình nhà trẻ vần còn nhiều khó khăn nhất
là trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng; giáo viên vẫn còn xem nhẹ việc tạo cơ hội cho trẻ


được hoạt động; giao tiếp để phát triển ngôn ngữ. Có đầu tư vào dạy; nhưng
phương pháp và biện pháp để cho trẻ tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất
ít. Khi tổ chức giờ kể chuyện cho trẻ môn học mà cô có thể khai thác nhiều biện
pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thì giáo viên chưa biết linh hoạt tạo cơ hội cho
trẻ hệ thống câu hỏi đàm thoại; giáo viên đưa ra hầu như toàn câu hỏi đóng; trẻ
không thể tư duy và ít sử dung hệ thống câu hỏi đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ; từ đó
dẫn đến việc hay nói cộc lốc; thiếu lễ pháp nếu giáo viên không kịp thời uốn nắn
cho trẻ.
Là một giáo viên làm công tác chăm sóc giáo dục trẻ bản thân tôi thấy rõ tầm
quan trọng cũng như yêu cầu của vấn đề nêu tren tôi mạnh dạn đưa ra “ Một số
biện phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng thông qua hoạt động kể chuyện”
nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình
GDMN mới hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu, và phạm vi nghiên cứu.
- Trẻ 25 - 36 tháng trong trường mầm non.
- Phụ huynh, cán bộ giáo viên trong trường mầm non.
3. Xác định mục tiêu nghiên cứu
- Nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách chính
xác, có trình tự.
- Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người
- Làm phong phú vốn từ cho trẻ
4. Xây dựng giả thiết nghiên cứu.
- Nếu là một đứa trẻ từ khi tập nói mà không có sự dạy dỗ của người lớn từng
câu, từng chữ thì đứa trẻ đó phát âm sai từ, nói không rõ lời còn nếu có sự uốn

nắn của người lớn thì trẻ sẽ phát triển được ngôn ngữ một cách rõ ràng, mạch lạc
tự tin hơn.
- Tìm ra những giải pháp tốt nhất để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách toàn
diện
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ


- Phương pháp dùng lời.
- Phương pháp trải nghiệm.
6. Dự báo những đóng góp của đề tài.
- Giúp trẻ nghe,hiểu, trả lời được các câu hỏi chính xác, trình tự.
- Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc.
- Giúp trẻ bớt nói ngọng, nói lặp
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ
Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu
được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh
hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với
cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn
của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà
mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó.
Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về
môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm
quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn
ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh… của các sự vật ,
hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày.
Đặc biệt đối với trẻ 25- 36 tháng cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại

vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ
về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh…. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành
ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành
ngôn ngữ cho trẻ .
2. Cở sở thực tiễn.
Là một giáo viên dạy nhóm trẻ 25 – 36 tháng, ngay từ đầu năm học tôi
luôn quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng
trẻ nhằm khám phá, tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có


những biện pháp giáo dục và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ. Khi tiếp xúc với
trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu, từ, về cách
phát âm. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu
cho nên nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số
trẻ còn hạn chế khi nói , trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn
nghèo nàn.
Bản thân tôi đã tham gia chuyên đề “ Nhận biết tập nói, kể chuyện, thơ”
cùng với kiến thức bồi dưỡng thực hiện chương trình mầm non “ Lấy trẻ làm
trung tâm”, giáo viên thực sự là người tạo cơ hội hướng dẫn gợi mở, tạo hứng
thú cho trẻ. Phát huy được tính tích cực hoạt động của trẻ, mặc dù trang thiết bị
chưa được đầy đủ nhưng ban giám hiệu đã thúc dục giáo viên làm bổ sung đồ
dùng. Thường xuyên thăm lớp dự giờ tổ chức các đợt thao giảng, dạy mẫu, góp
ý kiến đúc rút kinh nghiệm nhất là từ lúc học các chuyên đề bồi dưỡng thường
xuyên tôi cũng đã áp dụng vào bài dạy, tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt
động học mà chơi của từng loại tiết dạy. Song để đáp ứng được nhu cầu mới
hiện nay tôi thấy mỗi giáo viên cần tích cực nghiên cứu các bài học trong
chương trình bồi dưỡng để đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và
học. Từ khi thực hiện chương trình giáo dục mầm non, về phương pháp tôi thấy
cô dạy thoải mái, trẻ học không gò bó. Mặc dù giáo viên đã tạo hứng thú nhưng

phần dẫn dắt vẫn chưa được hay. Mặt khác do đặc điểm tâm sinh lý của trẻ “mau
nhớ, chóng quên” . Ngôn ngữ của trẻ phát triển chưa hoàn thiện, dùng từ chưa
chính xác, nói chưa rõ, chưa đủ câu, nói lắp, nói đớt nên khi phát âm chưa thật
được tốt. Vì vậy tiếp thu bài của trẻ còn hạn chế, kết quả của trẻ chưa cao.
3. Đánh giá thực trạng.
a/ Thuận lợi:
- Nhà trường luôn được phòng giáo dục – đào tạo quan tâm và chỉ đạo trong
công tác chuyên môn cũng như các hoạt động khác.
- Bản thân là giáo viên có trình độ chuẩn về chuyên môn; nhiệt tình; trách nhiệm
trong công việc yêu nghề; mến trẻ. Có khả năng đọc; kể diễn cảm cho trẻ nghe


và định hướng kể chuyện có hiệu quả; tạo môi trường hoạt động ở lớp tương
đối phong phú.
- Được UBND và nhà trường đầu tư mạnh về cơ sở vật chất, mua sắm tương đối
nhiều về thiết bị, tranh ảnh, đồ dùng, đồ chơi theo Thông tư 02 nên lớp có điều
kiện về dụng cụ dạy kể chuyện đảm bảo.
- Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ đóng góp ý
kiến, rút kinh nghiệm dể nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng sư phạm của
giáo viên.
- Về phía nhà trường phân chia các lớp, các cháu được học tập, rèn luyện theo
từng độ tuổi. Đội ngũ giáo viên năng nổ nhiệt tình , được sự góp ý của ban giám
hiệu nhà trường đặc biệt là tham gia hội thi giáo viên giỏi là nơi đúc rút kinh
nghiệm chị em đồng nghiệp.
- Môi trường trong và ngoài lớp rộng rãi, diên tích đảm bảo để cho trẻ tham gia
vào các hoạt động một cách dễ dàng.
- Đội ngũ cán bộ giáo viên trong trường liên tục được trẻ hoá, có tinh thần yêu
nghề, mến trẻ, tâm huyết với nghề nghiệp
b/ Khó khăn:
* Bên cạnh những thuận lợi còn có một số khó khăn như sau:

- Cơ sở vật chất mặc dù được đầu tư cải thiện song chưa hiện đại, chưa đáp ứng
với yêu cầu đổi mới công tác chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ hiện nay.
- Số trẻ trong lớp là 27 cháu, trong đó có một số trẻ chưa có nề nếp trong học tập
cũng như kiến thức của trẻ còn hạn chế, ngôn ngữ của trẻ chưa phong phú vì vậy
nên bản thân còn gặp nhiều khó khăn khi cho trẻ hoạt động kể chuyện.
- Tuy được đầu tư về trang thiết bị dạy học nhưng vẫn còn thiếu, nhiều đồ dùng
trực quan phục vụ cho hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo chưa đầy đủ. Bên
cạnh đó một số cháu nói ngọng, hiếu động thiếu tập trung vào giờ học. Trẻ cùng
độ tuổi nhưng khả năng nhận thức không đông đều. Vì thế gây khó khăn cho
giáo viên trong việc dạy trẻ tham gia hoạt động kể chuyện.


- Đồ dùng đồ chơi do giáo viên tự làm chất lượng chưa cao do thời gian dành
cho đứng lớp quá nhiều.Vì vậy nên đồ dùng trực quan một số chưa thu hút được
trẻ dùng trong hoạt động kể chuyện .
- Đồ dùng trực quan còn ít chưa đa dạng; phong phú; thẩm mỹ chưa đạt; giá trị
sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn ít.
- Phụ huynh phần lớn là lao động nghèo và công giáo; nên rất khó khăn trong
việc hổ trợ đóng góp kinh phí để mua sắm trang thiết bị; học liệu.
- Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp
xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
- Tuy được đầu tư về trang thiết bị dạy học nhưng vẫn còn thiếu, nhiều đồ dùng
trực quan phục vụ cho hoạt động dạy trẻ kể chuyện chưa đầy đủ. Bên cạnh đó
một số cháu nói ngọng, hiếu động thiếu tập trung vào giờ học. Trẻ cùng độ tuổi
nhưng khả năng nhận thức không đông đều. Vì thế gây khó khăn cho giáo viên
trong việc dạy trẻ tham gia hoạt động kể chuyện.
- Đồ dùng đồ chơi do giáo viên tự làm chất lượng chưa cao do thời gian dành
cho đứng lớp quá nhiều.Vì vậy nên đồ dùng trực quan một số chưa thu hút được
trẻ dùng trong hoạt động kể chuyện.
- Đa số trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ x-s, dấu ngã - dấu sắc, dấu

hỏi dấu nặng.
- Qua quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này và tôi
nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện pháp
phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ thông qua bộ môn kể chuyện một cách có
hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người.
c. Kết quả khảo sát
- Vào đầu năm học tôi đã khảo sát trẻ lớp tôi 27 cháu như sau:
Bảng khảo sát trẻ đầu năm học như sau
Kết quả trước khi thực hiện
TT
1
2

Nội dung khảo sát
Số trẻ biết kể chuyện theo cô
Trẻ mạnh dạn; tự tin trong giao

đề tài
Số cháu
5
10

Tỷ lệ
18;5 %
37%


3

tiếp.

Trẻ phát âm rõ ràng; mạch lạc;

4

đúng ngữ pháp
Trẻ biết thể hiện ngôn ngữ; tính
cách nhân vật.

10

37%

4

14;8%

Để khắc phục và giải quyết thực trạng trên bản thân tôi đã áp dụng “ Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng thông qua bộ môn kể chuyện”
4. Các biện pháp tổ chức:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và
phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ
mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương
tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức .Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ
dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội
tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số
biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Tạo môi trường học tập; rèn luyện cho trẻ.
- Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả các
hoạt động. Nếu cô tạo được môi trường hoạt động đa dạng phong phú hấp dẫn sẽ
là động lực kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã

đặc biệt chú trọng trong công việc tạo môi trường học tập cho trẻ bằng cách sưu
tầm đưa các hình ảnh; nhân vật của các câu chuyện nổi bật vào học tập và một
số góc trong và ngoài lớp; thể hiện trên các mảng tường. Vẽ và sưu tầm một số
bộ tranh; chuyện ngoài chương trình để giảng dạy; vận động phụ huynh đóng
góp tranh truyện để đưa vào góc sách cho trẻ hoạt động hằng ngày. Ngoài việc
tạo những bức tranh trên mảng tường; những tập truyện tranh….Tôi đi sâu vào
làm đồ dùng đồ chơi; đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như; Rối dẹt; rối tay;
cắt dán bìa cứng cho trẻ ghép tranh.
Tạo môi trường cho trẻ kể chuyện là một việc làm vô cùng quan trọng bởi nó là
yếu tố để kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ; là cơ sở vững chắc cho trẻ kể
chuyện. Vì thế đòi hỏi cô giáo phải tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật ngộ


nghĩnh; đáng yêu đồng thời cũng phải biết hướng lái; gợi mở cho trẻ có cảm xúc
tích cực khi tham gia vào hoạt động kể chuyện. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được
phát triển một cách phong phú; đa dạng.
Biện pháp 2: Dạy kể chuyện cho trẻ hoạt động học.
Đây là một việc làm rất quan trọng vì nắm vững được yêu cầu của mỗi giờ dạy
thì giáo viên sẽ dễ dàng chủ động trong việc soạn giáo án vì yêu cầu giáo án của
một tiết kể chuyện phải soạn một cách chu đáo; đầy đủ các bước; đảm bảo nội
dung với hệ thống câu hỏi mở và nội dung tích hợp phù hợp. Từ đó đưa ra
phương pháp’ hệ thống câu hỏi; đồ dùng phục vụ giờ dạy đạt kết quả cao cóa
như vậy tiết dạy sẽ đạt kết quả cao.
Ví dụ: Mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện “ Con cáo”
a) Về kiến thức:
- Trẻ biết tên câu chuyện; tên nhân vật trong chuyện và các hành động của các
nhân vật trong chuyện.
- Biết lắng nghe và trả lời được các câu hỏi của cô
- Đọc được các từ: Mèo hoa; đuổi theo; sợ khiếp…
b) Về kỹ năng:

- Trẻ nhận biết phân biệt được cáo; mèo; chó…
- Trẻ trả lời rõ ràng; thành câu.
c) Về giáo dục:
- Trẻ biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau.
- Biết yêu quý; chăm sóc các con vật nuôi
Biện pháp 3: Chuẩn bị đồ dùng trực quan cho trẻ như “ Tranh ảnh; rối
dẹt; rối tay; băng đĩa; máy tính; máy chiếu”
Để giờ học đạt được kết quả cao tôi luôn cố gắng làm những đồ chơi sinh động;
thu hút trẻ nhưng vẫn đảm bảo tính thẩm mỹ và mức độ an toàn trong khi sử
dụng.
Qua thực tế giảng dạy và tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí; nhận thức của trẻ
25-36 tháng là lối tư duy trực quan hình tượng. Nên tôi đã sáng tạo làm những
đồ dùng đồ chơi phù hợp với từng nội dung câu chuyện; giúp cho trẻ có những


cảm xúc và những ấn tượng với những đồ vật đó ngay từ ban đầu. Để có một giờ
kể chuyện đạt cao thì:
+ Đồ dùng phục vụ giờ dạy phải đẩm bảo; đồ dùng phải đẹp màu sắc phù hợp;
phải đảm bảo tính an toàn không có cạnh sắc nhọn và đảm bảo vệ sinh cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ thì phải đẹp; phù hợp với câu chuyện; phía dưới có chữ to giúp
cho việc phát triển từ của trẻ được thuận lợi.
+ Các đồ vật khác có liên quan đến câu chuyện.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Con cáo” chúng ta cần chuẩn bị : Tranh
chuyện; con rối; băng đĩa; máy chiếu
( Phần bỏ hình ảnh vào)
Biện pháp 4: Tích hợp trong tiết dạy kể chuyện.
Với lời kể diễn cảm; hấp dẫn làm rung động người nghe; nhưng biết tích hợp
các môn học khác hợp lý thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí; giảm sự
mệt mỏi khi trẻ ngồi lâu; làm thay đổi trạng thái tăng khả năng tiếp thu; kích
thích khả năng phát âm của trẻ khi kể chuyện; Bằng những lời ca; lời đối thoại;

những câu đố; những bài đồng dao; ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
Ví dụ: Bài hát “ Gà gáy” “ Cô và mẹ” “ Cá vàng bơi” “ Đố quả” “ Em tập
lái ô tô”…. Hoặc bài thơ “ Bắp cải xanh” “Cây dây leo” “ Bạn mới” “ Yêu mẹ”..
Hoặc cho trẻ đọc thuộc các câu đố về con chó; con mèo; con lợn; con gà; con
cá…hay một số bài đồng dao; ca dao “ Dung dăng dung dẻ” “ Xỉa cá mè đè cá
chép” “ Kéo cưa lừa xẻ”………
Âm nhạc là bộ môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học; dễ gây ấn
tượng cho người xem; vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát “Thương con
mèo”; “ Một con vịt”; “ Đố biết con gì?”; “ Trời nắng trời mưa”………..giúp
trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp với nội
dung câu chuyện.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể chuyện hay thay cho phần
cũng cố câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò
chơi ở dạng động như trò chơi: Con thỏ; gà gáy vịt kêu; trời nắng trời mưa; Cáo
và thỏ……


Việc tích hợp các môn học khác; các trò chơi vào khi kể chuyện cho trẻ nghe
hoạch hướng dẫn trẻ kể chuyện là cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho
câu chuyện sinh động hơn.
Do đó cô giáo phải linh hoạt; lựa chọn nội dung sao cho phù hợp với nội dung
câu chuyện; phù hợp với khả năng của trẻ tránh tình trạng ôm đồm; giúp trẻ
tham gia vào các hoạt động một cách tích cực nhất.
( Phần bỏ hình ảnh giờ kể chuyện)
Biện pháp 5: Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động.
Để có một giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học tập đó là
cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt kết quả cao. Vì vậy tôi đã tiến hành như
sau:
. Hoạt động 1. Gây hứng thú cho trẻ.
Bằng các thủ thuật: Câu đố; thơ; bài hát; bài vận động có nội dung tích hợp tôi

nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung vào giờ kể chuyện; tôi gây hứng thú
bằng các trò chơi
Ví dụ1: Tiết kể chuyện “quả thi” Lần 1 vào bài tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi
“ Gieo hạt”
Ví dụ 2: Với câu chuyện “Thỏ ngoan” thì tôi sử dụng câu đố về con thỏ bông
để vào bài: cô đọc câu đố
“ Con gì môi đỏ
Đôi mắt sáng hồng
Lông trắng như bông
Thích ăn cà rốt”

là con gì? (con thỏ)

- Cô cho trẻ quan sát, đàm thoại về chú thỏ bông rồi cô nói: chú thỏ này rất hiền
lành, ngoan ngoãn, biết giúp đỡ bạn bè. Cô kể cho lớp mình nghe câu chuyện
“Thở ngoan” nhé. Cô đặt con thỏ vào mô hình và kể cho trẻ nghe
Tóm lại nếu cô biết lựa chọn, linh hoạt trong cách vào bài sẽ tạo nên bước
chuyển tiếp nhẹ nhàng, lô gíc, kích thích sáng tạo, thu hút sự chú ý của trẻ, duy
trì được sự hứng thú và sự tập trung giúp trẻ đến với câu chuyện một cách tự
nhiên, say sưa và có hiệu quả


Ví dụ 3: Trò chơi “ Con muỗi ”
* Cách chơi
- Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve ( Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua
vẫy lại theo nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. ( Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay
đối diện , chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).

+ úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay
( Nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi.
Sau đó xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay)
- Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3- 4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận
thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập
bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình
thành trọn vẹn hơn .
Ví dụ 4: Trong giờ kể chuyện “ Thỏ con không vâng lời” tôi cho trẻ vận động
bài “ Trời nắng trời mưa”
Trẻ vận động xong tôi cho trẻ ngồi xuống theo đội hình chữ U.
Hoạt động 2: Nội dung chính.
Trong giờ kể chuyện tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ; chú ý sửa
sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng; khi đó theo tôi thì có thể thực hiện như sau:
+ Cô kể cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện lần 1 bằng cử; chỉ điệu bộ
+ Sau đó cô kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 2 bằng tranh minh họa.
Ví dụ 1: Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện “ Con cáo” câu chuyện sẽ hay
hơn khi có tranh minh họa. Trong tranh có tư “ Con cáo” các con đọc từ “ Con
cáo” ( Cả lớp đọc lại 2 lần; sau đó cho cá nhân trẻ đọc 2-3 trẻ đọc)
+ Cô kể lần 3 kể trích dẫn và làm rõ nội dung câu chuyện; cô vừa kể vừa chỉ vào
nhân vật.
Cô sử dung hệ thống câu hỏi mở để trẻ tư duy và trẻ trả lời được câu hỏi của cô
Cô đặt hệ thống câu hỏi mở cho trẻ


Ví dụ 2: Trong câu chuyện “ Con cáo”
+Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì nhỉ?( Trẻ trả lời “Chuyện con cáo ạ”
+ Trong câu chuyện có những nhân vật nào? (…)
+ Con gì đến ăn thịt con gà?
+ Gà con sợ quá kêu như thế nào?
+ Ai đã đuổi bắt cáo?

+ Gà mẹ kêu như thế nào?
+ Gà con thoát chết là nhờ có ai?
VD 3: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ” . Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là
từ “ Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để
bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”.
( Các con ạ , bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy
chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn chú
gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy.) . Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu
hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:
+ Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu ( Đi kiếm ăn ạ)
+ Vịt kiếm ăn ở đâu?

( Dưới ao )

+ Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu?
+ Bạn Gà kiếm ăn như thế nào?

( Trên bãi cỏ)
( Bới đất tìm giun )

+ Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con?(Con Cáo)
+ Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt,Vịt bơi
ra xa).
+ Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao?
( Thương yêu nhau)
+ Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? ( Giúp đỡ bạn ạ).
- Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân
vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn.
- Giáo dục trẻ.



Tôi có thể kể lần 4 cho trẻ nghe nếu như có thời gian; nếu như kể lại một lần nữa
thì trẻ sẻ nhớ câu chuyện trọn vẹn; trẻ nhớ câu chuyện lâu hơn và hiểu hơn về
nội dung câu chuyện
Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng
vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng
đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
VD 4: Trong câu truyện “ Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu,
sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay
nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn
hơn khi trả lời.
Đây là những từ mà trẻ thường phát âm sai và tôi chú ý sữa sai cho trẻ kịp thời.
+ Cô nói ô tô

- trẻ nói ô chô.

+ Cô nói Thỏ ngoan

- Trẻ nói Thỏ ngan

+ Bác Gấu

- Bác ấu

+ Con Cáo

- Con áo

………….


………..

- Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách : tôi nói mẫu cho
trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
- Thể hiện sắc thái , ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt
những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động
viên , khích lệ trẻ kịp thời.
- Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “ Thỏ ngoan”
+ Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn.
+ Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu.
+ Giọng Thỏ thì ân cần , niềm nở.
- Như vậy kể chuyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà
còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện
và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức .
Hoạt động 3: Kết thúc giờ học.
Bằng cách khác nhau tôi cho trẻ kết thúc giờ học một cách nhẹ nhàng thoải mái


Ví dụ: Kết thúc giờ học tôi cho trẻ cùng đọc bài đồng dao “ Dung dăng dung
dẻ” đi ra sân chơi.
( Hình ảnh kết thúc giờ học kể chuyện)
Trong các giờ kể chuyện tôi cho trẻ tự kể lại câu chuyện mà trẻ đã được học;
thông qua sự gợi ý của cô.
Biện pháp 6: Cho trẻ làm quen mọi lúc mọi nơi
Với trẻ 25- 36 tháng, thời gian cho trẻ làm quen với chuyện trên một tiết học
là rất ngắn. vì thế giáo viên phải biết tận dụng mọi lúc mọi nơi như đón trẻ, hoạt
động ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động chiều, trả trẻ. Hay lồng các tiết học để
cho trẻ làm quen với chuyện
Ví dụ: +. Giờ đón trẻ. Cô có thể cho trẻ hoạt động ở góc sách, trẻ có thể xem
tranh, kể chuyện sáng tạo, kể chuyện cho nhau nghe hoặc xem đến tranh nào thì

trẻ thể hiện giọng nhân vật ở tranh đó
+. Giờ hoạt động ngoài trời: Trẻ được quan sát vườn cây ăn quả, trẻ bắt gặp
các hiện tượng thiên nhiên, những cảnh vật sống đọng như: Cây cỏ, hoa lá, gà
trống, gà mái. Tôi chọn thời điểm thích hợp khi trẻ tập trung chú ý với đối tượng
được quan sát thì tôi gợi ý bằng những câu hỏi. Trẻ kể tên một số con vật( trong
đó có con gà mái) cô hỏi trẻ: Con gà mái đẻ gì?...
+. Giờ hoạt động góc: Tôi đi tiếp cận từng nhóm chơi, từng cá nhân trẻ. Có
những lúc trẻ không thích hoạt động với đồ chơi, tôi kịp thời đến hỏi trẻ với thái
độ ân cần, dịu dàng
+. Giờ dạo chơi: Tôi hướng trẻ đến với những mảng tranh chuyện vẽ trên tường
rồi cô kết hợp chỉ hình ảnh trên tường cho trẻ xem. Nếu trẻ đã thuộc thì cô gợi ý
cho trẻ kể cùng cô
+. Giờ hoạt động có chủ đích: Tôi lợi dụng cơ hội để tích hợp các câu chuyện
sao cho phù hợp nhằm có tác dụng hỗ trợ cho nội dung chính của bài dạy và trẻ
không nhàm chán
Như vậy, sự vận dụng, linh hoạt, sáng tạo những câu chuyện có nội dung phù
hợp với hoạt động thực của trẻ làm cho tác phẩm trở nên gần gũi, nhẹ nhàng như


người bạn của trẻ. Thông qua các hoạt động trên giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt
hơn khi trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học.
Biện pháp 8: Làm tốt công tác tuyên truyền; kết hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong công tác
chăm sóc; giáo dục trẻ là một biện pháp đưa lại hiệu quả cao nhất.
Gia đình chính là một trong các nhân tố quyết định trong việc hình thành;
phát triển toàn diện của trẻ
*Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp
của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt
chẽ với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế

hoạch lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt
được.
* Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói tôi trao đổi với phụ huynh về ý
nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo
trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều
thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với
các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
* Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ
rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô
giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng
những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm,
sửa ngọng.
* Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển tranh
truyện; truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ
để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp.
Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và biện
pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình một cách phù hợp và
hiệu quả nhất


Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện mà trẻ đã nghe cô kể; yêu cầu
phụ huynh về nhà nếu thuộc câu chuyện đó thì kể lại cho trẻ nghe hoặc kích
thích trẻ kể các câu chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một
cách phong phú và đa dạng. Huy động phụ huynh đóng góp kinh phí mua sắm
một số hình ảnh; tranh chuyện; hoặc thu gom phế liệu; nguyên vật liệu sẵn có;
dễ tìm như: Vải vụn; len vụn; các vỏ hộp; mút; xốp…kết hợp trong và ngoài giờ
đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.
?( hình ảnh đang trao đổi với phụ huynh vê nguyên vât liêu)
5 .Kết quả đạt được.
Với những biện pháp nêu trên cùng với sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu

nhà trường; đồng nghiệp; hội phụ huynh và sự nỗ lực phấn đấu của bản thân sau
khi thực hiện các biện pháp trên tôi đã thu được kết quả trong năm học như sau:
a. Về phía cô
- Với vai trò là người giáo viên, là những người hướng dẫn trẻ tôi đã tìm hiểu kỹ
và sâu sắc những vai trò của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ. Để từ tôi đã tìm ra
những phương pháp tổ chức oạt động hiệu quả giúp trẻ nhận biết một cách nhẹ
nhàng
- Tôi thấy mình đã nâng cao trình độ chuyên môn; trong giảng dạy đã thực sự
đổi mới; sáng tạo; linh hoạt; có sức lôi cuốn trẻ.
- Tôi đã rút được nhiều kinh nghiệm qua giờ kể chuyện; sưu tầm được nhiều
tranh chuyện; học thuộc được nhiều chuyện ngoài chương trình.
- Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt hơn ở các góc; đặc biệt là góc học
tập.
- Tôi đã tận dụng các nguyên vật liệu có sẵn; dễ tìm để tạo ra nhiều con rối
phong phú; đa dạng có hiệu quả trong việc dạy trẻ kể chuyện.
- Luôn tìm tòi và khám phá các cách giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhanh
khoa học và nhẹ nhàng
b. Về phía phụ huynh:
- Phụ huynh đã hài lòng và kết hợp với cô giáo chặt chẽ hơn trong việc chăm
sóc; nuôi dạy trẻ nhất là nâng cao sự phát triển ngôn ngữ. Đó là một thành công


trong việc phối hợp giữa gia đình; nhà trường và xã hội. Các bậc phụ huynh đã
phấn khởi trước trước sự thay đổi và phát triển toàn diện của trẻ.
c. Về phía trẻ
+ Sau khi áp dụng “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36
tháng thông qua bộ môn kể chuyện” trong cả năm học tôi thấy có những
chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các
cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng được thể hiện như sau:
- Trẻ mạnh dạn , tự tin hơn trong khi giao tiếp.

- Khi giao tiếp biết nói đủ câu hoàn chỉnh.
- Hạn chế trẻ nói ngọng, nói lắp.
- Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, trẻ dễ
nhớ chuyện và nhanh chóng thuộc chuyện
- Cách sử dụng ngôn ngữ của trẻ khá hơn nhiều, nhanh nhẹn trả lời các câu hỏi
đúng, trẻ mạnh dạn, khả năng diễn đạt trong giao tiếp, trong các hoạt động khác
được nâng lên rõ rệt.
Ngôn ngữ của trẻ đã phong phú hơn và trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào cuộc
sống hàng ngày.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển
ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học vừa qua và kết quả đạt được
như sau:

TT Tổng
số
trẻ
được
1

27

2

27

3

27

Kết quả trước khi

thực hiện đề tài

Kết quả sau khi
thực hiện đề tài

Nội dung khảo sát
Số cháu
Số trẻ biết kể chuyện 5
cùng cô
Trẻ mạnh dạn; tự tin 10
trong giao tiếp
Trẻ phát âm rõ ràng 10
mạch lạc; câu đúng

Tỉ lệ (%) Số cháu
18;5%
20

Tỉ lệ (%)
74%

37%

22

81;4%

37%

25


92;5%


4

27

ngữ
Trẻ biết thể hiện
4
14;8%
ngôn ngữ; tính cách
nhân vật
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:

10

37%

1. Kết luận
Qua quá trình dạy trẻ trong lĩnh vực " Phát triển ngôn ngữ " ở trường
Mầm Non tôi thấy rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của
trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Phát triển ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp
hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển tâm lý
nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 25- 36 tháng khả năng ngôn
ngữ phát triển rất nhanh. Vì thế là một giáo viên tôi thấy cần nắm vững nội dung
và phương pháp mới tôi thấy giờ học không còn nặng nề, nhàm chán như trước,
trải nghiệm dễ dàng gây hứng thú cho trẻ.

Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả
quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục
khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện
của các trẻ, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã
góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
Đặc biệt trẻ 25 – 36 tháng ngôn ngữ là một phương tiện để giúp trẻ
hướng tới cái đẹp, cái hay, ngôn ngữ hình thành cho trẻ một tâm hồn ngây thơ,
trong sáng và ngộ nghĩnh. Thông qua hoạt đông ngôn ngữ giúp cho trẻ phát triển
các vốn từ, lời nói mạch lạc trong giao tiếp và ứng xử. Đặc biệt thông qua các
hoạt động hằng ngày trẻ được không chỉ phát triển nhanh về ngôn ngữ mà trẻ
còn được phát triển các tố chất về vận động để giúp cơ thể trẻ phát triển một
cách bình thường, khỏe mạnh, trẻ cảm nhận được các cảnh vật, con vật, đồ vật
quen thuộc trẻ nên gần gũi và thân yêu hơn. Giúp trẻ có cảm giác thích thú hơn
khi đến trường.
2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường


- Để phục vụ tốt cho việc giảng dạy nhà trường tiếp tục cho giáo viên đi thăm
quan môi trường sư phạm và các tiết dạy mẫu ở trường bạn để học hỏi kinh
nghiệm, tổ chức nhiều buổi chuyên đề , bồi dưỡng giáo viên.
- Mua sắm đầy đủ các đồ dùng cần thiết để giúp trẻ tiếp nhận một cách tốt nhất.
- Tạo điều kiện cho giáo viên được đi thực tế ở các trường trọng điểm để học tập
kinh nghiệm nâng cao chất lượng “ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng
thông qua bộ môn kể chuyện’’ .
- Mua sắm đầy đủ các đồ dùng cần thiết theo hạng mục để giúp trẻ tiếp nhận một
cách tốt nhất .
- Đề xuất với nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền rộng rãi với các cấp các
nghành , các đoàn thể và các bậc phụ huynh cho trẻ nhà trẻ đến trường mầm non
học đúng theo độ tuổi và vượt tỷ lệ huy động .

* Đối với giáo viên
- Giáo viên cần nghiên cứu sách báo, tài liệu, tham khảo các thông tin qua
mạng, dự giờ đồng nghiệp đúc rúc kinh nghiệm cho bản thân. Tham gia tốt công
tác bồi dưỡng thường xuyên. Khai thác ứng dụng sử dụng phần mềm giáo án
điện tử, lựa chọn nội dung phù hợp để tổ chức hoạt động cho trẻ.
* Đối với địa phương
- Địa phương tiếp tục quan tâm xây dựng thêm cơ sở vật chất mua sắm đồ
dùng đồ chơi, trang thiết bị dạy học với nhu cầu dạy học của cô và trẻ để thực
hiện tốt chương trình giáo dục mầm non.
* Đối với phòng GD- ĐT
- Đầu tư thêm kinh phí cho nghành học mầm non và hỗ trợ thêm các trang
thiết bị cho các nhà trường.
- Đề xuất với phòng và cụm cần tổ chức nhiều chuyên đề thiết thực cho
giáo viên học tập.
Trên đây là một số biện pháp “ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng
thông qua bộ môn kể chuyện” đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một lớp
học; nhưng tôi mạnh dạn giới thiệu để chị em đồng nghiệp cùng tham khảo và
đóng góp ý kiến để tôi có thêm kinh nghiệm trong giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!




×