Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số giải pháp chỉ đạo công tác dạy và học giúp HS lớp 5 phân biệt từ nhiều nghĩa từ đồng nghĩa, từ đồng âm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.89 KB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt là một môn học quan trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương
trình Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh.
Học Tiếng Việt học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu cần thiết
giúp các em hoà nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội.
Cùng với môn toán và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng Việt sẽ là
những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu nghiên cứu
thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người.
Hiện nay, mục tiêu của giáo dục tiểu học là nâng cao chất lượng toàn diện,
nhà trường Tiểu học là cái nôi cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học, kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết giúp học sinh hình thành và phát triển trí thông minh và hình
thành nhân cách cho học sinh. Với tư cách là một môn học độc lập, Tiếng Việt có
nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống
âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp khả năng biểu cảm của ngôn ngữ quy tắc
họat động của ngôn ngữ). Ngoài ra Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy
cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là:
Trang bị cho học sinh một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa
học trong nhà trường. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức
năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp,
hình tượng nghệ thuật. Trong văn học học sinh phải thấy được vẻ đẹp của ngôn
ngữ,vì thế ở trường tiểu học.. Để đạt được hiệu quả giữa hai môn Văn - Tiếng Việt
đòi hỏi người giáo viên cần phải có những phương pháp dạy học phù hợp với đặc
trưng của bộ môn này, phải có kiến thức Tiếng Việt vững vàng và không ngừng học
để nâng cao trình hỏi độ.
Qua thực tế dự giờ của giáo viên ở trường sở tại, trường bạn, tôi nhận thấy việc dạy
và học về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm còn có một số tồn tại sau:
+ Giáo viên truyền kiến thức về khái niệm từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng
âm còn máy móc, rập khuôn và sơ sài, lấy ví dụ mà chưa hiểu được bản chất 1



của nó, chỉ bó hẹp trong phạm vi sách giáo khoa. Khi thoát khỏi phạm vi này thì
học sinh hầu hết đều luống cuống và nhầm lẫn.
+ Khi thể hiện tiết dạy hầu như giáo viên chỉ chú ý đến đối tượng học sinh
năng khiếu, còn lại đa số học sinh khác thụ động ngồi nghe, từ đó tạo nên không
khí một lớp học trầm lắng học sinh làm việc tẻ nhạt, thiếu hứng thú không tạo được
hiệu quả trong giờ học.
+ Trong những bài dạy về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm hầu
như GV ít đọc tài liệu tham khảo, ít học hỏi và trao đổi với đồng nghiệp. Mặt khác
còn có một số tồn tại khách quan.
Từ những tồn tại đó còn tiềm ẩn trong mỗi tiết dạy để rồi học sinh tự dấu đi
những kiến thức tài năng sẵn có và những gì đã được học tập, lĩnh hội ở nhà trường
sư phạm rồi dần dần đánh mất. Trước thực trạng như vậy và rút kinh nghiệm qua
nhiều năm làm công tác quản lý và phụ trách chuyên môn khối 4,5, năm nay tôi có:
“Một số giải pháp chỉ đạo công tác dạy và học giúp HS lớp 5 phân biệt từ nhiều
nghĩa - từ đồng nghĩa, từ đồng âm”. Nhằm chia sẻ với Giáo viên giúp học sinh
tháo gỡ những lầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm tạo nền
tảng để các em học tốt môn Tiếng Việt. Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa
các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm. Góp phần làm giàu thêm vốn từ
cho HS .Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tác được ý nghĩa
từ vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ và Giúp học sinh có năng lực sử
dụng từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm trong sinh sản văn bản bằng hình
thức nói họăc viết, để từ đó các em sử dụng được Tiếng Việt văn hóa làm công cụ
giao tiếp tư duy.
Vì vậy, bản thân tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:“Một số giải pháp chỉ đạo
công tác dạy và học giúp HS lớp 5 phân biệt từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa, từ
đồng âm” để nâng cao chất lượng dạy học của trường mình .
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài này nghiên cứu với mục đích:

2



- Tôi nhận thấy: Từ nhiều nghĩa-từ đồng nghĩa, từ đồng âm ,đây là một
lượng kiến thức tương đối khó phân biệt đối với học sinh. Không những thế một số
giáo viên có năng lực hạn chế cũng rất lúng túng và giáo viên cần phải nắm vững
để có thể hướng dẫn học sinh hiểu kĩ và phân biệt được.
- Giúp giáo viên và học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa
- từ đồng nghĩa - từ đồng âm. Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho HS.
- Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tác được ý nghĩa từ
vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ.
- Giúp HS có năng lực sử dụng từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm
trong sinh sản văn bản bằng hình thức nói họăc viết, để từ đó các em sử dụng được
Tiếng Việt văn hóa làm công cụ giao tiếp tư duy.
Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích
đóng góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với
việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp
dụng vào thực tiễn giảng dạy môn học tốt môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học
Đông Cương nói riêng, trong ngành giáo dục Tỉnh Thanh Hóa nói chung. Điều này
càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, đồng thời là chất lượng học tập của các em
học sinh cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số giải pháp chỉ đạo công tác dạy và học giúp HS khối lớp 5 trường
Tiểu học Đông Cương phân biệt từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa, từ đồng âm.
- Trong quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi có chú ý phân loại đối
tượng học sinh theo mức hoàn thành và chưa hoàn thành.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu vấn đề lí luận.
2. Nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cho HS.
3



3. Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc dạy - học từ nhiều nghĩa -từ
đồng nghĩa - từ đồng âm
* Các phương pháp thực hiện đề tài:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Chọn đề tài này để nghiên cứu, tôi đề ra những nhiệm vụ cho từng giai đoạn
như sau: Giai đoạn 1: Học kỳ 1
+ Điều tra phân loại đối tượng học sinh Khối lớp 5. Từ đó mạnh dạn áp dụng
những biện pháp nhằm giúp học sinh yêu thích và học tốt Luyện từ và câu trong
chương trình Tiếng Việt lớp 5.
+ Trên cơ sở các giải pháp đã áp dụng, tôi sẽ rút ra những bài học kinh
nghiệm trong việc chỉ đạo dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.
Giai đoạn 2: Học kỳ 2
Phát triển sáng kiến kinh nghiệm thành đề tài nghiên cứu. Tiếp tục áp dụng
những biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 5, nhất là học sinh ở mức chưa hoàn thành
yêu thích và học tốt môn Tiếng việt.
Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm
nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu “Một số giải pháp chỉ đạo
công tác dạy và học giúp HS lớp 5 phân biệt từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ
đồng âm”. Với phạm vi nghiên cứu như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả
khả quan, góp phần thực hiện nhiệm vụ được giao của một quản lý giáo dục trong
giai đoạn mới.

4



2- Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Nguyên tắc dạy học
Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cỏ bản có tính quy luật của lí luận
dạy- học, có tác dụng chỉ đạo toàn bộ tiến trình giảng dạy và học tập phù hợp với
mục đích dạy-học nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy-học.
Đây là nguyên tắc đòi hỏi người giáo viên trong việc dạy từ nhiều nghĩa- từ
đồng nghĩa - từ đồng âm là phải tiến hành ở mọi nơi trong tất cả các môn học .Dạy
từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa -từ đồng âm phải trở thành một bộ phận không thể
thiếu được của mỗi giờ Tiếng Việt , đặc biệt là phần dạy về từ vựng Tiếng Việt cần
chú trọng đi sâu về bản chất của từ nhiều nghĩa –từ đồng nghĩa - từ đồng âm.
Nguyên tắc thực hành : Đòi hỏi họat động ngôn ngữ thường xuyên , đó là
những bài tập miệng , bài viết trình bày ý nghĩa, ứng dụng lí thuyết vào thực hành
vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của ngữ pháp, chính tả, tập làm văn .Dạy
từ nhiều nghĩa -từ đồng nghĩa - từ đồng âm phải gắn làm giàu những biểu tượng tư
duy bằng con đường quan sát trực tiếp và thông qua những mẫu lời nói, hội thoại
Nguyên tắc cụ thế : HS tiểu học còn nhận thức theo kiểu “trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn nên giai đoạn đầu
khi giới thiệu về từ nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, từ đồng âm cần phải tác động bằng
kích thích vật thật và bằng lời. Mặt khác các em cần được nghe, thấy, phát âm và
viết từ mới để các em nói thành tiếng hoặc nói thầm đều do chúng quan sát được.
Nguyên tắc tính đến đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ:
Nghĩa là khi dạy từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa- từ đồng âm cần được trình
bày như là việc thiết lập quan hệ giữa từ và yếu tố hiện thực, quan hệ giữa từ với
một lớp sự vật cùng loại được biểu thị bởi từ. Đó là hai mặt hình thức và nội dung
của tín hiệu từ, hai mặt này gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau, phải làm cho HS
nắm vững hai mặt này và mối tương quan giữa chúng .
2.1.2. Phương pháp dạy - học
5



Khái niệm: Phương pháp dạy-học là tổ hợp cá cách thức họat động
của thầy và trò trong quá trình dạy -học dưới sự hứơng dẫn chỉ đạo của
thầy nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học
Các phương pháp dạy-học cơ bản
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp thực hành luyện tập
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Về đặc điểm của nhà trường:
Năm học 2016 - 2017 Trường tiểu học Đông Cương có 810 học sinh với
tổng số 32 cán bộ giáo viên. Ban giám hiệu vững về chuyên môn, có bề dày kinh
nghiệm trong giảng dạy và nhiều giáo viên là giáo viên giỏi cấp Thành Phố và giỏi
Tỉnh, đã có nhiều tiết thao giảng về từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa- từ đồng âm song
phần nào còn có nhiều hạn chế như: các tài liệu tham khảo còn thiếu, các phương
pháp dạy-học chưa đầy đủ phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy- học trong nhà
trường.
Về đặc điểm của khối lớp 5:
Khối lớp 5 của nhà trường năm học này có 4 lớp,155 học sinh, trong đó có
không ít học sinh yếu kém tư duy chậm. Một số phụ huynh thiếu sự quan tâm đến
việc học của con cái, số lượng học sinh đông, ý thức học của một số học sinh còn
yếu .
Kết quả điều tra khảo sát chất lượng đầu vào của học sinh.
Vào đầu năm học 2016- 2017, sau khi học xong bài Luyện từ và câu đầu tiên
của các dạng bài tập này, tôi đã cho khối 5 khảo sát chất lượng học sinh, bằng cách
cho các từ sau: “xanh, xanh biếc, xanh lè, trắng muốt, trắng toát, trắng ngần, trắng
tinh, Đồng (tiền), (cánh ) đồng, bàn (việc), (cái) bàn, (Thè) lưỡi, lưỡi liềm, lưỡi hái,
lưỡi dao, lưỡi cày, lưỡi lê, lưỡi gươm”


6


Yêu cầu học sinh xác định và phân thành 3 nhóm : Từ đồng nghĩa; từ nhiều
nghĩa; từ đồng âm.
Kết quả các em làm được là :
-Số HS làm đúng (đạt điểm 7- 10 ) :

51/155 em

-Số HS đạt điểm 5-6 :

79/155 em

-Số HS còn chưa đạt ( dưới 5) :

25/155 em

Như vậy nhìn chung học sinh nắm bài về từ nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, từ
đồng âm chưa chắc chắn, chưa chính xác .
Qua một số bài tập làm văn mà học sinh khối 5 đã làm do không hiểu được
nghĩa của từ và cách sử dụng nó nên khi viết bài văn về“tả cây bóng mát mà em
yêu thích”. có đoạn viết :“Lá bàng xanh, thân bàng nâu, quả bàng cũng màu
xanh ...”. Hoặc đối với đề bài tả về đồvật mà em thích nhất, đã viết : “...con mắt có
cặp mắt đen sì .... mũi nhọn như bóng ...”.ếm
Sở dĩ các em dùng từ như vậy là do không nắm được từ đồng nghĩa, cơ sở
tạo nên từ nhiều nghĩa.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp và tổ chức các buổi Sinh hoạt chuyên môn sâu.


Bản thân tôi thường trao đổi với ban giám hiệu, bạn bè đồng nghiệp, tổ chức
các buổi sinh hoạt chuyên môn sâu về việc dạy từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa- từ
đồng âm,để tìm ra cái hay, cái mới trong giảng dạy giúp các đồng chí của mình rút
ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích cho bản thân.
2.3.2. Học hỏi ở trong sách, tham khảo tài liệu, tham khảo một số sáng kiến
kinh nghiệm của đồng nghiệp hay SKKN trên mạng I-tơ-nét và tham gia các
buổi chuyên đề.
Tôi thường xuyên đọc sách,tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về từ đồng
nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm.Tham gia tốt vào các buổi chuyên đề, chuyên đề
dạy bồi dưỡng học sinh giỏi do phòng giáo dục TP triển khai, ghi chép cẩn thận,
trao đổi với các bạn đồng nghiệp ở trường khác để rút kinh nghiệm trong việc quản
lý tổ chức giảng dạy của mình.
7


2.3.3. Hướng dẫn, chia sẻ với giáo viên, tổ chức sinh hoạt chuyên môn sâu khi
dạy học sinh học các khái niệm về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm.
Từ đồng nghĩa :
Định nghĩa:
+ Từ đồng nghĩa là các từ khác nhau về mặt ngữ âm nhưng giống nhau về
mặt ý nghĩa, chúng cùng biểu thị các sắc thái khác nhau của cùng một khái niệm.
( Tài liệu của Trường đại họcVinh )
Ví dụ: Cùng nói đến khái niệm ăn có xơi, nhậu, nhẹt ...
+ Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau .
Ví dụ: siêng năng, chăm chỉ,cần cù, chịu khó…
+ Có những từ đồng nghĩa hoàn toàn, có thế thay thế cho nhau trong lời nói.
Ví dụ : hổ, cọp, hùm, ...
+ Có những từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Khi dùng những từ này, ta phải
cân nhắc để lựa chọn cho đúng.Ví dụ :
- ăn, xơi, chén,... (biểu thị thái độ, tình cảm khác nhau đối với người đối

thoại hoặc điều được nói đến).
- mang, khiêng, vác, ...( biểu thị những cách thức hành động khác
nhau ) (Sách Tiếng Việt 5 tập 1)
Từ nhiều nghĩa :
Định nghĩa :
+ Là từ dùng một hình thức âm thanh biểu thị nhiều ý nghĩa (biểu thị nhiều
sự vật, hiện tượng khác nhau ), các ý nghĩa có quan hệ với nhau, chúng lập thành
một trật tự,một cơ cấu nghĩa nhất định .
Ví dụ : đầu : (1)bộ phận trên hết của người, bộ phận trước hết của người của vật
(2)trí tuệ thông minh : anh ấy là người có cái đầu.
(3)Vị trí danh dự : anh ấy luôn đứng đầu lớp về mọi mặt.
(4)Vị trí tận cùng của sự vật : Anh ở đầu sông em cuối sông
(Tài liệu của trường đại học Vinh –Chu Thị Thủy An)

8


+ Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau
Ví dụ : - Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt)
- Quả na mở mắt (quả na bắt đầu chín,có những vết nứt rộng ra giống hình
con mắt) ( Sách Tiếng Việt 5 Tập 1)
Từ đồng âm
Định nghĩa:
Từ đồng âm là những từ giống nhau về ngữ âm nhưng khác nhau về ý
nghĩa. Ví dụ : Cổ: bộ phận cơ thể con người và cổ :xưa, lạc hậu
bác: anh, chị của bố mẹ và bác là chưng cất, bác là phủ định, bác
là bố(Bác mẹ em nghèo) (Tài liệu của trường Đại học Vinh –Chu Thị Thủy An)
Ngôn ngữ có tính tiết kiệm cho nên tất yếu dẫn đến hiện tượng đồng âm.
Tuy nhiên đồng âm trong Tiếng Việt có đặc điểm riêng :

Thường xảy ra ở những từ có cấu trúc đơn giản (các từ đơn tiết) .
Các từ đồng âm trong Tiếng Việt chỉ xảy ra trong ngữ cảnh vì Tiếng Việt là
ngôn ngữ không biến hình
Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa Ví
dụ : a) Ông ngồi câu cá (Câu là họat động bắt cá, tôm bằng móc sắt nhỏ
(thường có mồi) buộc ở đầu một sợi dây )
Đoạn văn này có 5 câu (câu là đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn vẹn ,
trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một
dấu ngắt câu) (Sách Tiếng Việt 5 tập 1)
2.3.4. Giúp giáo viên Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ
nhiều nghĩa, từ đồng âm.
2.3.4.1. Từ đồng nghĩa:
Bản chất của từ đồng nghĩa: Thực tế học sinh thường nhầm lẫn giữa từ đồng
nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm. Không nắm được nghĩa của chúng bởi vì định
nghĩa về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa chính xác dẫn đến sự khó
khăn cho HS trong vịêc nhận diện. Phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng
9


âm chỉ dựa vào định nghĩa là chưa đủ. Đứng trước thực tế đó nên tôi đã mở rộng
thêm cho HS một số kiến thức sau:
-Từ đồng nghĩa: Bản chất của từ đồng nghĩa (tính ở mức độ của từ đồng nghĩa )
Khả năng họat động tác động đến sự di chuyển của các sự vật có các từ: ném,

lao, phóng, quăng, vứt, xán xô, đẩy liệng, tống đạp, đá, nhấn, dìm, kéo, dật, rút,
gieo, rắc, vãi, trút, xoay, quay, gồng,, gánh...
Căn cứ vào chiều di chuyển để chia ra các nhóm đồng nghĩa .
-Di chuyển ra xa chủ thể: ném, phóng, lao...
-Di chuyển gần lại: lôi, kéo, co, giật, rút...
-Di chuyển quay xung quanh chủ thể: gánh,xoay, quay...

-Di chuyển cùng chủ thể: Gồng, gánh, bưng, đội, cõng...
Các từ trong từng nhóm có mức độ đồng nghĩa cao hơn so với các từ trong
các nhóm khác .
Bản chất của từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa
nhưng có tính mức độ .Tính mức độ này là do các từ ngoài sự đồng nhất thì
có sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa.
Ví dụ: Về trạng thái chấm dứt sự sống: chết, hi sinh, tử, mất, qua đời....
Về hiện tượng hấp thụ thức ăn: Tống, hốc, tọng, ăn...
Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và khác
nhau .Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái .
Ví dụ 1: Quả, trái
Giống nhau : Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định(quả
mít/ trái mít)
Khác nhau : Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát ra sắc thái
tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương,... (quả tim/ trái tim; quả trứng/trái
trứng*)
Ví dụ 2 : Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một
cái gì đó (Giữ quần áo; bảo vệ quần áo)
Tuy nhiên hai từ này điểm khác nhau :
10


- Bảo vệ phù hợp với đối tượng lớn. trừu tượng; Giữ gìn phù hợp với đối
tượng nhỏ, quý (Giữ gìn đòan kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình
,Bảo vệ đất nước)
- Bảo vệ có nét nghĩa ngăn ngừa, phòng chống, ngăn chặn sự tác động của
bên ngoài ; giữ gìn có tính chất thụ động giữ cái đã có, không có sắc thái chống lại
thế lực bên ngoài .(Bảo vệ luận văn khác Giữ gìn luận văn)
Ví dụ 3 : Không phận, vùng trời có nét nghĩa chung là chỉ biên giới phía trên
của một quốc gia. (Địch xâm phạm vùng trời Việt Nam; Địch xâm phạm không

phận Việt Nam). Sự khác nhau là: Vùng trời có khả năng chỉ một khoảng không cụ
thể Còn không phận thì không có khả năng này. (Vùng trời quê tôi thật yên là ả)
Ví dụ 4 : Chọn, lựa, tuyển, kén có nghĩa chung là tìm ra cái gì đó cùng loại
với nó. Khác nhau ở điểm: Chọn thiên về cái tốt, số lượng đối tượng nhiều, từ cái
mình có mà ra; lựa thiên về loại bỏ cái xấu, số lượng đối tượng ít, xuất phát từ đối
tượng mà tìm; Tuyển là số lượng đã biết trước; Kén dùng cho người có tính chất
khắt khe cá nhân.
Ví dụ 5: Nhanh, mau, chóng (Hiệp thợ này nhanh vì họ làm mau nên chóng
xong). Nhanh chỉ tính chất chung, mau chỉ thao tác, chóng chỉ thời gian .
Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm
Ví dụ 1: Cho, biếu, tặng : Cho có sắc thái trung hòa, Biếu có sắc thái kính
trọng , tặng có sắc thái thân mật .
Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng
các từ đồng nghĩa khác nhau.Hay nói cách khác, các từ đồng nghĩa không phải
bao giờ cũng thay thế cho nhau được, chúng đồng nghĩa với nhau vì chúng vừa
giống nhau vừa khác nhau .
Ví dụ : Hoài sơn/ củ mài ; trần bì/ vỏ quýt: Các từ Hán Việt dùng trong khoa
học, các từ thuần Việt dùng trong đời sống .
Hiện tượng đồng nghĩa không tách rời hiện tượng đa nghĩa, đó là nguyên
nhân của tính mức độ. Các từ đồng nghĩa với nhau không phải đồng nghĩa về

11


tòan bộ dung lượng nghiã của nó mà chỉ đồng nghĩa ở một một nghĩa nào đó
mà thôi.
Ví dụ : Trông có ba nghĩa: - Hướng mắt quan sát
- Giữ, chăm sóc
- Nương vào, nhờ vào
Dựa có ba nghĩa: -Theo, căn cứ theo

-Tựa vào, nhờ vào
-Nương vào, nhờ vào
Trông và dựa đồng nghĩa với nhau ở nghĩa thứ ba
Một từ nếu là từ đa nghĩa, với các nghĩa gốc khác của nó, nó có thể đồng
nghĩa với nhiều từ khác nhau
Ví dụ :

Ăn-Thắng (Đội tớ ăn rồi, đội cậu thua )

-Hợp (ăn cánh, ăn ảnh, ăn hình )
-Hưởng, nhận ( tàu ăn than)
-Hao, tốn ( xe ăn xăng)
* Phân loại từ đồng nghĩa:
Từ đồng nghĩa xẩy ra ở nhiều cấp độ :
-Hình vị với hình vị : xanh- thanh- lam-bích- lục
Đánh- chiến – kích -đấu

-Từ với từ : Thiên- trời ; sơn –núi
-Từ Hán Việt với từ thuần Việt : Huynh đệ-Anh em; phụ nữ- đàn bà
-Từ thuần Việt với từ Thuần Việt : biếu - cho, -Cụm từ với cụm từ : ....
* Nguồn gốc của từ đồng nghĩa:
Đồng nghĩa do cấu tạo từ , đồng nghĩa sẵn có giữa các yếu tố thuần Việt.
Ví dụ : Từ các từ Nhanh, mau, chóng có thể cấu tạo ra hàng lọat từ:
Nhanh : nhanh chóng , nhanh nhanh, nhanh nhẹn, nhanh nhạy
Mau : mau chóng, mau lẹ
Chóng chóng vánh, nhanh chóng...

12



Đồng nghĩa do vay mượn : Đó là hiện tượng đã có từ A vay mượn B và
cả hai cùng chi X
- Đồng ở nghĩa cấp độ yếu tố cấu tạo ( hình vị): xa-xe ; bích , thanh-xanh
- Đồng nghĩa giữa từ với từ: bằng hữu- bạn bè
- Đồng nghĩa giữa các từ vay mượn với nhau
Điện thoại – Telephon

Bụt ( bụt đà)- phật

Cân- ki-lô- gam

(Môn khơme)-(Hán)

(Hán)- (Pháp)
Từ đồng nghĩa do từ tòan dân và từ địa phương
Ví dụ : Bắp/ ngô/ sạo/xà lì; bát / đọi-chén; heo/ lợn; đu đủ / moọng coong/;
hành tăm/thun...
Từ đồng nghĩa do sự phảt triển của từ đa nghĩa
Ví dụ : Trông: (1) nhín
(2)chăm sóc
(3)căn cứ theo
Do sự phát triển nghĩa như trên mà hai từ trông, dựa, có quan hệ đồng nghĩa
với nhau :(3) của trông đồng nghĩa với từ của dựa
2.3.4.2. Từ nhiều nghĩa
*Cơ cấu của từ đa nghĩa:
Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa, trải quan thời gian có thêm
nhiều nghĩa mới ( nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ nghĩa cơ sớ (nghĩa
gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định.
Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của sự
vật được phản ánh trong ngôn ngữ trong nghĩa gốc của từ dưới dạng các nét nghĩa trở

thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới .Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng
(ẩn dụ) và tương cận (hoán dụ )người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia trên
những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vẩt ấy .Từ
chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính
chất, hành động khác nghĩa (nghĩa 2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó.

13


Ví dụ : Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát
triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
(2)Chỉ quá trình vận động, quá trình rèn luyện từ đó, khi đạt đến
sự phát triển cao nhất . (Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín)

(3)Sự thay đổi màu sắc nước da. (ngượng chín cả mặt )
(4)Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm. (cam chín).
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa , trước hết phải, miêu tả
thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa. Nghĩa
của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở :
* Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau:
- Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các
sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.

Ví dụ : Mũi (mũi người) và Mũi ( mũi thuyền) :Miệng ( miệng xinh) và
1

2

1


miệng (miệng bát)
2

Dạng 2 : Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức
năng, của các sự vật, đối tượng .
Ví dụ : cắt (cắt cỏ) với cắt (cắt quan hệ )
1

2

Dạng 3 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các
sự vật đối với con người.
Ví dụ: đau (đau vết mổ) và đau (đau lòng
1

2

) +Theo cơ chế hoán dụ có tác dụng.

-Dạng :Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
1

Ví dụ: Chân , Tay , mặt là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ
1

1

1

cái toàn thể ( anh ấy có chân trong đội bóng Tay bảo vệ của nhà máy số ba có Mặt

2

2

2

trong hội nghị)
Dạng : nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.
2

Ví dụ : Nhà Là công trình xâu dựng (Anh trai tôi đang làm
1

nhà) Nhà là gia đình ( Cả nhà có mặt)
2

14


Ví dụ 2: Thúng : Đồ vật dùng để đựng đan bằng tre hoặc nứa( Cái thúng này
1

đan khéo quá)
Thúng : Chỉ đơn vị ( Hai thúng lúa)
2

Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển dựa trên nguyên liệu hay công cụ với sản
phẩm được làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu
hay công cụ đó .
Ví dụ: Muối : Nguyên liệu ( Một kg muối) ; muối : hành động làm cho thức

1

2

ăn chín hoặc lên men ( Chị ấy muối cà ngon lắm)
2.3.4.3. Từ đồng âm
*

Văn cảnh( ngữ cảnh) là tập hợp những từ đi kèm một từ nào đó tạo

cho từ tính xác định về nghĩa .
* Họat động của từ đồng âm:
- Tạo ra những văn cảnh trong đó có nhiều từ đồng âm xuất hiện:
Con ngựa đá con ngựa đá con ngựa đá không đá con ngựa.
-Tạo ra những ngữ cảnh đan xen nhau trong đó có một yếu tố nào đó được
hiểu gấp đôi .
Bà già đi chợ cầu đông,
Bói xem một qủa lấy chồng lợi chăng.
Thầy bói gieo quả nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn .
- Tạo ra những ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện
nhưng nó lại được đi kèm với yếu tố khác, có tác dụng nhắc gợi nhau.
Con công đi qua chùa kênh,Có nghe tiếng cồng nó kềnh cổ ra.
Con cóc leo cây võng cách, nó rơi phải cọc nó cạch đến già.
- Tạo ra ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện được trong
quan hệ với các yếu tố đồng nghĩa.
1- Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
2- Cuốc xuống ao uống nước, Gà vào vườn ăn kê
1

5


3- Chuồng gà kê áp chuồng vịt
4- Trời mưa đất thịt trơn như mỡ
Dò đến hàng nem chả muốn ăn
5- Một chiếc cùi lim chân có đế
Ba vòng xịch sắt bước còn vương
* Nguyên nhân có hiện tượng đồng âm
- Sẵn có
- Vay mượn
- Từ đa nghĩa phát triển đến mức tối đa .
Sau khi mở rộng cho HS một số khái niệm cơ bản cần thiết về từ đồng nghĩa,
từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn HS so sánh sự giống nhau và khác
nhau giữa chúng .
*Khác nhau :
Từ đồng
nghĩa

Từ nhiều nghĩa

Từ đồng
âm

Là những
từ có

Nghĩa của từ được phát triển dựa trên hai cơ sở :
Cơ sở tạo ra
-Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau : từ đồng âm


nghĩa

+D :Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình là do tính

giống

thức giữa các sự vật hiện tượng hay nói cách khác là dựa

1

chất tiết

nhau hoặc vào các kiểu tương quan về hình dáng Ví dụ : Mũi ( mũi

kiệm

gần giống người), mũi (mũi thuyền)

-Thường

1

2

nhau.

+D : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ về cách thức xẩy ra ở

Ví dụ :


hay chức năng của các sự vật, đối tượng .Ví dụ: Cắt ( cắt

những từ có

Siêng

cỏ), cắt (cắt quan hệ)

cấu trúc

năng,

D :Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác

đơn giản

2

1

2

3

chăm chỉ, động của các sự vật đối với con người Ví dụ: đau (đau vết -Các từ
1

cần cù ,...


mổ), đau (đau lòng)

đồng âm

- Theo cơ chế hoán dụ có các dạng:

trong Tiếng

2

+D :Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận Việt chỉ xẩy
1

và tòan thể Ví dụ : Chân , tay ,mặt là những tên gọi chỉ bộ ra trong
1

1

1

16


phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể (Anh ấy có Chân
trong đội bóng ; Tay bảo vệ của nhà máy số ba có mặt
2

2

2


trong hội nghị )

ngữ cảnh vì
Tiếng Việt
là ngôn ngữ

+D : Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với không biến
2

cái được chứa.Ví dụ :Nhà là công trình xây dựng (Tôi đang hình
1

làm nhà),Nhà là gia đình(Cả nhà ăn cơm )
2

D :Nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ nguyên liệu hay
3

công cụ với sản phẩm làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó
hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó .Ví dụ:
Muối nguyên liệu( một kg muối);muối hành động làm cho
1

2

thức ăn chín hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa rất ngon)
*Giống nhau :
Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau
Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thường dễ nhầm lẫn :

Ví dụ : ba: ba : (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
(2) số từ: Số ba là con số không may mắn .
Học sinh có thể nhầm lẫn từ “ba” là từ nhiều nghĩa vì có hình thức âm thanh giống
nhau. Khi gặp trường hợp này tôi đã phân biệt để học sinh thấy được giữa các nét
nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau còn ở đây các nét nghĩa
không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa
Trường hợp ví dụ trên là từ đồng âm .
* Để giúp học sinh có thể phân biệt được là từ nhiều nghĩa hay là từ đồng âm
cần giúp HS xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối với từ nhiều nghĩa ),
nêu loại trừ được có quan hệ về các nét thì đó là từ đồng âm còn ngược lại nếu
đồng âm nhưng có quan hệ về các nét nghĩa nữa thì đó là từ nhiều nghĩa.
2.4 Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục:
* Kết quả thu được:
Năm học 2016-2017 này tôi được phân công phụ trách chuyên môn khối 4&5 .Với
việc nghiên cứu quản lý và tổ chức dạy -học cho HS khối 5, tất cả có có 155 em
học sinh, tôi lần lượt sử dụng các giải pháp trên bằng cách lựa chọn và phân bố hợp
lí theo từng nội 17


dung của bài, lấy nhiều ví dụ minh họa giúp giáo viên nắm vững hơn để giúp học
sinh hiểu được đặc điểm cơ bản của các loại từ trên từ đó có thể phân biệt và nhận
dạng dễ dàng hơn trong khi làm bài tập. Tôi đã thu được kết quả khảo sát lại.
* Về chất lượng:

Thời điểm dạy và học

Học kì I

Giữa học kì
II


Số học sinh phân biệt được từ đồng nghĩa, từ nhiều

102 em

149em

nghĩa, từ đồng âm.

65,7%

96,1 %

Số học sinh đạt điểm 7 trở lên

95 em

117 em

61,2 %

75,8 %

3. Kết luận, kiến nghị
* Kết luận:
Sau khi thực hiện đề tài tôi rút ra kết luận và bài học như sau:
- Để giúp học sinh phân biệt và làm đúng được yêu cầu của bài tập về từ đồng
nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm trong quá trình dạy học – người giáo viên cần :
- Giúp học sinh xác định rõ các đặc điểm, cấu tạo của chúng về hình thức và bản chất


- Khi dạy bài này “từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm” giáo viên cần bổ
sung định nghĩa về từ nhiều nghĩa nữa: “Là từ dùng một hình thức âm thanh biểu
thị nhiều ý nghĩa,...chúng lập thành một trật tự, một cơ cấu nghĩa nhất định"
- Phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có nhiều từ học sinh dễ nhầm lẫn và khó
xác định là đồng âm hay nhiều nghĩa giáo viên cần giúp các em nhấn mạnh ở khái
niệm về từ đồng âm:Chúng giống nhau là có hình thức âm thanh giống nhau nhưng
đối với từ đồng âm thì nghĩa của từ hoàn toàn khác nhau ; còn từ nhiều nghĩa thì ý
nghĩa của các từ đó có quan hệ với nhau.Giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh phân
biệt nghĩa sau đó mới đưa ra kết luận .
- Tạo mọi điều kiện giúp học sinh được bộc lộ cách hiểu của mình về từ nhiều
nghĩa và từ đồng âm.
18


- Thường xuyên tham khảo nhiều tài liệu đã được cung cấp,để áp dụng trong
giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn đạt hiệu quả cao.
- Luôn gần gũi, tạo niềm tin cũng như tin tưởng các thành viên trong tổ khi thực
hiện nhiệm vụ.
- Luôn chuẩn bị trước nội dung kiến thức về: Từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa,
từ đồng âm.
- Ngoài các tiết dự giờ theo qui định, tôi đã tăng cường dự giờ thêm, góp ý ,chia
sẻ với những giáo viên có tay nghề cũng như vốn kiến thức còn hạn chế.
* Tóm lại: “Công tác quản lí,chỉ đạo công tác dạy và học giúp HS lớp 5 phân
biệt từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa, từ đồng âm”: tổ chức phù hợp, chỉ đạo sát sao
và thường xuyên kiểm tra đôn đốc.Muốn cho chất lượng sinh được nâng lên thì
người cán bộ quản lí phải kiên trì, không thể nóng vội, phải thực hiện dần dần từng
chút một, mưa dầm thấm sâu chứ không thể đốt cháy giai đoạn, không thể làm cho
năng lực của đội ngũ giáo viên ngay lập tức nâng cao ngay được.Phải tổ chức,
hướng dẫn một cách cụ thể, tỉ mỉ từ khâu kế hoạch đến nội dung thực hiện,thể hiện
từ khâu góp ý, trao đổi, giúp đỡ cho đến từng buổi sinh hoạt tổ chuyên môn. Quản

lí cả về thời gian, thời lượng, quan tâm từ nội dung đến cách tiến hành và quan
trọng nhất là kết quả cuối cùng thể hiện ở chất lượng học tập của học sinh.
* Những đề xuất:
1. Đối với Bộ GD&ĐT
- Kiểm soát các loại sách nâng cao, sách tham khảo, sách chuyên đề phục vụ
cho việc dạy và học môn tiếng việt lớp 5
- Cho dù chúng ta không đánh giá học sinh bằng điểm số, để không gây áp
lực cho học sinh. Nhưng để tìm và ươm mầm cho các tài năng đi thi ở các đấu
trường Quốc tế thì chúng ta phải bắt đầu nền móng "bậc Tiểu học". Mong rằng các
cấp bộ ngành có liên quan nghiên cứu kĩ các vấn đề cải cách giáo dục một cách
thiết thực hơn, không mang tính hình thức.
2. Đối vói Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT
19


- Mở lớp chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối với
“ Từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm”.
3. Đối với ban giám hiệu nhà trường
- Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo
phục vụ giảng dạy nhất là các tạp trí: Giáo dục tiểu học, Thế giới trong ta...
Trên đây là:“Một số giải pháp chỉ đạo công tác dạy và học giúp HS lớp 5
phân biệt từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa, từ đồng âm”. để nâng cao chất lượng
dạy học của trường mình mà tôi đã áp dụng tại trường Tiểu Đông Cương. Mặc dù
đã có rất nhiều cố gắng nhưng chắc rằng còn có những thiếu sót. Kính mong được
sự đóng góp ý kiến của các cấp quản lí để tôi làm tốt hơn nhiệm vụ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG NHÀ
TRƯỜNG


Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không
sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hương

20



×