Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.44 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐĂNG TÚ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành:Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số:8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, năm 2020
1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐĂNG TÚ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Ngành:Luật Hiến pháp và Luật Hành chính


Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2020
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và
có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.

Tác giả luận văn

Trần Đăng Tú

3


MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………….....................7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ……..……………………………………13
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự…………….........13
1.2. Khái niệm và mô hình tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án dân

sự...................................................................................................................... 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay………………………………..............................27
Tiểu kết Chương 1………………………………………………………........32
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ
QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH
PHƯỚC............................................................................................................ 33
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và các yếu tố đặc thù làm phát sinh các vụ việc
về thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Phước…………………………………....33
2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước…………...........36
2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Phước……..........38
2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Bình
Phước…………………………………………………………………............47
Tiểu kết Chương 2……............………………………………………………62
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI BÌNH
PHƯỚC……..……………………………………………………..................64
4


3.1. Phương hướng đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh
Bình Phước………………….................................................................................................... 64
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại
tỉnh Bình Phước………………………………………………………...............68
Tiểu kết Chương 3…................…………………………………………………79
KẾT LUẬN……………………………………………..……………...............80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHV

: Chấp hành viên

TKTHA

: Thư ký thi hành án

TTV

: Thẩm tra viên

THA

: Thi hành án

THADS

: Thi hành án dân sự

THAHS

: Thi hành án hình sự

TPL

: Thừa phát lại


TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

TCCB

: Tổ chức cán bộ

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

ANCT

: An nhinh chính trị

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Kết quả THADS về việc tỉnh Bình Phước (từ 2013 – 2019)…….

Bảng 2. Kết quả THADS về giá trị tỉnh Bình Phước (từ 2013 – 2019)…..

6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, công tác THADS được
Chính quyền cách mạng đặc biệt quan tâm, trải qua hơn 70 năm xây dựng và
trưởng thành, với biết bao thăng trầm và biến động, các cơ quan THADS đã
từng bước vượt qua những khó khăn, có những đóng góp quan trọng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
THADS là một lĩnh vực hoạt động cụ thể của cơ quan Nhà nước nhằm
đưa các Bản án, Quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật thi hành
trên thực tế. Bản án, Quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được
chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối
với pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và công dân. Vì vậy, hoạt động THA có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trong đời sống xã
hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Những năm vừa qua, Hệ thống các cơ quan THADS ngày càng được
Đảng và Nhà nước quan tâm, đến nay hệ thống THADS đã được tổ chức thành
hệ thống ngành dọc rõ ràng, từ Trung ương là Tổng cục THADS trực thuộc Bộ
Tư pháp đến địa phương là Cục THADS cấp tỉnh và Chi cục THADS cấp
huyện ngày càng phát triển, hoàn thiện về tổ chức, bộ máy, xác định rõ hơn về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ
chính trị được giao. Theo số liệu thống kê từ năm 2010 đến năm 2019 cho thấy
toàn hệ thống THADS đã thụ lý là 6.822.850 việc với hơn 1.200.141 tỷ đồng.

Số liệu trên cho thấy số việc và số tiền phải THA hàng năm là rất lớn. Tuy
nhiên, cùng với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương và
sự phối hợp của các cơ quan hữu quan, sự nỗ lực, phấn đấu vượt quan mọi khó
khăn của toàn đội ngũ công chức, nhân viên toàn hệ thống, công tác THADS
những năm qua đã đạt được kết quả đáng ghi nhận, về cơ bản hàng năm đều
7


đạt và vượt các chỉ tiêu được cấp trên giao phó; nhiều vụ việc tồn đọng, phức
tạp, kéo dài đã được quan tâm chỉ đạo xử lý, giải quyết dứt điểm, đặc biệt là
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 42/2014/QH14 của Quốc hội về thí
điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Kết quả hoạt động trong lĩnh vực
THADS đã góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu phát triển kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh tỉnh Bình Phước cũng như trong phạm vị cả nước.
Đổi mới hoạt động và nâng cao hiệu quả THADS là một nội dung quan
trọng của công cuộc cải cách tư pháp được ghi nhận trong nhiều văn bản như:
Nghị quyết TW 8 khóa VII; Nghị quyết TW 3 Khóa VIII; báo cáo chính trị tại
Đại hội Đảng qua các kì họp, đặc biệt Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005; Nghị quyết 49 –
NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”; Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội về công tác phòng,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, TAND và công
tác THA năm 2016 và các năm tiếp theo. Gần đây nhất là Nghị quyết số
96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, TAND và công tác THA.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trên, công tác
THADS hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần phải được sửa đổi,
bổ sung kịp thời nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi
hành, như: Hệ thống văn bản pháp luật về THADS còn nhiều bất cập, vướng

mắc, có những quy định còn chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn; cơ sở vật
chất, phương tiện hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn, đầu tư thiếu đồng bộ;
việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, bộ máy còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao; chế độ chính sách đối với người làm công tác THADS
còn chưa tương xứng với tính chất đặc thù công việc; tình trạng khiếu nại, tố
cáo ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp; cơ chế phối hợp trong hoạt động
THADS đạt hiệu quả chưa cao, nhiều lúc, nhiều nơi còn mang nặng tính hình
thức; kết quả công tác THADS đạt được hàng năm chưa thật sự bền vững; án
8


có điều kiện thi hành nhưng kéo dài, chậm giải quyết còn nhiều; đương sự là
người phải THA ngày càng chây ỳ, manh động, thách thức pháp luật nhưng
chế tài xử lý còn yếu... những tồn tại nêu trên cần phải được điều chỉnh kịp
thời bằng cơ chế, biện pháp căn cơ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những
ảnh hưởng có thể làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động công tác THADS
trong thời gian tới.
Với mong muốn góp phần vào quá trình khắc phục những tồn tại, hạn
chế nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" để làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu trong lĩnh vực
THADS, cụ thể:
Đề tài nghiên cứu khoa học: Đề tài cấp Bộ "Mô hình quản lý thống nhất
công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự-Bộ Tư
pháp thực hiện năm 1996[1]; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc
đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do
Bộ Tư pháp chủ trì [2]. Luận văn thạc sĩ luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng Kim Chiến [23]; Luận văn thạc sĩ

Luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy [54]; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt
Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng [38]; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang
Thái [49]; Các bài viết, chuyên đề, giáo trình: Giáo trình môn Luật Thi hành
án dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội [37]; Những nội dung cơ bản của
Luật Thi hành án dân sự - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Thủy, Thạc sỹ luật học Lê
Anh Tuấn - Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp [51].
Những công trình nghiên cứu nêu trên đều có nội dung nghiên cứu về
9


lĩnh vực THADS ở các góc độ, khía cạnh khác nhau. Về nội dung, các công
trình đều đã đề cập đến thực trạng THADS trên phạm vị rộng là toàn quốc
nhưng nhấn mạnh, đi sâu vào từng địa phương cụ thể, đồng thời đưa ra giải
pháp nhằm hoàn thiện các lĩnh vực trong tổ chức và hoạt động THADS của
mỗi địa phương khác nhau. Các công trình đã góp phần từng bước hoàn chỉnh
về thế chế THADS, khắc phục được những hạn chế trong quá trình tổ chức
thực hiện, đặc biệt là góp phần vào việc làm rõ tính cấp thiết của THASDS
trong tình hình mới, đây chính là yếu tố cốt lõi để các cơ quan, tổ chức có chức
năng phải tham mưu cho Chính phủ chỉ đạo xây dựng, trình Quốc hội ban hành
Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
THADS năm 2014, là cơ sở vững chắc, làm căn cứ triển khai thực hiện thắng
lợi chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội giao hằng năm.
Tuy nhiên, chủ đề "Tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án
dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” thì chưa có nghiên cứu nào đề cập. Vì
thế, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu
của đề tài này không trùng lặp với những nghiên cứu trong lĩnh vực THADS
trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS; phân tích, đánh giá thực
trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS từ thực tiễn tỉnh Bình Phước,
từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS nói chung và trên địa bàn tỉnh
Bình Phướcnói riêng
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, Luận văn phải hoàn thành
các nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây, cụ thể:
- Kết quả nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trong tổ chức
10


và hoạt động của cơ quan THADS;
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Bình
Phước hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận
và thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của THADS.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt
động của THADScấp tỉnh và THADScấp huyện trong tỉnh Bình Phước kể từ
khi cơ quan THADSđược chuyển giao từ Tòa án sang Chính phủ quản lý,
tháng 7 năm 1993 nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật
THADSnăm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009đến nay
(Luật THADSnăm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn sẽ được nghiên cứu dựa trên cơ sở

phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của dân, do dân và vì dân; nghiên cứu về quyền con người và quyền
công dân; thủ tục cải cách hành chính và những vấn đề cải cách tư pháp có liên
quan đến lĩnh vực tổ chức và hoạt động THADS.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: Hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, kết hợp với các
phương pháp khác như so sánh, khảo sát thực tiễn…Trong đó, tại chương 1 sẽ
nghiên cứu về tổng thể công tác THADS, trong đó đi sâu phân tích quá trình
hình thành và phát triển THADS tại Việt Nam; chương 2 sẽ nghiên cứu thực
trạng tổ chức và hoạt động về THADS tại Việt Nam nhưng đi sâu nghiên cứu
thực trạng về tổ chức và hoạt động về THADS tại Bình Phước, có số liệu minh
chứng cụ thể của từng năm; chương 3 sẽ tập trung nghiên cứu, đưa ra các giải
11


pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức và hoạt động về THADS, nhất là đối
với các cơ quan THADS trong tỉnh Bình Phước thời gian tới...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu cơ bản toàn diện, hệ thống đầy đủ các vấn đề lý
luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động THADSở nước ta nói chung và tỉnh
Bình Phước nói riêng; đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về THADS, góp phần vào tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với
lĩnh vực THADS, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới và hội nhập quốc
tế ngày nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực THADS, nhất là những địa phương có những
đặc thù về địa bàn, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế tương đồng với tỉnh Bình
Phước.
7. Kết cấu của luận văn

Sau phần mở đầu, Luận văn được kết cấu thành 03 Chương (Chương 1,
2, 3), sau đó là kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động THADS.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS từ
thực tiễn tỉnh Bình Phước.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động
THADS tại tỉnh Bình Phước.

Chương 1
12


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỔ CHỨC VÀHOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải
quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền
lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan THADS tổ chức
thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành phần dân sự của
bản án, quyết định của Tòa án được gọi là THADS.
THADS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn
kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền và lợi ích
liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành trên thực
tế. Đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trên thực tế, bảo đảm
tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án bảo vệ kịp thời các
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích
liên quan. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu

lực của Tòa án, hoạt động THADS còn góp phần phát hiện sai sót của các quá
trình tố tụng dân sự của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh
hưởng đến quyền lợi cho công dân, đương sự và không phù hợp với hiện trạng
thực tế như lĩnh vực về đất đai, nhà ở, công trình kiến thúc xây dựng…, từ đó
kiến nghị đến Tòa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại nhằm bảo vệ quyền lợi
cho các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan. Tuy nhiên, việc tổ
chức THADS không những chỉ đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mà còn phải tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định
chưa có hiệu lực nhưng phải thi hành ngay trong những trường hợp pháp luật
quy địnhcụ thể tại Điều 2, Khoản 2 của Luật Thi hành án dân sự “Những bản
án, quyếtđịnh sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có
thể bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương,
13


trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao
động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần,
nhận người lao động trở lại làm việc;b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời” [39].
Hiện naycòn cónhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về tính chất của hoạt
động THADS.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: hoạt động THADS là một hoạt
độngtưpháp vì nó là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu
trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ
liên quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ
luật Tố tụng Dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt động tư pháp, là giai
đoạn cuối của tố tụng dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: hoạt động THADS không phải là hoạtđộng
tư pháp, bởi vì không những thi hành các vụ án dân sự, mà còn có trình tự, thủ
tục thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương mại,

hành chính, lao động…, trình tự tổ chức thi hành theo một trình tự thủ tục hành
chính. Vì vậy, THADS là một loại hoạt động hành chính bởi bản chất và mục
đích của THADSkhông giống với hoạt động tố tụng nên không được xem nó là
hoạt động tố tụng dân sự. Quan điểm này cho rằng bản chất, mục đích của hoạt
động tố tụng dân sự có nhiệm vụ xác định sự thật khách quan trong các vụ án
dân sự, vụ việc dân sự và có những phán quyết cuối cùng đúng theo quy định
của pháp luật. Khi đưa ra những phán quyết đó, cơ quan tiến hành tố tụng và
những cá nhân tiến hành tố tụng phảithực hiện theo một quy trình tố tụng chặt
chẽ và công khai, minh bạch trong khi hoạt động THADS thì thực hiện theo
những quy định mà điều luật đã được định sẵn. Tức là cơ quan THADS chỉ
phải đưa ra một quyết định mang tính hành chính được áp dụng bằng một hoặc
nhiều văn bản cá biệt (Nghị định, Thông tư...) để điều chỉnh hoạt động của cá
nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ THA và chủ thể được THA. Ngoài ra,
THADS còn có thể coi là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này là
14


hoạt động chấp hành và điều hành, theo đó mà nó mang tính quản lý hành
chính nhà nước rõ nét.
Quan điểm thứ ba cho rằng, THADS là hoạt động “lưỡng tính”,
vừamang tính chất hành chính, vừa mang tính chất tư pháp chứ không thể chỉ
có riêng tính chất hành chính, hoặc riêng tính chất tư pháp. THADS là một
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và CHV thực
hiện nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án đi
vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên thực tế luôn gắn liền với quy
trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng, gắn với quyền lực
hành pháp. Đồng thời, cũng qua hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức có
nghĩa vụ phải THADS phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Trong
trường hợp không thi hành quyết định THA thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu
sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ

liên quan. Tuy nhiên, việc thi hành án không chỉ do các chủ thể có thẩm quyền
thực hiện mà có khi nó được thực hiện một cách tự giác bởi người có nghĩa vụ
THA. Khi nào các bản án, phán quyết không được thi hành một cách tự
nguyện bởi người có nghĩa vụ thì hoạt động cưỡng chế THA của chủ thể có
thẩm quyền mới cần phải thực hiện.
Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý nhưng theo tác giả, quan điểm
thứ ba là phù hợp hơn cả. Bởi vì, xuất phát từ thực tiễn công tác THADSở
nước ta cùng với những quy định của pháp luật về THADS hiện hành cho thấy:
THADS là hoạt động đặc thù, là giai đoạn thực thi cuối cùng của cả quytrình tố
tụng trước đó (điều tra, truy tố, xét xử) nó mang cả tính chất của hoạt động
hành chính, cả tính chất của hoạt động tư pháp.
Trên cơ sở những lập luận, phân tích nêu trên, có thể hiểu: THADS là
hoạtđộng vừa mang tính hành chính –vừa mang tính tư pháp và do cơ quan, tổ
chức, cá nhân được pháp luật giao cho thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ
tục luật định nhằm đưa những bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết
định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực
15


hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
trong các quan hệ dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Thứ nhất, THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước. Nó
bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia
của chủ thể không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư
pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của chính người có nghĩa vụ THA. Như đã
phân tích, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong THADS là sự ''lưỡng tính”
giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy nhiên, do có sự tham gia của chủ
thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt động thực hiện các phán quyết

của các chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc công nhận (phán quyết của
trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa các bên đương sự nên THADS
không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà nước . Vì vậy THADS không hoàn
toàn dùng các biện pháp cứng nhắc của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, THADS là hoạt động có mục đích là để thực hiện lợi ích của
người được THA. Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà
nước là đối tượng trực tiếp được THA thì hoạt động THADS còn góp phần giữ
vững kỷ cương, phép nước, giữ vững giá trị của pháp luật trong đời sống xã
hội. Đồng thời THADS còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có
liên quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định THADS.
Thứ ba, THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà
án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn trong
việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân sự. Tính
tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được THADS được tôn trọng. Do đó,
trong quá trình THADS, cơ quan THADS luôn luôn bảo đảm quyền tự nguyện,
tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực hiện hay không thực
hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đếnTHA mà cơ
quan này không được tự tiện can thiệp.
16


Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng caochất
lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những
người có uy tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc
điểm tính chất vụ án dân sự đa dạng, phức tạp, một số yếu tố như sự tác động
của những người có vị trí trong xã hội hay sự hấp dẫn của vật chất có thể làm
thay đổi quan điểm của công chức trực tiếp THA. Trong khi đó qui định của
pháp luật về nội dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa
chặt chẽ, thiếu sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng,
không khả thi ở thực tế. Cơ quan THADS, CHV không chỉ làm cho các bản án

hoặc phán quyết được tôn trọng mà còn có thể phát hiện ra những sai sót của
bản án, quyết định của Toà án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến nghị với
người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết
định đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy,
THADS chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những bản án, quyết
định của Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn THA mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục
những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi cao của
bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ năm, THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phươngthuần
túy như THAHS. THADS có thể có sự hợp tác của các chủ thể khác, điều này
có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các bản án đã tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc khi có sự tham gia của Thừa phát lại. Mặt
khác, THADS chỉ do cơ quan THA thực hiện khi có sự yêu cầu của người
được thi hành bản án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chủ động
thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định như các khoản thi hành
theo khoản 1, Điều 36 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014[38].
Ngay trong quá trình THA, các chủ thể THA còn có nghĩa vụ thuyết phục các
bên thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau để cho bản án được thực hiện một cách
thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà
17


không cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA. Vì vậy, không phải bao
giờ hoạt động THA cũng chỉ là thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần
túy để áp đặt cho các đương sự liên quan đến phán quyết.
1.1.3. Vai trò của THADS
THADS là công đoạn cuối cùng của cả một quá trình tố tụng, làm cho
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật nên có vai trò quan trọng,
thể hiện ở các khía cạnh dưới đây:
Một là, Mọi bản án, quyết địnhcủa toà án có hiệu lực pháp luật hoặc
quyết định của những cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được
thực hiện trong thực tế thông qua kết quả của hoạt độngTHADS. Rất khó trông
chờ vào sự tự nguyện thi hành của người phải THA, đặc biệt là đối với chủ thể
bắt buộc phải chấp hành nếu không có “giai đoạn” THA. Biện pháp cưỡng chế
THADS theo quy định của pháp luật là công cụ pháp chế bảo đảm tính hiệu
lực cho bản án, quyết định của tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm
quyền được thực hiện.
Hai là, quyền, lợi ích của người được THA sẽ được bảo đảm, các chủ
thể chấp hành đúng các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình khi quyết định, bản án
của Tòa án và quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền được thi hành trong
thực tế. Và khi đó, việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và Nhà nước sẽ được thực thi, góp phần giữ vững ổn định chính trị, TT ATXH.
Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.THADSđược
thực hiện bởi các chủ thể được Nhà nước trao quyền. Việc tổ chức và hoạt
động của cơ quan THADS được tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ trung
ương đến cấp tỉnh, cấp huyện và cơ quan THA quân sự mà đảm bảo việc áp
dụng thống nhất các quy định của pháp luật, cơ chế quản lý về mặt tổ chức,
nhân sự, hoạt động trong THADS từ trung ương đến địa phương, góp phần
18


nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực
THA, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước.
Bốn là, THADS đã, đang và sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật.THADS chứa đựng những chế định quan trọng

của tố tụng dân sự và luôn được pháp luật thừa nhận, điều chỉnh. Mọi tổ chức,
cá nhân thực hiện đúng các quy định pháp luật về THADS trong thực tế đã góp
phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật điều chỉnh mọi chủ
thể khi tham gia trong các quan hệ về THADS nhằm tăng cường và góp phần
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN.
Năm là, góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho công dân. Một
trongnhững vai trò quan trọng của THADS chính là việc góp phần giáo dục ý
thức pháp luật đến với công dân. Thông qua hoạt động THADS, các quy định
về pháp luật dân sự, quy định pháp luật về THADS được tuyên truyền, phổ
biến, thẩm thấu vào các chủ thể đương sự bao gồm người được THA án và
người phải THA, các cá nhân có liên quan, qua đó, nâng cao được hiểu biết
của công dân về pháp luật.
1.2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
1.2.1. Tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự
Khái niệm tổ chức thi hành án dân sự
Sự giao thoa về đối tượng, phạm vi nghiên cứu ngay trong những
chuyên ngành khoa học cũng có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về
“Tổ chức”, cụ thể là:
Quy định về tên gọi là ”Pháp nhân” đối với ”Tổ chức” trong Luật học
(khoa học luật dân sự) nhằm để phân biệt với thể nhân (con người) chính là các
chủ thể của quan hệ trong pháp luật dân sự. Một tổ chức được công nhận là
pháp nhân theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 khi được thành lập
hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức
19


khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các
quan hệ pháp luật một cách độc lập. Các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu
cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức đều được quy định chặt chẽ trong pháp luật
hiện hành.

Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước”
định nghĩa: “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức,
có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục
tiêu chung (của tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ chức
nhà nước có nhiều điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó
nhấn mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối
một cách có ý thức). Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức thể
hiện ở ý nói về phạm vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động khác
nhau phụ thuộc vào các yếu tố chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu,
nguồn lực của tổ chức đó. Các yếu tố này là những điều kiện của tổ chức.
Trên cơ sở khái niệm THADS và khái niệm “tổ chức”, liên hệ từ mô
hình tổ chức THADS được quy định trong pháp luật về THADS ở nước ta hiện
nay, có thể hiểu:”Tổ chức THADS là cơ quan trong bộ máy hành chính của
Nhà nước và được tổ chức theo hệ thống dọc, chặt chẽ, thống nhất từ trung
ương đến địa phương;có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Toà án khi đã có hiệu lực pháp luật và các
quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; bộ máy tổ
chức được biên chế gồm các công chức như: CHV, TTV, TKTHA, kế toán,thủ
kho – thủ quỹ, công chức làm công tác thống kê vv...., được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước”.
Mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự:
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban
hành, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, đặt cơ sở pháp
lý đầu tiên cho tổ chức THADS Việt Nam. Trải qua hơn 70 năm phát triển và
trưởng thành (19/7/1946-19/7/2020), cả trong giai đoạn mô hình cơ quan
20


THADS trực thuộc Tòa án, do Tòa án quản lý và giai đoạn từ năm 1993 đến
nay, hệ thống các cơ quan THADS trực thuộc Chính phủ do Chính phủ thống

nhất quản lý (từ ngày Pháp lệnh THADS năm 1993 có hiệu lực thi hành, ngày
01/6/1993). Ở cả hai giai đoạn này, mô hình hệ thống các cơ quan THADS đều
có tính hợp lý trong từng thời điểm cụ thể, phù hợp với thực tiễn và đòi hỏi tất
yếu mang tính khách quan theo chủ trương cải cách bộ máy nhà nước nói
chung và cải cách tư pháp nói riêng của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống và cơ cấu tổ chức cơ quan THADS
Điều 13 Luật THADS 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định:
hệ thống tổ chức THADS hiện nay gồm cơ quan quản lý THADS và cơ quan
THADS [38]. Theo đó, cơ quan quản lý THADS gồm cơ quan quản lý THADS
thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Quốc phòng. Hướng
dẫn thực hiện Luật THADS, Điều 52 và Điều 54 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
lần lượt quy định về hệ thống tổ chức THADS và hệ thống tổ chức THA trong
quân đội như sau: (1) Hệ thống tổ chức THADS được tổ chức và quản lý tập
trung, thống nhất gồm: Trung ương có Tổng cục HADS là cơ quan quản lý
THADS trực thuộc Bộ Tư pháp; ở cấp tỉnh có Cục THADS là cơ quan THADS
trực thuộc Tổng cục THADS; ở cấp huyện có Chi cục THADS là cơ quan
THADS trực thuộc Cục THADS. (2) Hệ thống tổ chức THA trong quân đội
gồm: Bộ Quốc phòng có Cục THA Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý THA
trưc thuộc Bộ Quốc phòng; ở quân khu và tương đương có Phòng THA quân
khu và tương đương là cơ quan THA trực thuộc quân khu và tương đương [26].
Cục THADS cấp tỉnh thực hiện chức năng THADS, THA hành chính, có
nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục THADS quản lý một số mặt công
tác tổ chức, cán bộ của cơ quan THADS địa phương và thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Chi cục THADS cấp huyện
thực hiện chức năng THADS, đôn đốc THA hành chính và thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
21


Theo nguyên lý chung, tổ chức muốn hoạt động tất yếu phải có các thiết

chế, thành phần, cơ cấu của tổ chức. Như vậy các cơ quan trong hệ thống
THADScũng phải có kết cấu tổ chức bộ máy theo những nguyên lý chung ấy.
Đối với cơ quan quản lý THADSlà Tổng cục THADS vì chức năng cơ bản là
thực hiện công tác quản lý, chính vì vậy các cơ quan, đơn vị trực thuộc cơ
quan này đều được thành lập để thực hiện chức năng tham mưu trong hoạt
động chỉ đạo, điều hành, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn việc tổ chức THA. Đối
với cơ quan THADScấp tỉnh tuy có chức năng cơ bản là tổ chức thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án, nhưng do là cơ quan ở cấp trung gian nên cơ
quan này cũng có chức năng quản lý, điều hành đối với cơ quan cấp dưới, do
đó cơ cấu tổ chức của cơ quan THADS cấp tỉnh cũng cần thiết phải có các đơn
vị trực thuộc như: Văn phòng, Phòng TCCB, Phòng nghiệp vụ và tổ chức
THA, Phòng Kiểm tra – giải quyết khiếu nại, tố cáo để tham mưu công tác chỉ
đạo, điều hành, quản lý hoạt động tổ chức THADS. Đối với cơ quan THADS
cấp huyện, là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức các cơ quan THADS, có
chức năng chủ yếu là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo
thẩm quyền, công tác quản lý chỉ thực hiện trong nội bộ nhằm duy trì hoạt
động đơn vị, do đó cơ quan THADS cấp huyện không cần thiết phải có cơ cấu
tổ chức đơn vị trực thuộc mà Thủ trưởng đơn vị phân công, chỉ đạo công việc
trực tiếp cho công chức, người lao động thực hiện.
Về nhân sự, bao gồm: đội ngũ lãnh đạo( lãnh đạo Tổng cục, lãnh đạo đơn
vị cấp Vụ thuộc Tổng cục; lãnh đạo Cục, lãnh đạo cấp Phòng chuyên môn
thuộc cục; lãnh đạo cấp Chi cục), đội ngũ các chức danh tư pháp (Chấp hành
viên, Thẩm tra viên, Thư ký THA...) và các công chức, viên chức khác. Cơ
quan THADS hoạt động theo chế độ thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan có
toàn quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm cá nhân về mọi vấn đề trong
phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức do mình quản lý. Theo đó ở trung
ương Tổng cục trưởng Tổng cụcTHADS được trao nhiệm vụ, quyền hạn và
phân cấp quản lý một số công việc, chịu trách nhiệm về công việc, lĩnh vực
được giao phụ trách trước Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Đối với cơ quan THADS tại
22



địa phương, Cục trưởng Cục THADS cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Tổng
Cục trưởng Tổng cục THADS và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Cục
THADS cấp tỉnh. Chi cục trưởng Chi cục THADS cấp huyện chịu trách nhiệm
trước Cục trưởng Cục THADS cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ hoạt
động của Chi cục THADS cấp huyện.
1.2.2. Hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự Khái niệm hoạt động thi hành án dân sự
Hoạt động THADS là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực trong xã hội
mà cụ thể, đó là thi hành những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án là những giai đoạn đầu của quá
trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong đó mới chỉ giải
quyết nội dung vụ án, xác định được quyền và nghĩa vụ của các đương sự, còn
phán quyết của Tòa án có trở thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào quá
trình thực thi nó trong cuộc sống. Chỉ khi được tổ chức thực hiện thì bản án,
quyết định của Tòa án mới có hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực
hiện. Bên cạnh đó, quá trình tổ chức thực hiện các bản án, quyết định của Tòa
án cũng chính là giai đoạn kiểm nghiệm thực tiễn những phán quyết của Tòa
án, phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Từ việc
thực hiện pháp luật THADS, cán bộ ngành Tòa án có thể rút ra cho mình
những bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử.
Vì hoạt động THADS là quá trình triển khai, tổ chức thực hiện pháp luật
trong một lĩnh vực cụ thể, cho nên khái niệm hoạt động THADS cũng có đầy
đủ các nội dung cơ bản của khái niệm THA nói chung; đồng thời nó còn chứa
đựng những phương hướng, mục tiêu cụ thểtheo đường lối, chủ trương của
Đảng về THADS. Trên cơ sở đó, có thể hiểu khái niệm hoạt động THADS như
sau:
Hoạt động THADS là ”quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui
phạm pháp luật về THADS trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các

chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống, trở thành những
23


hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy hiệu lực của
các bản án, quyết định của Toà án, đảm bảo các bản án, quyết định được tôn
trọng và thi hành nghiêm chỉnh”.
Đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự
Hoạt động THADS được thể hiện ở chỗ các chủ thể thi hành pháp luật
THADS thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực, đó có
thể là cơ quan THADS chủ động tổ chức THA đối với những khoản thu ngân
sách cho nhà nước như án phí, tịch thu sung công quỹ..... những loại này, cơ
quan THADS tự mình ban hành các quyết định THA và tổ chức thực hiện và được
gọi là án chủ động. Đối với loại án theo đơn yêu cầu thì cơ quan THADS căn cứ
vào Bản án, quyết định của TA trên cơ sở xem xét đơn yêu cầu THA của các bên
đương sự. Cơ quan THA có trách nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung của bản
án, quyết định; người được THA, người phải THA, người có quyền, nghĩa vụ liên
quan đến việc THA phải nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng. Trên cơ sở chức trách được
pháp luật quy định, CHV chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ việc làm
của mình trong quá trình tổ chức THA; chủ động phối hợp với các cơ quan hữu
quan để giải quyết các vấn đề có liên quan đến THA. Đối với những vụ việc phải
cưỡng chế có huy động lực lượng hoặc tổ chức tiêu hủy vật chứng thì CHV thực
hiện việc điều hành cả các thành viên thuộc các cơ quan, tổ chức khác có tham gia
vào quá trình THA. Ví dụ: làm Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế, Chủ tịch Hội đồng
định giá tài sản, tiêu hủy tài sản...

Trong hoạt động THADS, các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật
THA theo ý chí của mình trong việc THA, đó có thể là cơ quan THA chủ động

quyết định THA (án phí, lệ phí Tòa án, trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa
án; hình phạt tiền; tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất
chính; xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ; thu hồi đất theo quyết định của Tòa
án; quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án); người được THA và người
24


phải THA yêu cầu cơ quan THA tổ chức THA. Quyết định THA chỉ được ban
hành và tổ chức thực hiện dựa trên bản án, quyết định của TA khi đã có hiệu
lực pháp luật và có đơn yêu cầu THA của các bên đương sự. Khi người được
THA có yêu cầu hoãn THA hoặc các bên đương sự thỏa thuận về THA mà
không trái quy định của pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội, không làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba thì CHV phải thực hiện theo yêu
cầu, thỏa thuận của đương sự.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự.
1.3.1. Yếu tố kinh tế - xã hội
Ở mỗi quốc gia, khi có nến kinh tế - xã hội phát triển ổn định sẽ có
những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động của các tổ chức trong
quốc gia đó, trong đó hệ thống THADS là một trong những cơ quan chịu sự tác
động rất lớn đến kết quả thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ của mình. Bên cạnh
những yếu tố tích cực từ yếu tố kinh tế - xã hội đem lại, bao giờ cũng đi kèm
theo nó là những yếu tố tiêu cực, những mặt trái của xã hội cũng theo cùng.
Kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng, tác động không nhỏ tới hoạt động THADS,
bởi nếu nền kinh tế tăng trưởng ổn định, tạo ra nguồn thu ngân sách lớn thì
Nhà nước sẽ điều kiện quan tâm, đầu tư kinh phí hoạt động, cho phát triển cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, khởi nghiệp quốc gia,
…nói chung và các cơ quan trong hệ thống THADS nói riêng. Khi kinh tế phát
triển sẽ tạo ra nhiều việc làm, thu nhập của người lao động được tăng lên sẽ tác
động tích cực đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Cùng với đó là

sự thay đổi về trình độ dân trí sẽ tác động tích cực tới nhận thức và ý thức chấp
hành pháp luật của người dân; kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều của cải cho xã
hội và nó là nguồn tài chính để tổ chức, cá nhân bù đắp cho các rủi ro trong
hoạt động giao dịch, làm ăn kinh doanh. Kinh tế phát triển sẽ kích thích và là
cơ sở để tổ chức một nền tài chính minh bạch và khi đó, thu nhập của tổ chức,
cá nhân được quản lý chặt chẽ sẽ giúp cơ quan THADS thuận lợi trong xác
minh, xử lý các khoản tài chính, thu nhập của người phải THA, là điều kiện để
25


×