MỘT SỐ THỦ THUẬT
SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG DẠY - HỌC TIẾNG
ANH
PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây việc dạy và học đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đặc biệt luôn trú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Cụ thể Bộ
giáo dục đã cho thực hiện đại trà chương trình thay sách mới từ 6 đến 12. Điều
này đòi hỏi người thầy luôn tìm tòi, phát hiện, thay đổi phương pháp giảng dạy
cho phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới. Có người cho rằng học tiếng
mẹ đẻ đã khó thì việc học ngoại ngữ lại càng không dễ dàng gì. Xét về phương
diện nào đó thì câu nói này vẫn đúng. Thế nhưng theo tôi, học ngoại ngữ sẽ trở
nên dễ dàng hơn nếu ta có phương pháp giảng dạy khoa học phù hợp với nội
dung và đối tượng giảng dạy.
Theo tôi, nội dung sách giáo khoa mới phải dạy theo phương pháp mới,
học sinh đóng vai trò chủ động tìm tòi, tư duy, sáng tạo, giáo viên là người gợi
mở, kích thích tính chủ động sáng tạo của học sinh. Thực tế qua gần 9 năm
thực hiện chương trình sách giáo khoa mới theo phương pháp mới, tôi nhận
thấy có nhiều tiến bộ vượt bật trong giảng dạy và khả năng lónh hội kiến thức
của học sinh. Có nhiều phương pháp và thủ thuật trong việc truyền đạt kiến
thức. Ở đây tôi chỉ xin đề cập đến môn học ngoại ngữ mà tôi đang đảm trách,
cụ thể là môn tiếng Anh.
Những năm trở lại đây môn tiếng Anh dần chiếm ưu thế. Nay, tiếng Anh
đã thực sự trở thành môn học chính thức trong trường phổ thông, tầm quan
trọng của nó không thua gì môn Toán, Lý, hay môn Hoá. Đặc biệt là trong thi
Trang 1
tốt nghiệp 12 và hơn thế nữa đa số các ngành thi vào đại học, cao đẳng đều bắt
buộc phải có môn tiếng Anh.
Đến nay việc dạy-học đã thực sự đi vào quỹ đạo theo chủ trương của Bộ
về thực hiện “Hai không với bốn nội dung”. Trong đó có nội dung học thật, thi
thật, kết quả thật. Điều đó đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải không ngừng
miệt mài nghiên cứu tìm ra phương pháp dạy học tối ưu. Tuy nhiên tình trạng
dạy chay vẫn còn của một số giáo viên hiện nay đã và đang gây khó khăn rất
lớn trong việc truyền đạt kiến thức theo phương pháp mới, cũng như quá trình
lónh hội kiến thức của học sinh hay việc vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc
sống. Chính vì vậy nhiều em học sinh cho rằng môn tiếng Anh thật là khó.
Thực tế cho thấy phần lớn học sinh còn lơ là trong việc học tiếng Anh vì
cảm thấy khó tiếp thu, khó nhớ. Qua tìm hiểu ở một số tiết dạy thậm chí có
một vài em không ghi bài, hay một số em ngồi quay qua quay lại giỡn không
theo chú ý bài. Phải chăng do năng lực giảng dạy hay ta đã bỏ qua một mảng
rất quan trọng nào đó trong quá trình dạy học. Vậy câu hỏi đặt ra là làm sao
nâng cao hiệu quả giờ dạy? Làm sao để chó các em cảm thấy môn Anh thật là
đơn giản và hứng thú học.
Qua quá trình thực dạy, được dự giờ, rút kinh nghiệm ở nhiều thầy cô .
Đến nay tôi nhận thấy nguyên nhân chính không hẳn do năng lực giáo viên,
mà cũng không thể đỗ lổi hoàn toàn cho học sinh. Mà ở gốc độ là người giáo
dục thế hệ tương lai, tôi nhận thấy rằng do ta chưa sử dụng, và khai thác có
hiệu quả các phương tiện dạy học. Ở bài viết này một trong những phương tiện
dạy học tôi đề cập đến đó là thủ thuật sử dụng giáo cụ trực quan trong giờ
dạy tiếng Anh. Đây cũng là lý do tôi chọn đề tài này
Trang 2
PHẦN HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1- Cơ sở lý luận:
Theo tôi sử dụng giáo cụ trực quan là khâu đóng vai trò hỗ trợ tích cực
trong dạy học tiếng Anh, giúp kích thích sự hứng thú và khắc sâu kiến thức của
học sinh.
Ở đây tôi xin nói thêm về sự hứng thú trong học tập của học sinh đó là
điều kiện kiên quyết vừa là phương tiện nghiên cứu giúp học sinh luôn luôn có
động cơ học tập để đạt chất lượng cao. Vì thế hứng thú là khâu không thể thiếu
được trong quá trình học tập của học sinh mà dụng cụ chủ yếu để gây sự hứng
thú đó chính là giáo cụ trực quan như tranh ảnh, hình vẽ, vật thật… Ta có thể sử
dụng đồ dùng trực quan trong suốt quá trình dạy học, từ khâu giới thiệu ngữ
liệu đến khâu thực hành. Vì giáo cụ trực quan giúp cho học sinh ghi nhớ một
cách nhanh chống và vững chắc những kiến thức, kó năng, hiểu được những
khái niệm và những hiện tượng xã hội lạ với thực tế cuộc sống.
2- Nội dung cụ thể và biện pháp thực hiện:
Giáo cụ trực quan rất đa dạng, nếu biết khai thác sẽ trở nên rất đơn giản
dễ chuẩn bò nhưng lại có hiệu quả cao. Có nhiều loại đồ dùng trực quan. Ở bài
viết này tôi chỉ đề cấp đến những loại đồ dùng trực quan mà trong suốt quá
trình giảng dạy tôi đã sử dụng. Trước tiên tôi xin đề cập đến phương tiện trực
quan vốn có ở người thầy đó là lời nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt của giáo viên.
Xét về gốc độ nào đó có người nói rằng người thầy chính là nhạc trưởng, bản
nhạc có du dương trầm bổng hay không đều tuỳ thuộc vào người nhạc trưởng
đó. Thật vậy cũng một câu nói như nhau, có người khi nói ra thì cảm thấy bình
thường, có người khi nói ra khiến cho người nghe cảm thấy thích thú, có ấn
tượng. Chính vì vậy, trong tiết dạy khi đứng trước học sinh lời nói của giáo
viên phải rõ ràng, mạch lạc, diễn cảm, dứt khóat, giáo viên phải đứng ở một vò
Trang 3
trí nhất đònh để cho cả lớp có thể nghe rõ lời nói của mình. Lời nói phải chuẩn
mực, đơn giản và hấp dẫn, tốc độ nói vừa phải phù hợp với từng cấp độ học
sinh. Bên cạnh đó người thầy cũng có những cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để diễn
đạt nội dung ngôn ngữ ví dụ như đưa bàn tay lên vành tai để diễn đạt nghóa
của từ listen hoặc đưa bàn tay ra trước nâng lên, hạ xuống để diễn tả ý nghóa
của từ stand up, sit down, … Ngoài ra ta cũng có thể sử dụng các vật thật có
trong tự nhiên như sân trường, phòng học, các dụng cụ đồ dùng trong và ngoài
lớp: viết, bảng, … cũng như các đồ vật ở gia đình như: cái chai, con dao, cái
muỗng…. Ta cũng có thể sử dụng những sơ đồ, biểu đồ để hệ thống hóa các
phần ngữ liệu đã học như: cách chia động từ, mẫu câu…Do đặc trưng môn học,
đồ dùng phổ biến nhất hiện nay là tranh vẽ, ta có thể phóng to hình có sẳn
trong sách giáo khoa hay tự vẽ theo tình huống. Đồ dùng trực quan loại này thì
trường THPT Khánh Hưng hiện không có đủ như các môn khác. Trên thực tế
trên cấp về chỉ có khoảng 12 tranh lớp 8, một số tranh lớp 6 nên hầu hết phải
tự làm. Đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với tôi cũng như đồng
nghiệp. Chính vì thế tôi phải tự tìm tòi và suy nghó làm sao có đồ dùng trực
quan để dạy. Lúc đầu tôi nghó rằng làm đồ dùng trực quan là một việc thật là
khó và cần có sự hoa mỹ, khéo tay vì chủ yếu là tranh vẽ, muốn vẽ được tranh
ảnh đòi hỏi phải có hoa tay và mất nhiều thời gian. Nên lúc đầu tôi đinh ninh
sẽ không làm được. Nhưng qua nhiều lần làm và sử dụng tôi mới cảm thấy một
họa só chưa từng cầm bút vẽ như tôi cũng có những bức tranh đơn giản để dạy.
Tôi làm công việc nầy bằng nhiều hình thức như phóng to tranh ảnh
bằng cách phô tô hay tự vẽ lên giấy rôki hoặc cắt từ họa báo những hình ảnh
vừa đủ lớn, phù hợp dễ hiểu và có liên quan đến bài học. Thực tế tôi đã vẽ
nhiều tranh và đạt hiệu quả giáo dục khả quan. Cụ thể qua các năm tôi áp
dụng giảng dạy theo phương pháp mới kết hợp với sử dụng giáo cụ trực quan
cuối năm tôi đều đạt chỉ tiêu nhà trường đề ra. Sau đây tôi xin trình bày một số
Trang 4
thủ thuật cũng như những kinh nghiệm mà tôi tích lũy được trong quá trình
giảng dạy về việc sử dụng đồ dùng trực quan.
Ví dụ như khi tôi dạy đến bài giới thiệu các đồ vật có trong nhà (Part A,
unit 3, English 6), tôi đã vẽ phóng to những đồ dùng đó, hay khi dạy cách nói
giờ (Part C, unit 4, English 6) Tôi đã vẽ một đồng hồ lớn trên giấy rôki và có
gắn kim có thể xoay được để hiệu chỉnh giờ kết hợp với việc vấn đáp học
sinh…
Thực tế tôi luôn học hỏi, tìm tòi, sáng tạo ra những giáo cụ trực quan mới
nhằm giúp cho công việc giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn, và tôi cũng đã gặt
hái được nhiều khả quan.
Một ví dụ cụ thể nữa là khi tôi dạy từ về màu sắc (Unit 11, English 6)
nếu chỉ dạy lý thuyết đơn thuần thì học sinh dễ dòch nghóa nhầm lẫn giữa các
màu và mau quên. Nhưng khi dạy có đồ dùng bằng cách vẽ các đồ vật có đủ
các màu sắc lên giấy rôki để dạy thì kết quả cho thấy: học sinh phấn khởi, lớp
học trở nên sôi động, các em hăng hái phát biểu, và khả năng nhớ kiến thức
lâu hơn. Ngoài ra ta cũng có thể sử dụng các đồ vật có màu sắc thực tế ở trong
lớp như: viết, thước, bảng, … để hỏi các em.
Và khi tôi dạy đến phần Liz, Ba, và gia đình của Ba có chuyến du lòch
về miền quê (Unit 3, English 9) Dựa theo nội dung bài học tôi đã tự vẽ thành
một bức tranh có nội dung miêu tả chuyến về quê của họ. Qua tranh vẽ giúp
cho học sinh dễ hiểu hơn và giúp cho tôi dễ dàng hơn từ khâu giới thiệu tình
huống, dạy từ vựng và hơn nữa qua bài học, học sinh có thể tự tóm tắc lại nội
dung bài dựa trên tranh vẽ đó. Tiết dạy này có các giáo viên trong tổ dự rút
kinh nghiệm và được đánh giá cao.
Ta cũng có thể mang vào lớp những đồ vật thật để dạy, đồ dùng trực
quan loại này cũng rất gây sự hứng thú ở các em. Tất nhiên không tranh vẽ
nào có hiệu quả giáo dục bằng cho các em tiếp cận với những đồ vật có thật.
Trang 5